Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

HÃY CHO BIẾT NGUYÊN NHÂN dẫn đến nợ CÔNG ẢNH HƯỞNG của nợ CÔNG đối với nền KINH tế THỰC TRẠNG nợ CÔNG ở VIỆT NAM các BIỆN PHÁP CHÍNH PHỦ VIỆT NAM có THỂ THỰC HIỆN để GIẢM nợ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.48 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1. Khái quát chung
1. Khái niệm
2. Bản chất kinh tế của nợ công
3. Phân loại các kiểu nợ cơng
4 .Tiêu chí đo lường nợ cơng
5. Các vấn đề gặp phải khi tính tốn nợ chính phủ.
6. Tác động của nợ công lên nền kinh tế quốc gia
Chương 2. Nguyên nhân dẫn đến nợ công?
Chương 3. Ảnh hưởng của nợ công đối với nền kinh tế?
Chương 4. Thực trạng nợ công ở Việt Nam?
Chương 5. Các biện pháp chính phủ Việt Nam có thể thực hiện để giảm nợ cơng?
Kết luận
Danh sách nhóm 1:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14


Họ tên
Phạm Bá Phi
Nguyễn An Hưng
Dương Thùy Linh
Hoàng Thị Ngọc Hoa
Nguyễn Thị Thu Hà
Nguyễn Thị Tuyết Lan
Phạm Thị Ngọc Hà
Nguyễn Khắc Chính
Trần Thanh Sơn
Nguyễn Thị Huệ
Nguyễn Thị Huyền
Nguyễn Minh Quý
Lê Thị Ngọc Ánh
Lê Minh Tuấn

Vị trí
Trưởng Nhóm
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên

Thành viên

Mức độ đóng góp

Mở đầu
Hiện nay vấn đề nợ công đang trở thành mối lo ngại lớn cho các nền kinh tế. Cuộc khủng
hoảng nợ ở Hi Lạp vẫn chưa được giải quyết triệt để, bất chấp sự hợp tác từ nhiều phía với các
gói cứu trợ khổng lồ. Nguy cơ khủng hoảng nợ ngày càng lan rộng ra ở nhiều nước gây hoang
mang cho giới đầu tư. Tại Việt Nam tỉ lệ nợ công trên GDP lớn hơn 50% (năm 2011) cùng với

1


sự kiện rối ren về khối nợ khổng lồ do chính phủ đảm bảo của tập đồn Vinashin đã thực sự gây
chấn động. Trước hiện tượng này, việc tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng lên nợ công và liệu nợ
cơng có thực sự đe dọa sự phát triển bền vững của quốc gia hay không thực sự rất quan trọng.
Dựa trên những tiền đề lí thuyết đã được cơng bố trước đó trong và ngồi nước, kết quả cho thấy
thuế, cấu trúc thuế phức tạp, chính sách tài khóa yếu kém, rủi ro tỉ giá, đầu tư kém hiệu quả…
có ảnh hưởng lớn đến khoản nợ vay của chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngồi. Bên cạnh đó,
khoản nợ vay lớn cũng gây gánh nặng lên tăng trưởng kinh tế thơng qua thâm hụt tài khóa. Ý
tưởng này đã được ủng hộ mạnh mẽ qua mơ hình kiểm định tại Việt Nam với kết quả tương
quan nghịch chiều rất rõ ràng giữa thâm hụt và tăng trưởng. Từ mối tương quan nghịch này lại
dẫn đến vòng lẫn quẩn nợ công-thâm hụt-hạn chế tăng trưởng. Bài nghiên cứu này tập trung chủ
yếu vào các quốc gia đang phát triển để tiện liên hệ với tình hình Việt Nam. Ngồi ra, bài nghiên
cứu cịn ước tính tác động của nợ nội địa đối với tăng trưởng thông qua dữ liệu nợ công của Việt
Nam trong suốt thời kỳ đổi mới. Kết quả nghiên cứu cho thấy biến số nợ công nội địa được xác
định là có ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP bình qn đầu người tính theo chuẩn PPP tại Việt
Nam, và có mối quan hệ nhân quả với lạm phát và tiết kiệm.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về nợ công,
chúng em quyết định chọn đề tài: “HÃY CHO BIẾT NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NỢ

CÔNG? ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ CÔNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ? THỰC TRẠNG NỢ
CÔNG Ở VIỆT NAM? CÁC BIỆN PHÁP CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CĨ THỂ THỰC
HIỆN ĐỂ GIẢM NỢ CƠNG?”
Chúng Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cơ giáo Nguyễn Thu Hiền
đã giúp chúng em hồn thành đề thảo luận này

Chương 1. Khái quát chung.
1 Khái niệm.
Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trong một vài giai đoạn nhất
định, Nhà nước của một quốc gia cần huy động nhiều nguồn lực từ cả trong và ngoài nước. Khi
các khoản thu truyền thống như các loại thuế phí, lệ phí khơng đáp ứng được các nhu cầu chi

