Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hội nhập của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-------------------

PHẠM VĂN KIM

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP CỦA
VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số
: 60 31 01

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Quang Ty

Hà Nội – 2008


MỤC LỤC
3

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: QUẢN LÝ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ………………

7

1.1. Doanh nghiệp nhà nước: Khái niệm, cách phân loại và vai trị của nó............



7

1.1.1. Khái niệm ……………………………………………………………………..

7

1.1.2. Phân loại ……………………………………………………………………..

9

1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

10

1.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hội nhập

13

1.2.1. Quản lý nhà nước về kinh tế ………………………………………………......

13

1.2.1.1. Khái niệm……………………………………………………………………
1.2.1.2. Biểu hiện của quản lý nhà nước về kinh tế…………………………………..

14

1.2.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ………………………........


26

1.2.2.1. Khái niệm……………………………………………………………………

26

1.2.2.2. Quy định và cách thức tác động…………………………………………......

27

1.2.2.3. Các phương thức tác động của nhà nước đối với DNNN………………........

27

1.2.2.4. Các phương tiện tác động của nhà nước đối với DNNN…………………….

27

1.3. Kinh nghiệm của của môt số nước trong việc quản lý doanh nghiệp nhà nước
trong điều kiện hội nhập…………………………………………………………….......

30

1.1.3. Kinh nghiệm của các nước phát triển……………………………………........

30

1.3.2. Kinh nghiệm của các nước Asean……………………………………………

31


1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc ………………………………………...............

32

1.3.4. Kinh nghiệm thành công và không thành công của một số nước sau khi gia
nhập WTO ……………………………………………………………………….......

42

1.3.5. Tổng kết bước đầu những bài học có giá trị tham khảo cho Việt Nam………

55

1


Ch-ơng 2: Thực trạng quản lý nhà n-ớc đối với doanh nghiệp
nhà n-ớc ở Việt Nam trong quá trình hội nhËp kinh tÕ quèc tÕ

58
2.1. Đánh giá khái quát về doanh nghiệp nhà nước và quản lý đối với doanh
nghiệp nhà nước ở thời kỳ trước đổi mới …………………………………...............

58

2.1.1. Giai đoạn 1955-1975..........................................................................................

58


2.1.2. Giai đoạn 1976-1986..........................................................................................

61

2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp nhà nước và tình hình thực tế ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới
(1986 - 2006)…………………………………………………………………………

63

2.2.1. Khái quát về tác động của hội nhập kinh tế quốc tế...........................................

63

2.2.2. Tình hình thực tế ( thành tựu, hạn chế, nguyên nhân)…………………………

66

2.3. Những vấn đề lớn đang đặt ra về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước và nguyên nhân…………………………………………………………….....

92

CHƯƠNG 3: BỐI CẢNH MỚI VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GĨP PHẦN
HỒN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI…………………………………………………………………

101

3.1. Bối cảnh mới ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với DNNN………………


101

3.1.1. Thời cơ và lợi ích của việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).......

103

3.1.1.1. Thời cơ và lợi ích đối với các doanh nghiệp nhà nước…………………........

103

3.1.1.2. Thời cơ và lợi ích đối với đối với quản lý nhà nước……………………........

105

3.1.2. Thách thức và những vấn đề đặt ra ………………………………..…..

107

3.2. Đổi mới quan điểm về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế……………………………………………

110

3.3. Giải pháp đổi mới về quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh
hội nhập quốc tế………………………………………………………………….......
3. 3.3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước……………………………………………….......

113
113


3.3.2. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp nhà nước ……………………………..

116

Kết kuận………………………………………………………………………………

119

Phụ lục………………………………………………………………………………..

122

Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………………………

128

2


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á
ATC: Hiệp định về hàng dệt may
ACV: Hiệp định về định giá hải quan
BTA: Hip nh thương mại song phương
CNH, HĐH: Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
EU: Liên minh châu Âu
GS.TS: Giáo sư tiến sỹ
GATT: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại

GATS: Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ
GDP: Tổng thu nhập quốc nội
TRIPS :Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu
Trí tuệ
TBT: Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại
TRIMS: Hiệp định về các Biện pháp Đầu t liờn quan n Thng mi
TNCs: Các công ty xuyên quốc gia

TNHH: Trỏch nhim hu hn
HĐBT: Hội đồng Bộ tr-ởng
IMF :Quỹ Tiền tệ quốc tế
ITO: Tổ chức Thương mại quốc tế
NME: Nền kinh tế phi thị trường
NGO: C¸c tỉ chøc phi chÝnh phđ
NXB: Nhà xuất bản
NDT: Nh©n d©n tƯ
SPS: Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch
UBND: U ban nhõn dõn
USD: Đồng đô la
XHCN: Xó hi ch nghĩa
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
WB: Ngân hàng thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) của Đảng đã khẳng định kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật

chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.Trong đó, doanh
nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu trong ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế- xã hội và
chấp hành pháp luật.
Trong hơn hai mươi năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều
quyết sách và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp tổ chức, sắp xếp lại và đổi
mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Công việc quan trọng này gắn liền với mục đích
đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác
và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Dưới
tác động của những chính sách, cơ chế quản lý mới, hệ thống doanh nghiệp nhà nước
đã có những chuyển biến tích cực và thu được những kết quả nhất định, cùng với các
thành phần kinh tế khác góp phần ổn định kinh tế, chính trị- xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào đời sống
quốc tế, với vị thế và trách nhiệm mới – thành viên thứ 150 của WTO và là Ủy viên
không thường trực của Liên hợp quốc, nhiều thời cơ, thuận lợi mới sẽ xuất hiện đồng
thời với những khó khăn thách thức lớn. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp nhà
nước vẫn bộc lộ những nhược điểm, tồn tại và thiếu sót. Điều đáng chú ý là cho đến
nay nhiều doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa thực sự tự chủ trong sản xuất kinh doanh,
vẫn trông chờ ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước, hoặc còn độc quyền trong kinh doanh
dẫn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, khơng những khơng giữ được vị trí then
chốt trong nền kinh tế mà còn gây ra những “hiệu ứng” rất bất lợi về phương diện
chính trị – xã hội.

