LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải đổi mới toàn diện nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tài chính nói chung và
thuế nói riêng. Từ năm 1990 đến nay, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hệ
thống chính sách thuế và bộ máy ngành thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành
dọc từ Trung ương đến quận huyện. Quản lý thu thuế đã được dổi mới căn bản, từng
bước hiện đại hóa và phát huy được vai trò tích cực trong việc thực hiện các luật
thuế mới và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Trong quản lý thuế các khu vực kinh tế, thì khu vực doanh nghiệp luôn được
quan tâm hàng đầu vì đây là khu vực đóng góp lớn nhất vào thu ngân sách nhà
nước, mặc dù số doanh nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng số đối tượng nộp thuế giá
trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp và bằng 1% tổng số đối tượng nộp thuế,
nhưng đóng góp gần 2/3 tổng thu nội địa. Số thu của một đối tượng ở khu vực này
thường gấp nhiều lần số thu của đối tượng là hộ cá thể hoặc cá nhân. Mặt khác, đây
là khu vực đòi hỏi trình độ quản lý cao của cán bộ thuế và là khu vực có nhiều phức
tạp nhất trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý.
Quá trình thực hiện đổi mới quản lý thuế khu vực doanh nghiêp cũng bộc lộ
nhiều bất cập cả về qui trình quản lý, ứng dụng công nghệ tin học, bố trí nguồn
nhân lực, trình độ cán bộ quản lý của cơ quan thuế, chưa tận dụng được kinh
nghiệm quản lý thu thuế của các nước tiên tiến. Số lượng đối tượng nộp thuế nói
chung và số doanh nghiệp nói riêng tăng lên nhanh chóng; tính tuân thủ, tự nguyện
của đối tượng nộp thuế chưa cao, tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế vẫn còn và diễn
ra ở nhiều địa phương trong cả nước.
Trước vấn đề đặt ra như trên đòi hỏi phải có những nghiên cứu cơ bản từ lý
luận đến thực tiễn để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục trong đó hoàn
thiện quản lý thu thuế được coi là nội dung trọng tâm của cải cách hệ thống thuế. Là
người tham gia quản lý lĩnh vực này của Tổng cục Thuế, tôi lựa chọn đề tài: "Hoàn
thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay" làm luận văn
thạc sĩ Kinh doanh và quản lý - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2 - Tình hình nghiên cứu
Từ năm 1990 đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu quản lý thu thuế, tập
trung vào các nhóm sau:
- Quản lý thu thuế trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
như: "Công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Nội", Luận văn
thạc sĩ Quản lý kinh tế của Vũ Thị Toản, Hà Nội, 1996; "Các giải pháp nhằm tăng
cường công tác thanh tra thuế trên địa bàn Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh
tế của Phi Văn Tuấn, Hà Nội, 1997; "Những giải pháp chủ yếu chống thất thu thuế
trên địa bàn Nghệ An trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế
của Đoàn Hồng Vũ, Hà Nội, 1999.
- Ngoài ra, nghiên cứu quản lý thu thuế nói chung có đề tài: "Nâng cao hiệu
quả quản lý thu thuế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", Luận văn thạc sĩ Kinh tế
của Trịnh Hoàng Cơ, Hà Nội, 2004.
Các đề tài, bài viết có đề cập ở mức độ nhất định về quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về lĩnh vực
này.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi có tham khảo ý tưởng trong các công trình
khoa học, bài viết đã công bố, giúp cho việc hệ thống hoá lĩnh vực nghiên cứu từ
khi đổi mới đến nay, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới.
3 - Mục đích của luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn là nghiên cứu là rõ cơ sở lý luận và thực
trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp, chỉ ra kết quả, hạn chế và nguyên
nhân, đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta
hiện nay.
4 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề có liên quan đến quản lý thu thuế
đối với doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
nhà nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn trong lĩnh vực quản lý thu thuế
đối với doanh nghiệp của cơ quan thuế nội địa và trong khoảng thời gian từ năm
1990 đến nay.
5 - Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử
để nghiên cứu và trình bày các nội dung lý luận và thực tiễn. Luận văn sử dụng một
số phương pháp khác nhau như kết hợp lịch sử với lôgíc, tổng hợp và phân tích để
qua đó rút ra kết luận.
- Nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến thuế và quản lý thu thuế đối với
đoanh nghiệp; tổng kết quá trình cải cách quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp của
Việt Nam. Đồng thời, có kết hợp nêu kinh nghiệm các nước tiên tiến.
6 - Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Hệ thống hoá và có đóng góp bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về quản
lý thu thuế đối với doanh nghiệp.
- Tìm hiểu và rút ra bài học kinh nghiệm về quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ở một số nước có thể tham khảo vận dụng đối với Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở
nước ta.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước
ta hiện nay.