2


tiêu, Nhà nước phải vay nợ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Khoản nợ đó được
gọi là nợ công.
Khái niệm nợ công là một khái niệm phức tạp, nó được hiểu đơn giản là khoản nợ của
một quốc gia mà Chính Phủ của quốc gia đó có trách nhiệm chi trả. Do đó, thuật ngữ nợ công
thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ khác như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ.
Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt rằng nợ cơng khác hồn toàn với nợ quốc gia.
Nợ quốc gia là toàn bộ số nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm cả nợ công của Nhà
nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân) của quốc gia đó. Điều này có nghĩa nợ
cơng chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia.
Theo định nghĩa từ Ngân hàng thế giới, nợ cơng là nghĩa vụ nợ của các nhóm chủ thể sau
đây:
– Nợ của Chính phủ và nợ từ các Bộ, Ban, ngành thuộc quản lý của Chính phủ;
– Nợ của các cấp chính quyền địa phương;
– Nợ của Ngân hàng trung ương;
– Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập

ngân sách được Chính phủ thơng qua hoặc Chính phủ sẽ là người có trách nhiệm trả nợ nếu tổ
chức đó vỡ nợ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, luật khơng có một định nghĩa chính xác
nào về nợ cơng. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý nợ công 2009 thì nợ
cơng bao gồm:
- Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký
kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài
chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ khơng
bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền
tệ trong từng thời kỳ. (khoản 2 Điều 3 Luật Quản lý nợ công 2009);
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của DN, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong
nước, nước ngồi được Chính phủ bảo lãnh. (khoản 3 Điều 3 Luật Quản lý nợ cơng 2009);
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền
phát hành. (khoản 4 Điều 3 Luật Quản lý nợ cơng 2009);
Vì lẽ đó, khái niệm về nợ công tại Việt Nam được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ
của quốc tế. Nhận định này cũng được nhiều chuyên gia uy tín trong lĩnh vực chính sách cơng
thừa nhận. Tuy có nhiều cách giải thích khác nhau về nợ cơng, nhưng về cơ bản thì khái niệm
này có những đặc điểm như sau:
– Nợ cơng là khoản nợ mà Nhà nước có trách nhiệm phải chi trả. Không như khoản nợ
thông thường, nợ công là khoản nợ mà Nhà nước (hoặc các cơ quan thuộc quản lý của Nhà
nước) có trách nhiệm phải trả đầy đủ khoản nợ ấy. Trách nhiệm này của Nhà nước được thể hiện
dưới hai hình thức trực tiếp và gián tiếp.
Trách nhiệm trực tiếp được hiểu là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và
cũng là người trả khoản nợ đó (bao gồm: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa phương).
Cịn gián tiếp là trong trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh cho một tổ
chức trong nước vay nợ. Trong trường hợp chủ thể vay không thể trả được nợ thì trách nhiệm trả

3



nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (Ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển
Việt Nam vay vốn nước ngồi).
– Nợ cơng được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công được quản lý rất chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích
quan trọng của nhà nước.
– Mục tiêu cao nhất của việc huy động và sử dụng nợ cơng là để phát triển kinh tế – xã
hội vì lợi ích chung. Nợ cơng được huy động và sử dụng khơng để thỏa mãn lợi ích riêng của
bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của quốc gia. Điều này xuất phát từ chức
năng của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội. Nhà nước sinh ra là của
dân, do dân, vì dân. Do đó, các khoản nợ cơng đều phải đáp ứng mục đích vì lợi ích của nhân
dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế – xã hội.
2 Bản chất kinh tế của nợ công.
Việc nghiên cứu và làm rõ bản chất kinh tế của nợ công trong kinh tế học sẽ giúp các nhà
làm luật xây dựng các quy định pháp luật phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội nhằm đạt được
hiệu quả trong việc sử dụng nợ công tại Việt Nam. Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nước bắt
buộc phải chi tiêu vượt quá khả năng thu của mình (các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu
khác) thì bắt buộc phải vay vốn và điều đó làm gia tăng nợ cơng của Chính phủ. Như vậy, nợ
công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và có trách nhiệm chi trả khoản nợ đó. Lúc
này, nghiên cứu về nợ cơng phải bắt nguồn từ quan niệm từ việc Nhà nước đi vay như thế nào,
vay để làm gì…
Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc hết sức quan trọng về ngân sách được các
nhà kinh tế học hết sức coi trọng và hiện nay nguyên tắc này cũng được áp dụng tại nhiều quốc
gia, đó là quy tắc thăng bằng. Trong kinh tế học cổ điển, nguyên tắc thăng bằng trong ngân sách
được hiểu đơn giản là số chi bằng số thu. Về ý nghĩa kinh tế, nguyên tắc này giúp Nhà nước hạn
chế việc chi tiêu hoang phí. Về mặt chính trị, điều này giúp Chính phủ tránh lạm thu thơng qua
việc quyết định các khoản thuế, phí.
Tuy nhiên, ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế có ảnh hưởng mạnh
mẽ ở nửa đầu thế kỷ XX là John M.Keynes (1883-1946) và những người ủng hộ ông (gọi là
những người theo trường phái Keynes) lại cho rằng, trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi nền

kinh tế suy thoái dẫn đến việc đầu tư của tư nhân giảm thấp, thì Nhà nước cần ổn định đầu tư
bằng cách vay tiền (tức là cố ý tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia đầu tư các cơng trình
cơng cộng như đường xá, cầu cống và trường học cho đến khi quốc gia có sự cân bằng trở lại.
Học thuyết này của Keynes (sau này được đóng góp và chỉnh sửa bởi Milton Friedman và Paul
Samuelson) được rất nhiều Chính phủ áp dụng ngày nay để vượt qua khủng hoảng và vượt qua
tình trạng trì trệ của nền kinh tế. Hầu hết các quốc gia theo đuổi nền kinh tế thị trường đều có
hoạt động vay nợ. Việc vay nợ hầu hết thực hiện theo học thuyết Keynes, nhưng có hai điều
chính như sau:
– Thứ nhất, cố ý làm thâm hụt ngân sách và bù đắp bằng các khoản vay không được thực
hiện vĩnh viễn, bởi xét về lý thuyết thì những khoản vay chỉ có tác dụng ngắn hạn, về lâu dài lại
có ảnh hưởng tiêu cực, do đó Nhà nước cần có giới hạn về mặt thời gian trong việc sử dụng hiệu
quả nợ công.
– Thứ hai, các khoản nợ công cần được kiểm sốt kỹ lưỡng để đảm bảo sử dụng đúng
mục đích, đồng thời hạn chế các tác động không mong muốn từ việc sử dụng các khoản vay.