3


Như vậy, những vấn đề về kinh tế nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp nhà nước nói riêng hiện vẫn đang là vấn đề hệ trọng trong đường lối

phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Xuất phát từ ý nghĩa cấp bách về lý luận và thực
tiễn của doanh nghiệp nhà nước, chúng tôi chọn đề tài "Quản lý nhà nƣớc đối với
doanh nghiệp nhà nƣớc trong điều kiện hội nhập của Việt Nam” để thực hiện luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đặc biệt, trong những năm gần đây gắn với việc
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những
vấn đề liên quan tới doanh nghiệp nhà nước đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Ở đây,
chúng tôi xin điểm qua một số công trình có quan hệ gần với hướng nghiên cứu của đề
tài luận văn:
-“Doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường ở Việt nam”, GS.TS Vũ Huy
Từ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994;
-“Cải cách doanh nghiệp nhà nước- thực tiễn Việt nam và kinh nghiệm thế
giới”, tập thể tác giả, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996;
- “Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong
cơng ty cổ phần”, Phí Văn Chỉ ( Chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
-“Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế nhà nước- lý luận, chính sách và giải
pháp”, GS.TS Vũ Đình Bách, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001;
-“Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước”, PGS.TS
Ngơ Quang Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001;
-“Bán, khoán kinh doanh và cho thuê các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam”,
TS Nguyễn Văn Phúc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
-“Doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam đến năm
2010”, PGS.TS Ngơ Thắng Lợi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
- “Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam”, GS.TSKH Lương Xuân Quỳ (Chủ biên), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,
2006; v.v…

4



Các cơng trình nêu trên đã nghiên cứu về doanh nghiệp nhà nước ở nhiều góc
độ và đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc
biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận chứng những cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
hiện nay, chỉ rõ những thành công, hạn chế và các nguyên nhân tương ứng.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị đổi mới chính sách, cơ chế quản lý của Nhà
nước đối với các doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước qua 20 năm đổi mới và trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước trong 20 năm đổi mới (1986 -2006) và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn tiếp
theo.
5. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời
sử dụng một số tư liệu và kết quả nghiên cứu, điều tra có liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu được vận dụng là phương pháp phân tích, diễn giải và
quy nạp, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp đối chiếu-so sánh, v.v…

6. Đóng góp mới của luận văn

5


- Góp phần làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới và đưa ra những giải pháp mới nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn có tính thời sự về quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương.
Chƣơng 1: Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc trong điều kiện hội
nhập: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chƣơng 3: Bối cảnh mới và những giải pháp chủ yếu góp phần hoàn thiện quản lý
nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc trong giai đoạn mới.

6


CHƢƠNG 1
QUẢN LÝ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC TRONG ĐIỀU KIỆNHỘI
NHẬP: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. Doanh nghiệp nhà nƣớc: Khái niệm, cách phân loại và vai trị của nó
1.1.1. Khái niệm
Trong những năm trước đổi mới (1954-1985), Việt Nam áp dụng mơ hình kinh

tế kế hoạch hóa tập trung, trong đó đặc biệt đề cao vai trò của kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Tương thích với mơ hình đó, có khái niệm về các xí nghiệp quốc
doanh, nơng trường quốc doanh, công ty quốc doanh, mậu dịch quốc doanh... được
hiểu là những tổ chức kinh tế do Nhà nước trực tiếp đầu tư vốn (100%), quyết định
thành lập, quyết định phương hướng hoạt động, quyết định bộ máy quản lý và tuyển
dụng người lao động theo chế độ biên chế ổn định. Doanh nghiệp quốc doanh thường
được đồng nhất với thành phần kinh tế quốc doanh - bộ phận chủ yếu được coi là giữ
vai trò chủ đạo của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, kiểu kế hoạch hóa tập trung. Người
lao động làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh và các tổ chức khác của Nhà
nước đều là những cán bộ công nhân viên chức trong biên chế, ít có sự phân biệt về
quyền lợi, chế độ phân phối và đãi ngộ.
Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, khái niệm về doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam từng bước được điều chỉnh và hoàn thiện. Điều này thể hiện rõ trong các văn
bản pháp quy, tiêu biểu như Luật Doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua,
ban hành ngày 20 tháng 4 năm 1995.
Điều 1 của bộ luật này quy định: " Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do
Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động cơng ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao”.
Như vậy, theo Luật Doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua, ban
hành ngày 20 tháng 4 năm 1995, xét về quan hệ sở hữu vốn thì luật mới chỉ chấp

7


nhận loại doanh nghiệp nhà nước mà chủ sở hữu duy nhất nắm giữ 100% vốn
của doanh nghiệp là Nhà nước.
Luật Doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 12 năm
2003, trong điều 1 quy định: “ Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước
sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình
thức cơng ty nhà nước, cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.

Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật Doanh nghiệp, luật
này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006, đã thay thế Luật Doanh nghiệp năm
1995 và Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003. Tuy nhiên, khái niệm về doanh
nghiệp nhà nước không thuộc phạm vi điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp, được
Quốc hội thông qua, ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Như vây, khái niệm về doanh nghiệp nhà nước trên đây đã khơng chỉ chú trọng
đến hình thức sở hữu của loại hình doanh nghiệp có tính chất cơng hữu này, mà cịn
nhấn mạnh đến cả chức năng đặc thù của chúng, đó là doanh nghiệp nhà nước không
chỉ thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh thông thường giống như tất cả các doanh
nghiệp khác, mà còn là cơng cụ để Chính phủ sử dụng nhằm đạt được mục tiêu kinh
tế-xã hội mà một doanh nghiệp hoạt động đơn thuần vì mục tiêu lợi nhuận khơng thể
thực hiện được. Riêng về khía cạnh sở hữu, quan điểm của Đảng và Chính phủ Việt
Nam trong Luật Doanh nghiệp (2006) cũng có những mặt nới lỏng và năng động hơn.
Bên cạnh những doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, cịn có những doanh nghiệp mà
Nhà nước chỉ có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan
trọng. Trong hệ thống các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước đã chủ trương thành lập
một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng cơng ty nhà nước, có sự tham gia của
các thành phần kinh tế. Mặt khác, chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
và đa dạng hoá sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước (mà Nhà nước không cần
nắm 100% vốn) cũng được chú trọng.
Quan điểm trên đây hồn tồn phù hợp với cách nhìn nhận của Đảng và Nhà
nước ta về vai trò của doanh nghiệp nhà nước, đã được thể hiện trong Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX: “Việc xem xét, đánh giá

