Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Vitamin và bệnh ưng thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.63 KB, 5 trang )

Vitamin và bệnh ưng thư
Bệnh ung thư là căn bệnh nguy hiểm chết người thì ai cũng rõ, nhưng
nguyên nhân của nó thì cho đến ngày nay vẫn còn chưa sáng tỏ. Những dự báo y
học khả quan nhất cũng phải cho là đến đầu thế kỷ 21 con người mới có thể tìm ra
căn nguyên đích thực và trên cơ sở đó mới có thể khống chế được bệnh ung thư.
Tuy nhiên, con người cũng đã tìm ra nhiều cách chữa trị ngày càng có kết quả, và
một trong số những biện pháp hữu hiệu, đó là thuốc. Người ta đã nói tới nhiều loại
vitamin có khả năng phòng và chống ung thư, nhưng ngược lại cũng có nhiều loại
vitamin giúp cho các khối u ác tính phát triển.
Các vitamin phòng chống ung thư
Trong thời gian gần đây đã có nhiều thông báo về khả năng phòng bệnh
ung thư của một số thực phẩm mà chủ yếu là các loại rau xanh, hoa quả như cà
chua, súp lơ, bắp cải, đậu tương, quả cà tím, tỏi, cà rốt v.v... Nhiều thống kê dịch
tễ học tại nhiều vùng dân cư có những tập quán ăn uống khác nhau ở nhiều vùng
trên thế giới đã cho những con số rất thuyết phục về tác dụng phòng chống ung
thư của nhiều loại thực phẩm mà chủ yếu là trong chúng có hàm chứa 2 loại
vitamin giữ vai trò chủ đạo là vitamin C và vitamin E (một số tác giả còn cho là
vitamin A đặc biệt tiền chất bêta-caroten của nó cũng có tác dụng chống ung thư).
Nhà bác học người Mỹ Pauling, người 2 lần được giải thưởng Nobel là người ca
gợi hết lời về những khả năng kỳ diệu của vitamin C trong việc phòng chống
nhiều căn bệnh nguy hiểm như ung thư, tim mạch và cả sự lão hóa của cơ thể.
Vitamin E và bêta-caroten cũng đã được nhiều hàng dược phẩm trên thế giới dùng
làm nguyên liệu cho những loại biệt dược khác nhau và được quảng cáo (nhiều khi
quá đáng) về tác dụng phòng và chống ung thư. Hiện nay, trong khẩu phần ăn của
nhiều người trên thế giới và cả ở nước ta cũng đã có dồi dào nhiều loại rau củ và
hoa quả có chứa những loại vitamin nói trên.
Những vitamin có tác dụng làm cho ung thư phát triển
Thông tin này nhiều người còn chưa được biết (ngay cả một số thầy thuốc),
do đó đã dẫn đến việc chỉ định nhầm, không những không góp phần ngăn chặn sự
phát triển của ung thư mà lại "tiếp tay" cho các tế bào ác tính có điều kiện thuận
lợi để nhanh chóng lớn lên và di căn đến nhiều nơi khác, kết cục là cái chết càng