4


3 Phân loại các kiểu nợ cơng
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ cơng, mỗi tiêu chí đều đóng vai trò quan trọng trong
quản lý và sử dụng nợ cơng. Theo tiêu chí về nguồn gốc của vốn vay thì nợ cơng gồm hai loại:
nợ trong nước và nợ nước ngồi.
Nợ trong nước là nợ cơng mà bên cho vay là các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam.
Nợ nước ngồi là nợ cơng mà bên cho vay là các Chính phủ nước ngồi, các tổ chức tài
chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Theo luật Việt Nam, nợ nước ngồi khơng được
hiểu là bên cho vay là nước ngoài, mà toàn bộ các khoản nợ công không chỉ bao gồm nợ trong
nước.
Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ, giúp xác định chính xác tình
hình cán cân thanh tốn quốc tế. Mặt khác, việc quản lý nợ nước ngồi cịn nhằm đảm bảo an
ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam.

4 Tiêu chí đo lường nợ cơng.
Việc xác định nợ cơng ở mức an tồn hay khơng an tồn sẽ được xác định dựa trên:
+ Tỷ lệ của nợ công/GDP (tổng thu nhập quốc dân).
+ Thực chất nợ công/cơ cấu nợ cơng nước ngồi so với nợ cơng trong nước
+ Tình trạng sức khỏe của nền kinh tế
+ Các tiêu chí có mức chi phối khơng nhỏ: khoản nợ ngầm (các khoản nợ ngân hàng, nợ
doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo lãnh.
5. Các vấn đề gặp phải khi tính tốn nợ chính phủ.
- Lạm phát: Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính tốn thường khơng điều chỉnh ảnh
hưởng của lạm phát vì trong tính tốn chi tiêu của Chính phủ, người ta tính tốn các khoản trả
lãi vay theo lãi suất danh nghĩa trong khi đáng lẽ chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế.
Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã
bị phóng đại. Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của
yếu tố này rất lớn.
- Tài sản đầu tư: Nhiều nhà kinh tế cho rằng tính tốn nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng
giá trị của tài sản chính phủ. Điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân: khi một
cá nhân vay tiền để mua nhà thì khơng thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay
mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên khi tính tốn theo phương pháp này lại gặp phải
vấn đề những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính tốn giá trị của chúng như thế nào, ví
dụ: đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục ...
- Các khoản nợ tiềm tàng: Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính tốn nợ chính phủ đã bỏ
qua các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ
phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm
cho các khoản vay của người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ khơng có khả năng thanh
tốn...

6. Tác động của nợ công lên nền kinh tế quốc gia
Như phân tích nêu trên, nợ cơng vừa có tác động tích cực nhưng cũng có tác động tiêu
cực. Việc xác định tiêu cực và hạn chế những mặt tiêu cực là điều cần thiết trong xây dựng và
quản lý nợ công. Những tác động tiêu cực do nợ công gây ra có thể là:


5


Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ sở
hạ tầng và tăng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Với một nền kinh tế theo hướng kinh tế thị
trường như Việt Nam, để phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ thì vốn là yếu tố quan
trọng nhất. Với chính sách huy động nợ cơng hợp lý, nhu cầu vốn sẽ được giải quyết để đầu tư
cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
– Huy động nợ cơng góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một
bộ phận dân cư trong xã hội hay có các khoản tiết kiệm, thơng qua việc Nhà nước vay nợ mà mà
những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực
công và tư.
– Nợ công tận dụng nguồn trợ vốn từ nước ngoài và từ các tổ chức tài chính quốc tế. Tuy
nhiên, tài trợ quốc tế cũng là một trong những hoạt động ngoại giao – kinh tế mà các nước phát
triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia kém phát triển, tăng cường hợp tác kinh tế song
phương.
Ngược lại, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất định như gây áp lực lên
chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản vay từ nước ngoài. Nếu Nhà nước giám sát lỏng lẻo
việc sử dụng và quản lý nợ công, nguồn vay này sẽ tỏ ra kém hiệu quả và gây ra tình trạng tham
nhũng, lãng phí.
Chương 2. Ngun nhân gây ra tình trạng nợ cơng ở Việt Nam tăng cao (3-5 nguyên nhân)
Nợ công