8


hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước phải có quan điểm tồn diện cả về kinh tế, chính
trị, xã hội; trong đó, lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu
để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp, lấy kết qủa thực hiện các chính sách xã hội

làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp cơng ích”.
1.1.2. Phân loại
1.1.2.1. Theo mức độ sở hữu*:
- Loại doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nước.
- Loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó Nhà nước nắm
giữ trên 50% vốn điều lệ thơng qua cổ phần hoặc góp vốn cho doanh nghiệp và giữ
quyền chi phối doanh nghiệp đó.
- Loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần sở hữu của
Nhà nước chiếm từ 50% cổ phần trở xuống.
Theo chúng tôi , việc phân chia theo mức độ sở hữu trên đây về cơ bản là hợp lý. Điều
đó thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, Nhà nước đảm bảo thực hiện được chức năng điều tiết vĩ mơ nền
kinh tế, đảm bảo tính định hướng nền kinh tế thơng qua hình thức sở hữu nhà nước, do Nhà
nước nắm giữ trên 50% cổ phần. Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước đảm bảo được chức năng
cạnh tranh bình đẳng đối với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với
bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập WTO.
1.1.2.2. Theo mơ hình tổ chức hoạt động:
- Doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức tập đồn kinh tế nhà nước.
- Doanh nghiệp nhà nước là các tổng công ty nhà nước.
- Doanh nghiệp nhà nước độc lập và doanh nghiệp nhà nước thành viên hạch
toán độc lập thuộc các tổng công ty nhà nước.
-

Công ty mẹ, công ty con.

1.1.2.3. Theo phân cấp quản lý:
- Doanh nghiệp nhà nước do các Bộ quản lý.
- Doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý.
- Doanh nghiệp nhà nước do các tổ chức, đoàn thể xã hội quản lý.
1.1.2.4. Theo các ngành kinh tế - kỹ thuật:
- Doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp


9


* (Phân loại theo mức độ sở hữu, ở đây được căn cứ vào Luật Doanh nghiệp nhà nước
2003):

- Doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng và phục vụ
sản xuất công nghiệp.
- Doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành thương mại, dịch vụ, vận tải, thông tin
liên lạc.
1.1.3.Vai trò của doanh nghiệp nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt
Nam
1.1.3.1. Vai trò kinh tế
Trong mơ hình kế hoạch hố tập trung, vai trị kinh tế của doanh nghiệp nhà
nước được đề cao tuyệt đối, thậm chí có xu hướng tư tưởng và chính sách đã từng coi
mức độ phổ biến của doanh nghiệp nhà nước là tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ về quan
hệ sản xuất, là tiêu chí phản ánh mức độ chín muồi của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cách
tư duy này đã bị đời sống thực tế bác bỏ ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất, ít nhất trong
giai đoạn đầu, là một cơ chế hỗn hợp: vừa có sự tham gia của thị trường với sở hữu tư
nhân và vai trò to lớn của khu vực tư nhân, vừa có sự tham gia của Nhà nước, trong đó
Nhà nước tác động vào nền kinh tế theo hai hướng: thứ nhất, điều tiết thông qua các
cơng cụ, chính sách quản lý vĩ mơ chung; thứ hai, tác động trực tiếp thông qua các
doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhà nước can thiệp vào
nền kinh tế thị trường vì: kinh tế thị trường thường khó tránh khỏi một số khuyết tật
thậm chí là những thất bại, chẳng hạn như sự thiếu hụt hàng hố cơng cộng, sự xuất
hiện hình thức độc quyền tư nhân dẫn đến lũng đoạn nền kinh tế… Để giải quyết các
khuyết tật của kinh tế thị trường, địi hỏi Nhà nước, ngồi chức năng tạo lập môi
trường và điều tiết, phải tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh ở một số ngành

hàng.
Theo hướng phân tích trên đây, có thể khái qt về vai trò kinh tế của doanh
nghiệp nhà nước như sau:
Thứ nhất, sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước giúp khắc phục trong những
giới hạn có thể mặt trái của cơ chế thị trường và những hạn chế của kinh tế tư nhân.

10


Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc đảm nhận thị trường
các hàng hố cơng cộng. Hàng hố cơng cộng do tính chất đặc thù khơng thể loại trừ,
nếu để khu vực tư nhân sản xuất và cung ứng theo nguyên tắc thị trường tất yếu sẽ dẫn
đến tình trạng khơng hiệu quả; hoặc sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt do khơng có ai tham
gia sản xuất; hoặc dẫn đến tình trạng độc quyền tự nhiên kéo theo gánh nặng chi trả
của người tiêu dùng.
Như vậy, tuỳ theo tầm quan trọng, hàng hố cơng cộng bao gồm các ngành
hàng hết sức đa dạng từ điện nước sinh hoạt, điện nước sản xuất, xử lý các loại chất
thải, vận tải hành khách công cộng, hoặc trồng rừng, y tế, giáo dục…Quan điểm hiện
đại về kinh tế thị trường cho rằng doanh nghiệp nhà nước chỉ nên tham gia vào những
ngành quan trọng, thiết yếu, còn những ngành khác của hàng hố cơng cộng vẫn có thể
để khu vực kinh tế tư nhân tham gia với sự điều tiết bằng chính sách của Nhà nước.
Hơn nữa, ngay trong những ngành thiết yếu như điện, viễn thông, vận tải…cũng cần
phải tách các công đoạn sản xuất kinh doanh để có thể xác lập được cơ chế cạnh tranh
trên thị trường. Nhà nước cũng cần phải khuyến khích tư nhân tham gia vào sản xuất
và cung ứng hàng hố cơng cộng ở những lĩnh vực cụ thể hoặc đầu mối các cơng viêc,
như vậy sẽ tránh được tình trạng thành lập ồ ạt, khơng có hiệu quả các doanh nghiệp
nhà nước ở khu vực này.
Thứ hai, đảm nhận các lĩnh vực sản xuất- kinh doanh có tính chiến lược đối với
sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân.
Thực hiện vai trò này, Nhà nước sẽ phải lựa chọn và quyết định những danh mục các