sớm hơn.
- Vitamin B12
Cách đây vài thập kỷ, thứ thuốc có màu hồng quyến rũ này được nhiều
người dân nước ta mê tín coi là thứ thuốc "đại bổ" nên đã lạm dụng trong việc sử
dụng nó. Tác dụng đầu tiên mà người ta khám phá ra vai trò của vitamin B12 là
chống lại bệnh thiếu máu có hồng cầu to (bệnh Biermer), và sau này là tác dụng
đối với các nơron thần kinh nên thường được dùng phối hợp với vitamin B1 và
vitamin B6 để điều trị nhiều căn bệnh đau nhức, tê bại... Về tác dụng được lý,
vitamin B12 có khả năng làm cho các tế bào tăng trưởng mạnh, vì thế bệnh nhân
bị mắc bệnh thiếu máu hồng cầu to sau khi được điều trị bằng vitamin B12 đã
nhanh chóng hồi phục. Về mặt cơ chế bệnh sinh, ung thư cũng là một căn bệnh mà
sự phát triển các tế bào ác tính là vô tổ chức và không thể kiểm soát nổi. Các thuốc
điều trị ung thư đều nhằm hoặc là tiêu diệt tế bào hoặc là kìm hãm sự phát triển
của chúng. Khi dùng kết hợp với các thuốc kích thích miễn dịch sẽ tạo điều kiện
cho cơ thể chống lại các tế bào được coi là ngoại lai này.
Vì thế việc dùng thứ vitamin được coi là thứ thuốc bổ này cho các bệnh
nhân ung thư chỉ là làm cho bệnh càng tiến triển nhanh hơn mà thôi. Trong thực
tế, ít có các thầy thuốc chỉ định dùng vitamin B12 cho bệnh nhân ung thư mà chủ
yếu là tự bệnh nhân mua dùng hoặc người nhà, người thân mua biếu với thiện ý
"bồi dưỡng"! Cần hết sức lưu ý là hiện nay có khá các thứ thuốc được xếp vào loại
thuốc bổ hay thuốc tăng lực có phối hợp nhiều loại dược chất khác nhau như các
loại muối khoáng, vitamin, tinh chất nhân sâm... đều có chứa một hàm lượng
vitamin B12 nhất định, chẳng hạn như viên "thuốc đạm" mang tên gọi là
pharmaton khá nổi tiếng có chứa tới 100 microgram vitamin B12. Có rất nhiều
người, kể cả các thầy thuốc do không tìm hiểu kỹ đã chỉ định dùng viên thuốc
được xem là chống suy nhược này cho các bệnh nhân ung thư. Đó là một sự "thiện
ý" tác hại không ngờ tới trước.
- Vitamin B1
Đây là loại vitamin không thuộc diện chống chỉ định cho những bệnh nhân
ung thư nhưng phải hết sức thận trọng khi dùng nó cho các đối tượng này. Một số

bệnh nhân ung thư như bệnh ung thư máu (bệnh bạch cầu), bệnh ung thư đường
tiêu hóa và một số khối u ác tính tiến triển nhanh đều gây ra hậu quả thiếu hụt
vitamin B1 nên thường được các bác sĩ chỉ định cho dùng bổ sung trong quá trình
điều trị. Hơn nữa, khi dùng các thuốc điều trị khối u cũng phát sinh ra sự thiếu hụt
này dẫn đến những hậu quả như tê bì, suy giảm trí nhớ và tăng lượng acid lactic
trong máu (gây tình trạng toan hóa máu). Nhưng nếu dùng quá nhiều vitamin B1
cho bệnh nhân thì lại gây ra sự tăng trưởng của các khối u làm cho ung thư tiến
triển mau hơn.
Quan hệ giữa vitamin B1 và ung thư đã được làm sáng tỏ vào năm 1997.
Cơ chế của sự kiện này là khi các tế bào ung thư phân chia với tốc độ nhanh đã
sản sinh ra một loại đường là ribose. Đó là một khung để hình thành các vật liệu di
truyền quan trọng của các tế bào sống là AND và ARN. Các vật liệu này lại rất
cần thiết cho sự hình thành các tế bào ung thư mới. Ở các tế bào bình thường sự tái
tạo này rất cần đến oxy, nhưng các tế bào ung thư do tốc độ phát triển nhanh đã
tìm cách "sáng tạo" ra một con đường khác không cần đến đến oxy thông qua một
loại enzym gọi là transketolase (gọi tắt là TK), mà con đường này lại rất cần đến
vitamin B1. Các nhà khoa học gọi cơ chế tương hỗ này là "phản ứng phụ thuộc
vitamin B1".
Phát hiện quan trọng trên không những có giá trị hạn chế việc dùng vitamin
B1 cho những bệnh nhân ung thư mà còn định hướng cho việc tìm kiếm một loại
thuốc có tác dụng kìm hãm enzym TK nhằm chữa trị ung thư. Vấn đề đặt trước
các nhà khoa học là tìm ra một "hành lang" hợp lý để không bị quá liều vitamin B1
khi điều trị cho bệnh nhân ung thư mà lại không để họ bị rơi vào tình trạng thiếu
hụt.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×