Thâm hụt ngân sách

Đầu tư công kém hiệu quả

Tỷ giá hối đối


cao
Tiết
kiệm
trong
nước
giảm

Chi
tiêu
cơng
thấp

Nguồn
thu
giảm
sút

Đấu
thầu
kém
hiệu
quả

Thất
thốt
lãng
phí

Chất
lượng

kém

Xuất
khẩu

giảm

Thâm
hụt
thương
mại

Nhập
khẩu
tăng

Lạm
phát
cao

CPI
tăng

Tâm
lý số
đơng

Lãi
suất
cao


2.1. Ngun nhân trực tiếp
a. Hiệu quả sử dụng vốn vay
STT

1
2
3
4

Quốc gia
Mỹ
Nhật
Trung Quốc
Việt Nam

Tổng nợ công (tỷ USD)
11,700
12,570
1,350
70,8

Tỷ lệ nợ công/GDP
74,6%
224,9%
16%
49,5%

Tỷ lệ nợ công/người (USD)
37,206

99,713
1,015
791

6


Nguồn: vneconomy.vn, 31/1/2013

Nhìn vào số liệu bảng trên, câu hỏi đặt ra là: Nhật là nước có quy mơ nợ cơng lớn nhất
thế giới nhưng chính phủ lại khơng lo ngại nợ cơng. Trong khi đó,Việt Nam là nước có quy mô
nợ công nhỏ hơn nhiều so với các nước khác nhưng tại sao ta lại bị “rung chuông cảnh báo” về
nợ cơng. Như vậy, để đánh giá tính an tồn của nợ cơng của một nước, ta khơng chỉ đơn giản
nhìn vào quy mơ nợ cơng của nước đó. Điều này cũng dễ hiểu, đối với một người đi vay nợ thì
quy mơ của khoản nợ mà anh ta vay không quan trọng bằng hiệu quả sử dụng đồng vốn vay và
khả năng thanh toán nợ trong tương lai lâu dài của anh ta.
Nói đến hiệu quả sử dụng đồng vốn vay ta nghĩ ngay đến chỉ số ICOR (Incremental
Capital - Output Ratio). ICOR là một chỉ số cho biết muốn có thêm một đơn vị sản lượng trong
một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong kỳ đó. ICOR càng
cao thì chứng tỏ hiệu quả đầu tư càng thấp. Đối với một nước đang phát triển, chỉ số ICOR ở
mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển bền vững. Ta theo dõi biểu đồ sau để thấy
rõ về hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam qua các thời kì:
Biểu đồ: Chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2001-2013

Chỉ số ICOR
5.24

8
6
4

2
0

20

6.7

6.15

5.04

5.53
Chỉ số ICOR

0

2
1-

00

3
20

0
-2
04

06
20


0

2
7-

00

8
20

0
-2
09

10
20

1

2
1-

01

3

Nguồn: baomoi.com(số liệu 2001-2008); tuanvietnam..net(số liệu 2009-2013)
So với mức trung bình thì chỉ cố ICOR của Việt Nam cao hơn nhiều, cao nhất là giai
đoạn 2009-2010 trung bình 6,7 (riêng năm 2009 chỉ số ICOR chung của nền kinh tế Việt Nam là

8, của khu vực kinh tế nhà nước lên tới 12-thuộc hạng cao nhất thế giới). Trong những năm gần
đây mặc dù chỉ số ICOR có giảm xuống nhưng vẫn mức khá cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng
vốn của Việt Nam thấp đó là một trong những ngun nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng nợ cơng
của Việt Nam tăng cao.
b. Thâm hụt ngân sách Nhà Nước:
Thâm hụt ngân sách Nhà nước qua các năm (%GDP)

Nguồn: finance.tvsi.com.vn
Hiện nay, Việt Nam vẫn sử dụng hai khái niệm bội chi ngân sách: Bội chi theo tiêu chuẩn
quốc tế và Bội chi theo tiêu chuẩn Việt Nam (gồm bội chi theo chuẩn quốc tế cộng thêm phần
chi trả nợ gốc). Để bù đắp bội chi Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Do số
nợ vay được sử dụng vào những mục đích khơng sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải

7


trông vào phát hành nợ mới, đặc biệt là vay trong nước và ngân sách Nhà nước Việt Nam đang
đứng trước “vịng xốy” nợ nần với qui mơ nợ Chính phủ ngày càng lớn.
c. Cơ cấu khoản nợ
Tính rủi ro của nợ cơng Việt Nam cịn đến từ cơ cấu của khoản nợ. Như đã nói ở trên,
trong cơ cấu nợ cơng của Việt Nam, nợ nước ngồi chiếm tỷ trọng cao. Nợ nước ngoài của Việt
Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết, điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro
về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngồi của Chính phủ. Tuy nhiên, cơ cấu này
cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Nhìn vào biểu đồ,
tỷ trọng của các khoản vay bằng JPY, SDR và USD rất cao ( JPY chiếm 38,83%, SDR chiếm
27,06% và USD chiếm 22,16%). Điều này gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá
tăng.
Biểu đồ: Cơ cấu nợ nước ngồi của Chính phủ theo phân loại tiền tính đến 31.12.2011

Nguồn: nhipcaudautu.vn

Bên cạnh đó, mặc dù các điều khoản ưu đãi của ODA (nguồn cung cấp nợ nước ngoài
chủ yếu của Việt Nam) giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ cơng nhưng tỷ trọng nợ nước
ngồi tăng cao làm tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ công trong tương lai. Kinh nghiệm từ các
cuộc khủng hoảng nợ trong lịch sử cho thấy, khi tỷ trọng nợ nước ngồi q cao, Chính phủ sẽ
mất đi tính chủ động khi ứng phó với các biến động kinh tế thế giới và khó kiểm sốt các món
nợ vay phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và tâm lý các nhà đầu tư quốc tế. Khủng hoảng nợ của
Argentina (2001) và Hy Lạp hiện nay là minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của nguồn
nợ cơng từ nước ngồi. Trong khi đó,mặc dù Nhật có mức nợ công trên GDP rất cao nhưng nợ
công của Nhật vẫn được đánh giá là bền vững do nợ công chủ yếu được tài trợ từ các nhà đầu tư
trong nước.
d. Yếu tố lãi suất
Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó chủ yếu ở
mức 1% - 2,99%. Tuy nhiên, cùng với việc Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình
thấp, các khoản vay của Việt Nam có lãi suất cao hơn và khoản vay với lãi suất thả nổi ngày
càng tăng lên, gây áp lực nợ cho Chính phủ.
Ví dụ: Năm 2010, Trong 25,097 tỷ USD tổng nợ nước ngồi của Chính phủ có 19,313 tỷ
USD có lãi suất thấp như trên; trên 1,678 tỷ USD chịu lãi suất từ 3 – 5,99% (tăng 176 triệu USD
so với năm 2009) và có tới 1,888 tỷ USD ở mức lãi suất 6 – 10%, tăng hơn gấp đôi so với năm
2009. Ngoài ra, các khoản vay với lãi suất thả nổi cũng tăng 6,66 triệu USD so với 2009. Theo
Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm
vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Với tình hình này,
rõ ràng áp lực chi phí trả lãi đang ngày một lớn dần.
2.2. Nguyên nhân sâu xa