“lĩnh vực có tính chiến lược”, cân đối nguồn vốn và cơ chế đầu tư từ các thiết chế từ sở
hữu nhà nước, lựa chọn phương án đầu tư như một nhà kinh doanh, từ đó hình thành
các doanh nghiệp nhà nước thích hợp. Theo đó các doanh nghiệp nhà nước phải xuất
hiện ở những lĩnh vực, ngành có tính chiến lược quốc gia, đầu tư ở những lĩnh vực đòi
hỏi vốn lớn và thu hồi vốn chậm.
Thứ ba, tham gia vào những lĩnh vực mới, có hệ số rủi ro cao. Vai trị này thể
hiện chức năng mở đường, dẫn dắt nền kinh tế, thúc đẩy q trình ứng dụng khoa học
– cơng nghệ, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò
này phải tham gia theo cả hai hướng: vừa trực tiếp tham gia sản xuất và cạnh tranh với

11


các doanh nghiệp tư nhân, vừa có các doanh nghiệp tài chính thực hiện hoạt động đầu
tư- tài trợ cho các doanh nghiệp khác thông qua cơ chế cấp vốn, mua cổ phần theo mơ
hình cơng ty mẹ- cơng ty con. Trên thực tế, thực hiện vai trò này là một thách thức lớn
đối với doanh nghiệp nhà nước vì trong quá khứ hầu hết các các cơ quan quản lý nhà
nước và các doanh nghiệp nhà nước chưa hề có kinh nghiệm quản lý trong điều kiện
mới. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, không phải tất cả các doanh nghiệp nhà nước đều
phải thực hiện vai trò này mà chỉ một số doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, được
cơ quan nhà nước quy định trong nhiệm vụ của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Vai trị chính trị
- Doanh nghiệp nhà nước là một trong những công cụ vĩ mô quan trọng của Nhà
nước, có vai trị dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; và
trên thực tế nó cịn là chỗ dựa về phương diện kinh tế để Đảng ta thực hiện vai trị cầm
quyền.
Việc định hướng tồn bộ nền kinh tế khơng thể tách rời hệ thống chính trị; khi
đã xây dựng được Nhà nước của dân, do dân, vì dân, xây dựng được hệ thống chính trị
vững mạnh thì mọi khu vực kinh tế đều là công cụ của Nhà nước; Nhà nước với vai trị

kinh tế lớn của mình, với các hình thức tác động khác nhau, đủ sức mạnh để giữ vai trị
định hướng, điều tiết tồn bộ nền kinh tế. Khi Nhà nước đã đủ sức điều tiết những
ngành và những lĩnh vực quyết định của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo, khu vực
doanh nghiệp nhà nước giảm dần tỷ trọng và vai trị thì có thể xem đây là điều hợp lý.
Vai trị chính trị của doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở chỗ đây là bộ phận nịng cốt,
xung kích, dẫn dắt chứ khơng phải là chủ đạo hiểu theo nghĩa có tỷ trọng cao và quy
mô lớn.
- Bảo đảm cơ sở kinh tế cho an ninh quốc gia, quốc phịng tồn dân, bảo đảm sự
ổn định tâm lý trong xã hội - đây là điều mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng cần
đến để thực hiện được sự ổn định mang tính vĩ mơ trong nền kinh tế. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập
WTO, đây là một trong những yếu tố cơ bản để các khu vực kinh tế tư nhân phát triển
và tạo môi trường thuận lợi để kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
1.1.3.3. Vai trò xã hội

12


- Doanh nghiệp nhà nước góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Ở một nước có
nền kinh tế chưa phát triển lại trải qua chiến tranh kéo dài như Việt Nam, giải quyết
các vấn đề xã hội, nhất là đền ơn đáp nghĩa những người có cơng với cách mạng là
nhiệm vụ phức tạp, khó khăn, nhưng lại có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội quan
trọng. Đặc biệt, trong kinh tế thị trường, việc giải quyết các vấn đề xã hội không thể
một lực lượng tư nhân nào có thể đơn phương đảm đương được. Thực tế đó địi hỏi
Nhà nước phải làm tốt trách nhiệm bảo đảm ổn định chính trị- xã hội, tạo tiền đề để
mỗi người có thể phát triển tồn diện. Kinh tế nhà nước, trong đó có doanh nghiệp nhà
nước, sẽ là lực lượng vật chất và công cụ quan trọng để hồn thành nhiệm vụ nói trên.
- Doanh nghiệp nhà nước góp phần tạo cơng ăn việc làm: Trong nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp đều chiụ sự chi phối của quy luật thị trường, muốn tồn tại và

phát triển các doanh nghiệp phải tạo ra lợi nhuận. Nhưng nền kinh tế thị trường có
những khuyết tật như tạo ra sự phân hố giàu nghèo,... Vì vậy, sự tồn tại của doanh
nghiệp nhà nước với việc sử dụng nhiều lao động, tăng công ăn việc làm và tăng thu
nhập sẽ góp phần làm giảm sự bất bình đẳng; mặt khác, doanh nghiệp nhà nước có thể
thực hiện các quyền, nghĩa vụ bảo hiểm cho người lao động tốt hơn là các thành phần
khác.
- Doanh nghiệp nhà nước góp phần xóa đói, giảm nghèo: Mỗi quốc gia thường
có những vùng xa xơi hẻo lánh, trình độ dân trí cịn thấp, dân cư ở những vùng này
phải chịu thiệt thịi vì sự phát triển kinh tế thấp hơn các vùng khác. Bởi vậy, việc đầu
tư phát triển các doanh nghiệp nhà nước ở các vùng này cịn có vai trị quyết định bảo
đảm các nhu cầu cung cấp dịch vụ công cộng thiết yếu cho đời sống dân cư vùng sâu
vùng xa mà đầu tư tư nhân chưa vươn tới, v.v…
1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc trong điều kiện hội
nhập
1.2.1. Quản lý nhà nƣớc về kinh tế
1.2.1.1. Khái niệm:
Việc khắc phục những nhược điểm, hạn chế và những khuyết tật của cơ chế thị
trường và để tạo điều kiện cho cơ chế này hoạt động có hiệu quả, khơng thể khơng có
vai trị của nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường,