7 - Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
bố cục làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU
THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1.1. Thuế và các sắc thuế thu đối với doanh nghiệp
* Thuế đối với doanh nghiệp
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thuế ra đời là một sự cần thiết
khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Sự xuất hiện
thuế trong kỷ nguyên của nhân loại gắn liền với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Có nhiều định nghĩa về thuế. Ở nước ta hiện nay cũng chưa có một định
nghĩa thống nhất về thuế. Chúng tôi cho rằng định nghĩa trong giáo trình "lý thuyết
về thuế" Học viện Tài chính được coi là chính thống thì thuế được định nghĩa như
sau: thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà
nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định, nhằm sử dụng cho mục đích
công cộng [16].
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính: nó
biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính. Những đặc
trưng để phân biệt thuế với các công cụ tài chính khác đó là: thuế mang tính chất bắt
buộc, tính không hoàn trả trực tiếp và tính pháp lý cao. Thuế thực hiện hai chức
năng cơ bản: chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh
tế.
Thuế đối với doanh nghiệp (DN) là thuế đánh vào các pháp nhân kinh
doanh bao gồm: doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã.
* Các sắc thuế thu vào doanh nghiệp
Thuế Giá trị gia tăng: là một loại thuế tiêu dùng, tính trên phần giá trị tăng
thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng.
Giá trị gia tăng (GTGT) là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh
doanh. Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với
tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng. Thuế GTGT phải nộp ở mỗi giai
đoạn được tính bằng cách lấy số thuế GTGT đầu ra (tính được bằng cách lấy thuế
suất x giá hàng hoá dịch vụ bán ra) trừ số thuế GTGT đầu vào (tính được bằng cách
lấy thuế suất x giá hàng hoá dịch vụ mua vào).
Thuế GTGT là công cụ có hiệu quả trong việc động viên nguồn thu cho ngân
sách nhà nước (NSNN). Số thuế GTGT từ sản xuất kinh doanh nội địa chiếm tỷ
trọng cao nhất (so với các loại thuế khác) trong tổng thu NSNN: khoảng 16,8%, (từ
kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu chỉ khoảng 9%) và chiểm 36 % trong tổng thu
từ doanh nghiệp. Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ 1/1/1999 thay cho thuế
doanh thu trước đây (sắc thuế này hiện đã có trên 120 quốc gia áp dụng).
Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế tiêu dùng, đánh vào một số hàng hoá dịch
vụ đặc biệt nằm trong danh mục Nhà nước qui định, được tính căn cứ vào giá cả và
thuế suất (giá tính thuế là giá chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt). Đối với hàng nhập
khẩu, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là nguồn thu quan trọng của NSNN, là công cụ quan
trọng thực hiện mục đích hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ
được coi là đặc biệt, thực hiện tái phân phối thu nhập của các tầng lớp có thu nhập
cao, đảm bảo công bằng xã hội. Hiện nay, số thuế tiêu thụ đặc biệt từ sản xuất kinh
doanh nội địa chiếm khoảng 8-10% trong tổng thu NSNN (từ kinh doanh hàng hoá
xuất, nhập khẩu là 1%), và chiếm 20,8 % trong tổng thu từ doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập
chịu thuế của các DN.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) được tính bằng cách lấy thu nhập chịu thuế
(bằng doanh thu trừ chi phí+các thu nhập khác) x thuế suất.
Thuế TNDN được sử dụng để điều tiết thu nhập của các nhà đầu tư nhằm
góp phần đảm bảo công bằng xã hội, là một trong các nguồn thu quan trọng của
NSNN, chiếm khoảng 15% trong tổng thu NSNN và chiếm 35,3% trong tổng thu từ
DN năm 2004, cao thứ hai sau thuế giá trị gia tăng và là công cụ có hiệu quả để Nhà
nước thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô.
Thuế tài nguyên: là loại thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên khai thác
được. Thuế này được tính bằng cách lấy số lượng tài nguyên thực tế khai thác x Giá
tính thuế đơn vị tài nguyên x Thuế suất.
Thuế tài nguyên là công cụ để quản lý, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết các
hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ môi
trường sinh thái và động viên một phần thu nhập cho NSNN. Số thuế tài nguyên
chiếm khoảng 0,7% trong tổng thu NSNN và chiếm 2 % trong tổng thu từ DN năm
2004.
Thuế môn bài: là thuế đăng ký kinh doanh được tính theo năm. Mức thuế
được áp dụng theo số tuyệt đối và được phân biệt theo 2 nhóm: tổ chức kinh tế và
hộ kinh doanh cá thể. Đối với DN (tổ chức) thì mức môn bài được qui định từ
1.000.000đ đến 3.000.000đ tuỳ theo vốn đăng ký.
Số thuế môn bài chiếm khoảng 0,4% trong tổng thu NSNN và chiếm 0,6%
trong tổng thu từ DN năm 2004.
Ngoài ra còn một số khoản thu khác đối với doanh nghiệp như thuế nhà đất,
tiền thuê đất. Những khoản thu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu từ doanh
nghiệp.