8


Thứ nhất, khả năng quản lý nợ công của ta còn bộc lộ nhiều điểm yếu kém.
Việt Nam hiện chưa có một ủy ban chuyên trách quản lý về nợ cơng đã dẫn đến việc
thiếu tập trung, thậm chí thiếu minh bạch trong việc quản lý, sử dụng vốn, tạo điều kiện thuận

lợi cho việc tham nhũng. Điều này làm gia tăng lo ngại về việc nợ cơng có thể trở thành “mối đe
dọa thứ 2”, sau lạm phát.
Việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong vấn đề nợ cơng cịn chưa rõ ràng. “Ở
Việt Nam có cái rất đặc biệt, là đôi khi người đi vay không phải người trả nợ, và người trả nợ
không phải người đi vay” nên “Các đầu mối về quản lý nợ cơng khơng có, dẫn đến tình trạng
trách nhiệm trong quản lý nợ công vẫn chưa rõ” (Chủ tịch Hội Kế tốn và Kiểm tốn Đặng Văn
Thanh).
Khu vực Chính phủ chưa được tách bạch rõ ràng ra khỏi phần còn lại của khu vực cơng
và phần cịn lại của nền kinh tế. Chính sách và vai trị quản lý của khu vực công chưa được công
khai cụ thể.
Do quản lý nợ cơng chưa chặt chẽ nên tỷ lệ thất thốt của các cơng trình đầu tư nhà nước
được thừa nhận chính thức đến khơng chính thức là từ 15% đến 45%. Có thể thấy phần thất
thốt là rất lớn.
Thứ hai, con số nợ cơng do Bộ Tài chính nêu ra chưa hồn tồn chính xác bởi cách tính
nợ cơng của Việt Nam chưa phản ánh đúng thực trạng và cũng khác xa so với thơng lệ quốc tế.
Do đó gây nên tranh cãi về những con số được công bố về tình hình nợ cơng của Việt Nam. TS.
Hồng Thị Thúy Nguyệt (Học viện Tài chính) cho rằng khi khơng tính đúng, tính đủ nợ cơng, có
thể đưa đến nhìn nhận lạc quan thái quá về ngưỡng an toàn nợ. Hệ quả là nợ có thể tăng nhanh
khó kiểm sốt.
Nhiều người cho rằng con số thực tế cao hơn nhiều và phần chênh lệch giữa những con
số đó đa phần nằm ở khoản nợ mà Nhà nước phải bảo lãnh cho những doanh nghiệp Nhà nước.
Theo ước tính, khoản vay của doanh nghiệp hiện chiếm khoảng 10% tổng dư nợ công và là
khoản đáng lo ngại nhất bởi phần lớn là vay với kỳ hạn ngắn. Trong trường hợp doanh nghiệp
mất khả năng trả nợ, Chính phủ đương nhiên sẽ phải gánh trách nhiệm với tư cách là người bảo
lãnh. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Sự kém cỏi đó thể
hiện qua tính toán đơn giản của TS. Lê Kim Sa (Trung tâm Châu Á - Thái Bình Dương) dựa trên
báo cáo 6 tháng đầu năm 2010 các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước lãi 6,6%. Nghe đến đây
khiến ta nghĩ rằng các tập đồn Nhà nước làm ăn cũng có hiệu quả nhưng trong cùng thời gian
này, lãi suất huy động trên thị trường là 11%. Như vậy, “Chẳng phải làm gì, chỉ cần gửi tiền vào
ngân hàng cũng có lời thêm 4% và đó là vấn đề. Nếu chúng ta khơng tạo ra được giá trị thực thì

nền kinh tế rất rủi ro”.
Với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nợ Chính phủ và nợ cơng gần như đồng
nhất vì khu vực doanh nghiệp Nhà nước của họ chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nhưng với Việt
Nam, nợ của doanh nghiệp Nhà nước có quy mơ xấp xỉ với nợ của Chính phủ nên nó chiếm tỷ
trọng khá lớn trong rổ nợ cơng. Năm 2005, Chính phủ đã phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra
thị trường chứng khốn New York và dùng tồn bộ số vốn này đầu tư cho các dự án của
Vinashin. Vinashin thua lỗ, khó có khả năng thanh tốn số nợ trên thì Chính phủ phải đứng ra trả
nợ thay.
Thứ ba, sự đầu tư dàn trải, thiếu tập trung. Vốn ưu tiên được phân bổ vào quá nhiều dự
án; các dự án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và chậm đưa cơng