13


còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế của cơ sở thuộc các
thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu nào lại phụ thuộc vào bản chất của
các hình thức nhà nước và con đường phát triển mà nhà nước đó lựa chọn.
Từ sự phân tích ở trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế quốc
dân là sự tác động có tổ chức, bằng pháp quyền của nhà nước lên nền kinh tế quốc
dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, để đạt

các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
1.2.1.2. Biểu hiện của quản lý nhà nước về kinh tế
* Vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế
Vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp
hoạt động chung và do tính chất của xã hội hố quy định. Lực lượng sản xuất càng
phát triển, trình độ xã hội hố của sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trị đó
ngày càng cần thiết và mức độ địi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Trong nền
kinh tế thị trường, cơ sở khách quan sâu xa của vai trò quản lý nhà nước được thể hiện
ở những mặt sau đây:
- Thứ nhất, trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, mỗi
chủ thể kinh doanh, mỗi ngành, mỗi địa phương, v.v... đều có lợi ích riêng của mình,
họ đều tìm mọi biện pháp để tối ưu hố lợi ích đó. Khi thực hiện các hoạt động nhằm
tối ưu hố lợi ích, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành, mỗi vùng có thể nhìn thấy hoặc
khơng nhìn thấy sự vi phạm đến lợi ích của người khác, cơ sở khác, ngành, vùng
khác, và do đó, tất yếu nảy sinh hiện tượng lợi ích của cá nhân, của bộ phận này tăng
lên làm thiệt hại đến lợi ích cá nhân của bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi
tổng thể nền kinh tế quốc dân. Biểu hiện về mặt xã hội của xu hướng này là các hoạt
động kinh tế chồng chéo, cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau; các quan hệ tỷ lệ kinh tế
quốc dân bị phá vỡ; sự phân bố các nguồn lực không hợp lý, cơ cấu kinh tế bị đảo
lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh, v.v...
Muốn khắc phục nhược điểm này, cần có một bộ phận điều hành vĩ mơ bằng
việc hoạch định chương trình, chiến lược và kế hoạch phát triển với các mục tiêu về
quy mô, về cơ cấu, về nhịp độ và tốc độ tăng trưởng của từng ngành, từng vùng, về các
mục tiêu kinh tế vĩ mô khác cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Các mục tiêu

14


vĩ mô này là những định hướng không thể thiếu cho hoạt động kinh tế của từng cá

nhân, từng doanh nghiệp, từng ngành, từng vùng trong nước. Bộ phận điều hành vĩ mơ
đó khơng ai khác là nhà nước - chủ thể kinh tế của mỗi quốc gia. Như vậy, nếu khơng
có vai trị của nhà nước sẽ khơng có việc phân bố sản xuất và lao động giữa các ngành
và vùng để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tối ưu; sẽ khơng có sự phát triển của
những ngành có ý nghĩa thúc đẩy sự tiến bộ khoa học và cơng nghệ trong tồn bộ nền
kinh tế quốc dân. Nếu khơng có nhà nước cũng sẽ khơng có nguồn tích lũy tập trung
quy mơ lớn để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế - xã hội và giải
quyết những mục tiêu kinh tế vĩ mô khác mà bản thân cơ chế thị trường ít có khả năng
hoặc khơng thể thực hiện được, đặc biệt là các vấn đề về kết cấu hạ tầng xã hội.
- Thứ hai, trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản
xuất kinh doanh, các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và tuân theo
các quy luật của thị trường. Song, đối với các hoạt động tạo ra những hàng hố và dịch
vụ cơng là những loại hàng hố và dịch vụ mà chi phí bỏ ra đem lại lợi ích cho nhiều
người, nhưng lại khơng được thanh tốn và bồi hoàn đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc
những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ra những ảnh hưởng hướng ngoại
tiêu cực lan tràn trên thị trường khơng được tính tốn khi lựa chọn các quyết định sản
xuất, hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị kinh tế gây ra một khoản tổn phí
lớn của xã hội. Khi khơng tối ưu hố được lợi ích xét trên phạm vi tồn xã hội thì tư
nhân khơng thể cung cấp sản phẩm được, vì rằng tư nhân khơng chi phối được giá cả
và thu hồi được chi phí đã bỏ ra. Do vậy, nhà nước với tư cách là chủ thể nền kinh tế
quốc dân, với mục tiêu kinh tế vĩ mô cần thiết phải nắm và đảm bảo cho xã hội những
loại hàng hố và dịch vụ cơng cũng như những hàng hoá mà nếu nằm trong tay tư nhân
sẽ làm thiệt hại đến lợi ích tồn xã hội.
- Thứ ba, nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường khơng thể tách
rời với mơi trường chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại. Khi môi trường không ổn định,
thường xuyên có sự đụng độ và xung đột giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, các
quan hệ giao dịch mua bán trên thị trường không lành mạnh, mang tính chất lừa đảo,
bạo lực thì kinh tế khơng thể phát triển, cơ chế thị trường - cơ chế điều chỉnh hành vi
của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng theo các quy luật của thị trường, sẽ dẫn tới
sai lệch, nhược điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường sẽ khó có thể khắc phục và


15


đẩy mơi trường chính trị kinh tế, xã hội, đối ngoại vào tình trạng rối loạn và khủng
hoảng. Cơ chế thị trường rất cần có mơi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động,
song những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này lại đẻ ra những xu hướng phủ
định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như: do chạy theo lợi nhuận cục
bộ sẽ dẫn đến sự phân bố và sử dụng các nguồn lực khơng hợp lý, vì lợi ích kinh tế cá
nhân, cục bộ mà chà đạp lên lợi ích chung, phá hoại mơi sinh, gây ơ nhiễm mơi trường,
phân hố giàu nghèo ngày một lớn, bất công trong xã hội ngày một tăng, v.v... gây rối
loạn nhiều mặt trong đời sống cộng đồng, xã hội. Trong những biểu hiện trên, biểu
hiện có tác động sâu sắc và tồn diện đến mơi trường chung là mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội ngày một gay gắt. Chỉ riêng cơ chế
thị trường - “bàn tay vơ hình” khơng thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà địi hỏi
phải có bàn tay nhà nước. Chính từ nhu cầu này của nền kinh tế nói chung và của cơ
chế thị trường nói riêng mà mọi nhà nước đều có chức năng đảm bảo về mặt chính trị
và xã hội, nhằm duy trì quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong
khuôn khổ của quan hệ sản xuất thống trị và bảo vệ được quyền lợi, địa vị của giai cấp
thống trị. Chỉ có trên cơ sở ấy mới có bầu khơng khí chính trị và mơi trường kinh tế, xã
hội ổn định, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận động với cơ cấu và các quan hệ
kinh tế dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất đạt được của mỗi bước.
- Thứ tư, xu hướng hoà nhập nền kinh tế của các nước vào thị trường thế giới
ngày một tăng, những diễn biến kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh
hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau, chi phối lẫn nhau (chẳng hạn cơn bão khủng hoảng
tài chính châu Á xảy ra năm 1997-1998 đã tác động lên hầu hết các nước trong khu
vực và thế giới). Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng như
việc khai thác và sử dụng những tác động có lợi địi hỏi phải có vai trị của nhà nước.
Một tổ chức, một doanh nghiệp dù quy mô to lớn đến đâu cũng không thể thay thế
được vai trò của nhà nước trong việc điều tiết tồn bộ nền kinh tế. Chỉ có nhà nước cần

và có điều kiện thực hiện được vai trị này bởi trong quan hệ quốc tế, nhà nước là chủ
thể của nền kinh tế độc lập, có chủ quyền, có lợi ích kinh tế tách biệt, nhà nước lại nắm
trong tay những tiềm lực kinh tế, quốc phòng quan trọng của đất nước. Để bảo vệ lợi
ích quốc gia trong đó có lợi ích giai cấp, nhà nước của mỗi nước phải trực tiếp tác
động đến những quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khống chế những hoạt động bất lợi và

16


phát huy những hoạt động có lợi cho nền kinh tế của nước mình, tạo ra các mối quan
hệ kinh tế có lợi trong khu vực và quốc tế. Như vậy, khơng chỉ quan hệ lợi ích giữa các
giai cấp, tầng lớp xã hội trong nước mà quan hệ lợi ích giữa các nước cũng đặt ra
những vấn đề đòi hỏi phải tăng cường vai trò, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước
về kinh tế.
- Thứ năm, vai trị quản lý nhà nước về kinh tế khơng chỉ ở sự điều tiết, khống
chế, định hướng thông qua các cơng cụ pháp luật và các địn bẩy kinh tế, mà còn bằng
thực lực kinh tế của nhà nước - tức sức mạnh của hệ thống kinh tế nhà nước và các
công cụ kinh tế đặc biệt khác. Kinh nghiệm thực tế của các nước đã chỉ ra rằng việc
củng cố và tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước nói chung, của các doanh
nghiệp nhà nước nói riêng trong các ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc
dân vừa là công cụ quản lý, vừa là lực lượng kinh tế trực tiếp để nhà nước tham gia
hình thành, mở rộng quan hệ thị trường.
Tóm lại, việc khắc phục những nhược điểm, hạn chế và khuyết tật của cơ chế
thị trường, để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt động có hiệu quả khơng thể
khơng có nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy,
nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan nội tại của nền
kinh tế hàng hố vận động theo cơ chế thị trường, cịn việc điều tiết, khống chế và định
hướng các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương
hướng và mục tiêu nào điều đó phụ thuộc vào bản chất của các hình thức nhà nước và
con đường phát triển mà nước đó lựa chọn.

* Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế
Phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động
có chủ đích của nhà nước đến nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó
để thực hiện các mục tiêu nhất định. Phương pháp quản lý có ảnh hưởng quan trọng
đến sự thành công hay thất bại của các hoạt động quản lý, các phương pháp quản lý
thích hợp sẽ có tác dụng khơi dậy những động lực, kích thích tính năng động, sáng tạo
của con người, khai thác triệt để mọi tiềm năng của hệ thống, tạo môi trường để tận
dụng triệt để các cơ hội và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Các phương pháp chủ yếu mà Nhà nước ta có thể sử dụng để quản lý nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm:

17


Thứ nhất, phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác
động trực tiếp của Nhà nước thông qua các quyết định có tính bắt buộc lên đối tượng
quản lý.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước về kinh
tế là tính bắt buộc, tính quyền lực.Tính bắt buộc và tính quyền lực được thể hiện thơng
qua hệ thống luật pháp và được thể chế hố thành các nghị định, nghị quyết, văn bản…
buộc các tổ chức cũng như mọi người phải tuân theo và thực hiện một cách nghiêm
minh. Tính bắt buộc địi hỏi các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các
tác động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý. Tính quyền lực địi hỏi các cơ quan quản
lý nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng với thẩm quyền của
mình. Thực chất của phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là sử dụng quyền
lực nhà nước để tạo ra sự phục tùng của các cá nhân và tổ chức trong hoạt động và
quản lý kinh tế.
Vai trị của phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế rất to lớn, nhất là
trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế như ở nước ta hiện nay. Nó xác lập trật tự, kỷ

cương làm việc trong hệ thống; khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ
thống, cho phép giải quyết các vấn đề đặt ra một cách nhanh chóng.
Thứ hai, phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động
gián tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích có tính hướng dẫn lên đối tượng quản
lý, nhằm làm cho họ quan tâm tới kết quả cuối cùng của các hoạt động kinh tế, từ đó tự
giác hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, khơng cần phải có sự tác động thường xuyên
của Nhà nước bằng các mệnh lệnh hành chính.
Nhà nước thơng qua cơ chế, chính sách, cơng cụ và biện pháp kinh tế mà tác
động đến các lợi ích của chính Nhà nước, của doanh nghiệp và của mọi người dân. Sự
tác động này nhằm giải quyết hài hoà giữa các loại lợi ích, tạo điều kiện thúc đẩy kinh
tế, xã hội phát triển.
Phương pháp kinh tế tạo ra sự quan tâm vật chất thiết thân của đối tượng quản
lý, chứa đựng nhiều yếu tố kích thích kinh tế cho nên tác động rất nhạy bén, linh hoạt,
phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người lao động và các tổ chức.