9


trình vào sử dụng; đầu tư phân tán, dàn trải dẫn đến dư thừa công suất, tỷ suất sử dụng cơng
trình khơng đạt như dự kiến, chi phí vận hành không giảm; đầu tư thiếu đồng bộ, thiếu quy
hoạch, thiếu kế hoạch chi tiết, đầu tư các dự án không cần thiết dẫn tới cơng trình cụ thể hồn
thành mà khơng đưa vào sử dụng được hoặc cơng trình dở dang, khơng hồn thành được, lãng
phí vốn đầu tư. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến hiệu quả đầu tư thấp, kéo theo
sư gia tăng của những khoản nợ công.
3. Ảnh hưởng của nợ công tới nền kinh tế
Nợ cơng có tầm ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến một nền kinh tế. Theo đó chúng mang
lại cả lợi ích lẫn tiêu cực.
3.1 Lợi ích của nợ công
Bất kỳ một khoản tiền nào cũng mang lại những giá trị của nó và nhà nước chấp nhận
vay tiền tức là đã xác định rõ ràng những lợi ích của khoản vay đó đối với sự phát triển của đất
nước.
Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho nhà nước. Nợ công giúp tăng cường nguồn vốn phát
triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Nếu có được chính sách huy
động nợ cơng một cách hợp lý thì nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở

hạ tầng, từ đó giúp gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Huy động nợ cơng sẽ góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhà rỗi trong dân cư. Nhà
nước vay nợ từ các khoản tiền nhàn rỗi từ bộ phận dân cư trong xã hội sẽ mang lại hiệu quả kinh
tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngồi và tổ chức tài chính quốc tế. Tài trợ
quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế, ngoại giao quan trọng của các nước phát triển
muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương.
3.2 Tác động tiêu cực của nợ cơng
Bên cạnh lợi ích lớn mà nợ chính phủ mang lại thì chúng cũng có những tác động không
mong muốn đến nền kinh tế của một quốc gia.
Nợ cơng có khả năng trở thành nợ xấu hay không sẽ phụ thuộc vào năng lực quản lý tài
chính của một quốc gia kinh tế. Trách nhiệm hồn trả nợ cơng sẽ gây nên áp lực lớn về chính
sách đầu tư trong nước và chính sách thuế…
Nguồn vay dồi dào nếu không được quản lý một cách chặt chẽ thì rất dễ gây nên nạn
tham nhũng, thất thốt lãng phí nguồn tiền. Mỗi hoạt động sử dụng nguồn vốn khơng hiệu quả
đều có thể gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng như nợ chồng nợ hay hiệu ứng domino…
Có thể thấy nợ cơng đóng vai trị rất quan trọng đối với một nền kinh tế, nhất là những
nước đang phát triển, nguồn vay nợ công mang lại nhiều lợi ích thiết thực giúp cho việc tái thiết
và xây dựng đất nước nhưng cũng chính là gánh nặng tài chính cho quốc gia. Theo đó, người
lãnh đạo quốc gia cần phải triển khai nhiều chính sách một cách nghiêm ngặt nhằm sử dụng hiệu
quả nhất các nguồn vốn vay để tránh thất thốt và lãng phí tiền
4. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay.
Nợ công của Việt Nam chiếm khoảng 65% GDP, theo báo cáo của Bộ tài chính, nợ cơng
của Việt Nam đạt 61% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tại thời điểm tháng 9/2016 và con số này
tăng lên xấp xỉ 65% vào thời điểm 2017-2018. Theo các chuyên gia, Chính phủ hàng năm phải
chi trả 14% tổng nợ Chinh phủ vay và nợ Chinh phủ bảo lãnh. Việt Nam đang loay hoay trong

10



vay vốn để phát triển và vì sử dụng vốn chưa hiệu quả nên trở thành một trong số các nước có tỷ
lê nợ cơng tăng nhanh nhất. Nhưng nếu khơng tiếp tục vay thì cũng khơng có vốn để phục vụ
phát triển và để trả nợ. Theo dự đoán trong thời gian tới, Việt Nam cần huy động 39,5 tỷ đô la
Mỹ để đầu tư phát triển đến năm 2020.
Nợ cơng tăng trưởng một cách nhanh chóng tốc độ tăng nợ công tăng của nợ công gấp 3
lần tốc độ tăng trưởng của GDP. Năm 2017, vay đảo nợ lên đến 95.000 tỷ đồng. Con số này cho
thấy gánh nặng nợ công đang tăng cao. Cứ 3 tháng 1 lần, Việt Nam trả nợ công gồm cả gốc và
lãi với số tiền khoảng 25 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ khoảng 1 tỷ đô la Mỹ. Nếu không giải quyết
nhanh chóng và hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến tài chính quốc gia, ổn định vĩ mô. Năm 2016, nợ
công đến hạn của Việt Nam là 280.000 tỷ đồng, nhưng chỉ trả được 150.000 tỷ đồng và phải vay
thêm 130.000 tỷ đồng, xấp xỉ 6 tỷ đô la Mỹ để đảo nợ.

Theo thơng tin từ Bộ Tài chính, thu
nhập trung bình của người lao động Việt Nam là 2.200 USD/người/năm. Theo quy định, con số
trên đã cho thấy Việt Nam đã thốt khỏi nhóm các nước nghèo và là nước có thu nhập trung
bình. Vì vậy, các khoản vay với ưu đãi về lãi suất và thời hạn sẽ khơng cịn nữa mà chúng ta
phải vay các khoản với lãi suất cao hơn và thời hạn cũng ngắn hơn. Điều này chỉ ra rằng, nếu
Việt Nam vay thì cần đầu tư một cách hiệu quả đồng vốn, tạo lãi thì mới giảm được áp lực từ nợ
công. Như đã biết về điều khoản vay vốn, “lãi mẹ đẻ lãi con” là chính sách áp dụng tính lãi suất,
nên mức độ lãi suất tăng lên nhanh chóng. Trên thực tế, Việt Nam đã phải bán trái phiếu chính
phủ trong nước với lãi suất cao, khoảng 8 đến 9%/năm, nhưng chỉ đủ trả lãi của nợ cũ và trả
được một phần của vốn vay. Chính vì vậy, nợ mới và nợ cũ tăng nhanh dẫn đến nợ công tăng
nhanh.
Thực trạng hiện tại tác động tiêu cực và gây nhiều hệ luy cho nền kinh tế - xã hội
Nợ công đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân trong đất nước về mọi mặt: kinh tế, y
tế, giáo dục, phúc lợi xã hội… Giả sử nếu tồn tại là một quốc gia không chịu ảnh hưởng của vay
nợ trầm trọng, với GDP tăng trưởng thì Việt Nam có lẽ phát triển hơn nhiều khi Nhà nước chú
trọng cho đầu tư chất lượng học tập, y tế, đời sống và phúc lợi xã hội...
Các hệ lụy đó là: Lạm phát tăng cao đồng tiền mất giá và hất nghiệp tăng cao, kinh tế
kém phát triển khi gặp khó khăn, Nhà nước sẽ in thêm tiền để ổn định một phần chi tiêu. Điều