18


Thứ ba, phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động
của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng quản lý
nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao.
Phương pháp giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối tượng quản
lý là con người - một thực thể năng động và là tổng hồ của nhiều mối quan hệ xã hội.
Do đó, để tác động lên con người không chỉ dùng các biện pháp hành chính, kinh tế,
mà cịn tác động lên tinh thần, tâm lý - xã hội…
Phương pháp giáo dục có thể được thực hiện thơng qua các hình thức như: sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng (sách, báo, đài phát thanh, truyền hình…),

thơng qua các đồn thể và các hoạt động có tính xã hội như: giáo dục các trường hợp
cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội chợ, triển lãm, giới thiệu
các tấm gương điển hình,…
*Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
Trên thực tế, đôi khi từ chức năng và nhiệm vụ được sử dụng thay thế cho nhau,
nhưng thực ra nội dung của hai từ này khác nhau về cơ bản. Nhiệm vụ là “cơng việc
phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định”, cịn chức năng là “tác
dụng, vai trị bình thường hoặc đặc trưng của một người nào đó, một cái gì đó”. Như
vậy, chức năng cần được xem là một khái niệm bao trùm hơn, là nhiệm vụ tổng quát,
thể hiện bản chất của một hệ thống, một tổ chức; nó phân biệt giữa tổ chức này với tổ
chức khác. Theo nghĩa này, chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế chính là những
đặc trưng riêng có của quyền lực nhà nước trong việc tác động có lựa chọn vào nền
kinh tế theo các mục tiêu trong từng giai đoạn. Nội dung của các chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế không phải là một khái niệm tĩnh, mà là một khái niệm động,
những nội dung này có thể biến đổi khi mơi trường chính trị, kinh tế và xã hội thay
đổi.
Đối với nước ta hiện nay đang ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì xu hướng là Nhà nước ngày càng phải
thoát ly khỏi các hoạt động kinh doanh, nhưng vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế của
Nhà nước cần được tăng cường. Nhà nước khơng chỉ có trách nhiệm làm cho thị

19


trường hoạt động hiệu quả, mà còn phải sử dụng kinh tế thị trường phục vụ cho mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải làm tốt vai trò quản lý nền
kinh tế, thể hiện qua các chức năng sau:
- Định hướng phát triển kinh tế đất nước thơng qua các chiến lược, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội.
- Cung ứng hàng hố cơng cộng, những hàng hố và dịch vụ mà thị trường

khơng cung ứng hay cung ứng không đầy đủ, đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế và xã
hội. Đây là chức năng cơ bản nhất của nhà nước trong các nền kinh tế thị trường nói
chung, đặc biệt đối với Việt Nam nơi mà cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội được đánh giá
là bị tụt hậu so với mức trung bình của các nước có thu nhập thấp. Đầu tư của Nhà
nước vào kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội có cả ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đến
tăng trưởng. Ảnh hưởng tiêu cực phát sinh do tình trạng lấn át tiết kiệm và đầu tư tư
nhân thông qua việc thu thuế hay vay tiền trên thị trường vốn trong nước để tài trợ cho
đầu tư vào kết cấu hạ tầng công cộng.
- Cung cấp các dịch vụ xã hội là một trách nhiệm tối cao khác của Nhà nước,
Nhà nước cần tăng chi tiêu cho giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác; đồng thời
phải đảm bảo mọi người được bình đẳng trong việc tiếp cận với các dịch vụ đó. Nhà
nước cần tham gia cung ứng các dịch vụ này do các dịch vụ này có ngoại ứng tích cực,
tức là có lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó khu vực tư nhân khơng cung
cấp đầy đủ.
Theo chúng tôi, Nhà nước cần khai thông tiềm năng của khu vực tư nhân,
không phải với tư cách là một nguồn thay thế, mà là một nguồn bổ sung cho Nhà nước
trong việc cung ứng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ xã hội. Khu vực tư nhân có thể
đóng góp theo hai cách: Thứ nhất, tư nhân có thể tham gia trực tiếp vào cung ứng dịch
vụ kết cấu hạ tầng để Nhà nước rảnh tay tập trung vào những hoạt động có lợi thế so
sánh; thứ hai, khu vực tư nhân có thể đóng góp gián tiếp vào việc cung ứng kết cấu hạ
tầng thông qua việc đóng thuế và Nhà nước sẽ phải dành một tỷ lệ lớn hơn trong ngân
sách để đầu tư vào kết cấu hạ tầng và cung ứng các dịch vụ xã hội.
- Cung cấp một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững
chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các thiết chế cần
thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao

20


gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật. Trong các nền kinh tế thị trường,

phần lớn các giao dịch được dựa trên các hợp đồng, khi những luật lệ quy định quyền
sở hữu được rõ ràng và cơ chế cưỡng bức thi hành luật vận hành tốt thì chi phí hoạt
động kinh doanh thấp hơn và thị trường vận hành hiệu quả hơn.
- Chính phủ phải quan tâm đúng mức đến việc xố đói giảm nghèo và cải tạo
môi trường; gắn phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường và cân bằng sinh
thái để đảm bảo kinh tế phát triển bền vững. Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội để đảm bảo cho cả cộng đồng đều được lợi từ thành tựu phát
triển chung của nền kinh tế, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân cùng tham
gia phát triển kinh tế.
- Đảm bảo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, chỉ trên cơ sở một mơi trường
kinh tế, chính trị, xã hội ổn định và có thể dự đốn được, thì các tổ chức kinh tế và gia
đình mới yên tâm đầu tư tiết kiệm dài hạn của mình vào thị trường tài chính chính thức
và các doanh nghiệp khơng lo ngại khi đầu tư vào các dự án có thời gian thu hồi vốn
dài.
- Kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, nội dung công tác kiểm tra, giám sát
của Nhà nước chủ yếu hướng vào việc thực hiện luật pháp, cơ chế chính sách của Nhà
nước. Mục tiêu của công tác kiểm tra, giám sát là nhằm đảm bảo sự vận hành của nền
kinh tế theo đúng quỹ đạo đã định; đồng thời phát hiện những khiếm khuyết, bất cập
của các chính sách đã ban hành để có những điều chỉnh kịp thời.
Trong trường hợp một nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
kinh tế thị trường như Việt Nam, thị trường có thể hoạt động không hiệu quả bởi các
rào cản do các chính sách của Nhà nước tạo ra. Khi đó, trước hết Nhà nước cần loại bỏ
rào cản làm méo mó thị trường thơng qua thực hiện nhất qn chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế
hỗn hợp, tạo ra một mơi trường khuyến khích cạnh tranh và một sân chơi bình đẳng
cho mọi cá nhân, tổ chức không phân biệt thành phần kinh tế và hình thức sở hữu
trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển, lựa chọn việc làm và tham gia vào các
hoạt động kinh doanh.
Trong bối cảnh Việt Nam chủ động mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới, chúng ta cần có cách tư duy mới về quản lý nhà nước đối với nền kinh


21


tế theo tư duy phát triển đó. Nếu coi việc tìm kiếm cơ chế nhằm phát huy các nguồn
lực của xã hội để chúng được sử dụng một cách hiệu quả là quan trọng, thì khơng nên
mất cơng tranh luận nhiều về một số phạm trù kinh tế dễ gây nhiều lầm lẫn về tiếp cận
phát triển trong điều kiện tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế. Mọi sự phát triển
của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước nếu đóng góp tích cực vào thực hiện
mục tiêu phát triển theo đúng định hướng chung, không chệch khỏi quỹ đạo “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” cần được coi là thành công của
quản lý nhà nước về kinh tế. Việc tiếp cận bản chất của cổ phần hoá, của vai trò chủ
đạo của sở hữu nhà nước, của việc xác định thế nào là kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế
tư nhân, kinh tế dân doanh… đều nên nhìn ở sự đóng góp vào tăng trưởng, khả năng
tạo việc làm mới. Nếu chúng thoả mãn được hai điều kiện trên thì cần phải tạo các
điều kiện thuận lợi cho chúng phát triển.
* Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế
- Xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Toàn bộ sự phát
triển kinh tế của đất nước nhanh hay chậm, đúng hướng hay chệch hướng, hiệu quả
kinh tế cao hay thấp phụ thuộc vào đường lối, chủ trương phát triển kinh tế do bộ máy
quyền lực đưa ra. Đặc biệt khi sử dụng cơ chế thị trường, vấn đề lựa chọn quyết sách
lại càng khó khăn, phức tạp. Ở đây, địi hỏi phải phân tích tình hình thị trường, xác
định mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Mấu chốt của sự thành công là ở
chỗ phải xác định được một chiến lược phát triển đúng đắn, có căn cứ khoa học.
- Kế hoạch cũng là một trong những nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, nó là
sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Muốn có những quyết định mang lại
hiệu quả cần phải có các dự báo khoa học, những dự báo này là những tiền đề không
thể thiếu của quyết định chiến lược cũng như của các kế hoạch.
- Tổ chức là một nội dung quản lý quan trọng nhằm đảm bảo điều kiện thực
hiện các kế hoạch đã định. Tổ chức một cách khoa học là gắn kết một cách hữu cơ các

yếu tố hoạt động sản xuất kinh doanh, các bộ phận, các khâu, các mặt của nền sản xuất
xã hội nhằm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành hài hồ và có trật tự. Do
đó, cần bố trí hợp lý, xác định rõ chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ
chức.

22


- Điều hồ, phối hợp: Trong q trình thực hiện kế hoạch, Nhà nước phải
thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, so sánh giữa các mục tiêu, kế
hoạch với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Phát hiện sự yếu
kém, phân tích nguyên nhân, đưa ra và áp dụng các giải pháp nhằm loại bỏ các yếu
kém trong các hoạt động kinh tế. Ngồi ra, Nhà nước cịn có thể khuyến khích bằng lợi
ích vật chất và lợi ích tinh thần, có các hình thức thưởng phạt từ đó tạo động lực cho
các hoạt động trong sản xuất kinh doanh trong xã hội.
* Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế
Cơng cụ quản lý nói chung là tất cả phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để
tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Chính nhờ các cơng
cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn các quyết định quản lý mà Nhà nước truyền tải
được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân tham gia vào các hoạt động
kinh tế. Các công cụ chủ yếu mà Nhà nước có thể sử dụng để quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm: hệ thống pháp luật, kế hoạch hố và các
chính sách kinh tế.
- Hệ thống pháp luật
Pháp luật thường được hiểu là hệ thống các quy tắc ứng xử có tính chất bắt
buộc chung do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm bảo toàn và phát triển xã hội
theo các định hướng đã định.
Hệ thống văn bản pháp luật trong quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm những
văn bản pháp luật do các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ban hành và các văn bản
pháp luật do cơ quan quyền lực và các cơ quan khác của Nhà nước ban hành. Trong

thực tế, có hai loại văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế
là văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, gồm: luật,
pháp lệnh, nghị định, quyết định, nghị quyết, thông tư, chỉ thị,… được ban hành bởi cơ
quan nhà nước trung ương và địa phương.
- Kế hoạch hoá
Kế hoạch theo nghĩa hẹp là phương án hành động trong tương lai; theo nghĩa
rộng là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực hiện
phương án hành động trong tương lai. Với tư cách là một công cụ quản lý kinh tế của
Nhà nước, kế hoạch hoá bao gồm các nội dung hoạt động chủ yếu sau:

23


×