này kéo theo lượng tiền trong lưu thông tăng, đồng tiền mất giá. Tăng thuế là việc sớm muộn do
thu nhập của Nhà nước phụ thuộc phần lớn vào các khoản thu từ thuế. Điều này tác động trực
tiếp đến cuộc sống người dân, khi tỷ lệ nợ cơng tăng, Chính phủ phát hành trái phiếu Chính phủ,
cổ phiếu Chính phủ và khoản tiết kiệm trong dân giảm dần. Khi khoản nợ quá lớn, Chính phủ

11


buộc tăng thuế để trả nợ vay làm tổn thất xã hội. Điều này tạo thành 1 vòng luẩn quẩn khơng
thốt được.
Ngun nhân gây ra tình trạng nợ cơng tăng cao để dẫn đến tình trạng nợ cơng như hiện
nay, có thể thấy một số nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất: Đầu tư ồ ạt vào hệ thống giao thông, trong khi đó chi phí được lấy từ ngân
sách nhà nước. Mà ngân sách này là đi vay từ các tổ chức tín dụng trong nước và ngồi nước.
Theo thống kê, xây dựng đường xá mất khoảng 20 triệu USD/km. Trong khi theo tính tốn,
đường xá sau khi được xây dựng xong và đi vào sử dụng trong 2 năm đã phải tu sửa. Tương tự,
mới đây Việt Nam bỏ chi phí xây dựng tượng đài một cách phung phí với chi phí lớn. Với
những chi phí bất hợp lí như vậy, tỷ lệ nợ công của Việt Nam sẽ ngày càng tăng nhanh.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nên Nhà nước còn
phải gánh thêm khoản nợ. Thực tế hiện nay, có 12 dự án đầu tư không hiệu quả và cần xử lý của
Bộ Cơng Thương. Bộ Tài chính báo cáo có 72 dự án đầu tư khác của doanh nghiệp nhà nước
khơng khả thi và có nhiều khả năng thua lỗ. Điều này đã làm tăng thêm áp lực về gánh nặng nợ
cơng cho Chính phủ.
Bên cạnh đó là các dự án phát sinh tăng vốn. Ví dụ: Năm 2008, dự án đường sắt trên cao
Cát Linh - Hà Đông được triển khai với tổng vốn đầu tư là 552 triệu USD. Nhưng đến năm 2016
thì tổng số vốn điều chỉnh tăng lên 868 triệu USD (tăng lên hơn 1,5 lần so với mức vốn ban đầu.
Trong số đó có bao gồm vay của Trung Quốc 669 triệu USD trả lãi cho khoản này mỗi ngày là
1,2 tỷ đồng/ngày. Và thực tế hiện nay dự án này đầu tư không hiệu quả. Dự án tiếp theo là dự án
đường sắt trên cao Ga Hà Nội - Nhổn, tổng vốn đầu tư dự kiến ban đầu là 783 triệu EUR và
được điều chỉnh lên 1176 triệu EUR, trong đó có nguồn vốn vay của Pháp là 653 triệu EUR.

Hầu hết các dự án của Việt Nam đều chậm tiến độ, vốn chi bất hợp lý, kém hiệu quả. Đầu tư vào
quản lý hệ thống cơng cộng hết sức trì trệ, chậm tiến độ so với các nước khác, các cơng trình thi
cơng ở Việt Nam chậm tiến độ đến 3 - 4 lần, đội giá. Đầu tư công của Việt Nam chủ yếu đầu tư
và cơ sở hạ tầng, tuy nhiên mọi việc gặp rất nhiều bất cập như đội vốn, năng lực nhà thầu không
đảm bảo dẫn đến chậm tiến độ. Nguồn vốn chủ yếu là đi vay nhưng lại không được thực hiện
một cách hiệu quả dẫn đến nợ công ngày càng tăng cao.
Thứ hai: Có hiện tượng tham nhũng, thất thoát. Lãi phải trả cho cho các khoản đi vay quá
lớn, trong khi phần lớn số vốn vay lại không được sử dụng hiệu quả do nhiều lý do như tham
nhũng, thất thốt, chậm tiến độ... Điều đó dẫn đến các khoản lãi ngày càng trầm trọng. Trong chi
tiêu Chính phủ, chi thường xuyên chiếm 71%, chi trả nợ chiếm 24,5%, còn lại 4,5% tổng ngân
sách cho đầu tư.
Bên cạnh đó, chưa có sự minh bạch trong sử dụng vốn vay. Việt Nam có rất nhiều dự án
chậm tiến độ so với dự kiến. Càng kéo dài, trì trệ thì càng lỗ, trong khi đó thì gánh nặng trả lãi
của các khoản vay lại ngày càng tăng. Đặt ra câu hỏi là liệu nguồn vốn đã thực sự được đầu tư
đúng hướng và các nhà lãnh đạo đã thực sự đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu khi mà có quá
nhiều dự án thua lỗ, chậm trễ, phải thay đổi nhiều nhà thầu mới có thể hồn thành.
5. Các biện pháp chính phủ Việt Nam có thể thực hiện để giảm nợ cơng
Trước tình hình hiện nay, việc đi vay với lãi suất thị trường để chi tiêu cơng khơng cịn là
giải pháp tốt, khi mà chúng ta đã mất đi nhiều ưu đãi. Dự báo phát triển kinh tế xã hội của Việt
Nam đến năm 2020 sẽ vẫn phải đi vay bù đắp thiếu hụt về đầu tư. Một số biện pháp lưu ý:

12


Thứ nhất, nợ công phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển kinh tế là điều
kiện cần để tăng thu cho ngân sách nhà nước và giảm áp lực từ nợ công. Muốn vậy cần đổi mới
mơ hình kinh tế, cải thiện bộ máy tổ chức hoạt động các cơ quan nhà nước, đầu tư có trọng điểm
tránh đầu tư dàn trải thất thoát.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thấp hơn so với doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo theo nhiều ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nhà nước

thất thoát vốn. Cần giảm bớt sự phụ thuộc của các doanh nghiệp nhà nước, để các doanh nghiệp
hoạt động độc lập, cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp
nước ngoài. Chỉ có vậy mới cải thiện sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, nợ công ở Việt Nam phụ thuộc hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng Chính phủ cần tìm kiếm các giải pháp quản lý hiệu quả. Cần
thay đổi cách tính nợ cơng để thu nhận được chính xác nhất về số liệu về khoản nợ cơng của
Chính phủ và doanh nghiệp nhà nước.
Huy động vốn trong nước thay vì vay vốn nước ngồi. Thực tế khoản tiền nhàn rỗi trong
nhân dân hoàn toàn phù hợp cho việc mua trái phiếu chính phủ, nhất là trong hồn cảnh chúng
ta phải vay với lãi suất khá cao.
Cần thực hiện kỷ luật tài khóa rõ ràng, nghiêm ngặt, tránh tình trạng thâm hụt ngân sách,
rà soát lại những dự án đầu tư, phòng chống tham nhũng, minh bạch về tài chính.
Phải có ưu tiên rõ ràng trong việc chi tiêu nợ công. Những ưu tiền cần đặt ra là cơ sở hạ
tầng cơng ích, dịch vụ phục vụ đời sống an sinh xã hội. Các doanh nghiệp nhà nước cần chú
trọng phát triển lợi ích, mở rộng đầu tư.
Xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả. Chế độ kiểm sốt rất cần sự minh bạch
và có trách nhiệm giải trình để có thể kiểm sốt tốt nợ công của Việt Nam. Hiện tại, chất lượng
đội ngũ kiểm tốn nhà nước của Việt Nam cịn thấp, chưa đủ khả năng phân tích đánh giá bản
chất của nợ cơng, phân loại đánh giá những tác động của nó có thể xảy ra với nền kinh tế. Hơn
nữa, giám sát chi tiêu của Chính phủ cũng cần phải thể chế hóa và bắt buộc thi hành để tránh
tình trạng chi tiêu lãng phí, khơng đúng mục đích. Luật Ngân sách nhà nước cũng cần rà soát lại
nhằm nâng cao hiệu quả của chi tiêu cơng. Nếu khơng có cơ chế quản lý nợ công hiệu quả
chúng ta không thể đánh giá thấu đáo tình hình tăng trưởng kinh tế, lượng dự trữ quốc gia là bao
nhiêu, cần làm gì để giảm áp lực của nợ công đối với nền kinh tế.
Thứ ba, vừa vay để đầu tư, vừa vay để đảo nợ làm cho nợ cơng tăng lên nhanh chóng.
Cần chỉ định một “đầu mối” xử lý nợ công với quyền hạn trong việc huy động, phân bổ, chịu
trách nhiệm có thể xem là phù hợp trong thời điểm hiện nay.
Thứ tư, minh bạch trong quản lý. Để góp phần giảm nợ công việc quản lý sử dụng vốn
được sử dụng một cách nghiêm túc có hiệu quả.
Thứ năm, thu hút nguồn thu ngoại tệ. Thu hút nguồn thu ngoại tệ bằng cách phát triển

lĩnh vực xuất khẩu như nông sản, hải sản, da giày, khoáng sản. Phát triển du lịch, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào các dự án kinh tế. Thêm nữa là lực lượng lao động của nước ta đang rất
dồi dào, đây là điều kiện cho đất nước phát triển tất cả các ngành thế mạnh, cũng như là sức hút
cho việc đầu tư từ các nước.
Thứ sáu, xử lý nghiêm minh cán bộ có dấu hiệu sai phạm trong các dự án kinh tế gây thất
thốt lớn cho nhà nước. Rà sốt lại tính hiệu quả của các dự án đang trong quá trình thực hiện
hoặc sắp được triển khai trong thời gian tới.

13


Kết luận
Trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ công là danh mục nợ lớn nhất. Đây là một cơ cấu
tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính trong
nước, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nợ cơng là một hiện tượng bình thường nếu
như thiết lập được hệ thống quản lý và sử dụng nợ cơng có hiệu quả. Vì vậy, việc nâng cao hiệu
quả quản lý nợ cơng được Chính phủ Việt Nam rất quan tâm. Một nền kinh tế lành mạnh bao
gồm rất nhiều yếu tố lành mạnh, trong đó có vấn đề nợ công. Cùng với Ban Quản lý nợ, mỗi
người dân cần làm trịn nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước.

14



×