Mỗi sắc thuế nêu trên có phương pháp quản lý cụ thể khác nhau, tuy nhiên
trong phạm vi luận văn không đi sâu vào quản lý của từng sắc thuế cụ thể mà chỉ đề
cập những vấn đề quản lý mang tính chất chung nhất của tất cả các sắc thuế thu
vào DN.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp
* Khái niệm quản lý thuế và thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thuế là vấn đề đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều
quan niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đều nhìn nhận quản lý thuế ở một góc độ,
phạm vi khác nhau và với mục đích, ý nghĩa thực tiễn khác nhau. Theo chúng tôi,
các quan niệm về quản lý thuế đều có các điểm chung là:
+ Đều đề cập đến các nội dung của khâu hành pháp về thuế;
+ Đều đề cập đến sự tác động của chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản
lý bằng các phương thức, phương tiện nào đó nhằm đạt mục đích nhất định. Chủ thể
quản lý là Nhà nước (mà trực tiếp là cơ quan thuế các cấp). Đối tượng bị quản lý là
các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ về thuế. Mục đích quản lý là để đối tượng nộp
thuế và các đối tượng có liên quan thực hiện tốt nghĩa vụ luật định về thuế của
mình. Phương tiện quản lý là sử dụng các qui định về đăng ký thuế, kê khai thuế,
nộp thuế, hoàn thuế, thanh tra thuế với bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở chất cần
thiết để quản lý.
Quản lý nhà nước về thuế là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các khâu lập
pháp, hành pháp và tư pháp về thuế, còn quản lý thuế gồm những hoạt động có tổ
chức trong bộ máy nhà nước, thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế của cơ
quan thuế các cấp, với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định nhằm thực
hiện chính sách thuế đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Theo nghĩa rộng,
quản lý thuế là hoạt động nhằm đảm bảo sự thực thi nghiêm chỉnh pháp luật về thuế
thông qua sự tự giác của chính đối tượng nộp thuế và sự hỗ trợ của cơ quan thuế và
các cơ quan nhà nước có liên quan.
- Quản lý thu thuế đối với DN là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ
quan thuế là đại diện để tổ chức hướng dẫn, điều hành, giám sát việc thực thi pháp
luật về thuế đối với các doanh nghiệp nhằm động viên nguồn thu vào ngân sách nhà
nước.
- Đối với cán bộ thuế, quản lý thu thuế nói chung và quản lý thu thuế DN nói
riêng bao gồm ba hoạt động riêng biệt, liên tiếp nhau: xác định đối tượng nộp thuế,
xác định số thuế phải nộp và thu thuế. Chức năng chủ yếu của quản lý ở đây là kiểm
soát sự tuân thủ và áp dụng các khoản phạt theo luật thuế để răn đe những đối tượng
nộp thuế vi phạm. Đồng thời, quản lý thu thuế cũng đảm bảo bên thứ ba có giao
dịch mua bán hay cung cấp dịch vụ với đối tượng nộp thuế phải báo cáo đầy đủ,
trung thực các giao dịch kinh tế có phát sinh thuế nộp ngân sách nhà nước theo qui
định của luật [25, tr. 39].
- Đối với một cơ quan thuế, quản lý thu thuế hay quản lý thu thuế đối với DN
là một quá trình giống như quá trình sản xuất. Trong đó, đầu vào gồm nhân công
(cán bộ thuế), tài liệu và các thông tin, còn đầu ra là số thu cho Nhà nước và sự
công bằng cho người nộp thuế.
- Trên phạm vi cả nước, quản lý thu thuế đối với DN bao gồm các hoạt động:
hoạch định mục tiêu, phân cấp quản lý, xây dựng và ban hành qui trình thủ tục, đề
ra giải pháp tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra, sắp xếp tổ chức bộ máy và
nhân sự để thực hiện các khâu công việc [25, tr. 20-22].
* Đặc điểm quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thu thuế đối với đối với DN là quản lý thu thuế đối với những pháp
nhân và là những đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lớn. Số thu từ DN chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nội địa (như đã nêu trên) do vậy quản lý thu thuế đối với DN được
đặc biệt quan tâm và đặt ưu tiên hàng đầu. Hầu hết cơ quan thuế các nước cũng tập
trung không ngừng và đáng kể các nguồn lực vào việc quản lý nhóm đối tượng nộp
thuế này.
- Quản lý thu thuế trên cơ sở ĐTNT thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn,
chứng từ. Theo chế độ hiện hành, các DN đều phải mở sổ sách kế toán, và hạch toán
kế toán theo chế độ qui định và thực hiện nghĩa vụ thuế theo phương pháp kê khai
thuế.
- Doanh nghiệp có phạm vi kinh doanh rộng hơn và mức độ phức tạp cao
hơn so với đối tượng là hộ cá thể. Ngày nay, nhiều DN có phạm vi kinh doanh toàn
cầu. Vì vậy, việc kiểm soát chi phí và thu nhập khi tính thuế là hết sức phức tạp.
Nhiều DN lớn không trốn thuế một cách "ngây ngô" như các DN nhỏ hoặc cá nhân
kinh doanh bằng cách gian lận hoá đơn hay bán hàng không xuất hoá đơn. Các DN
này luôn xuất trình đủ hoá đơn, chứng từ và hạch toán rất bài bản, nhưng đằng sau
những số liệu "sạch sẽ" đó, là cả một kế hoạch tránh thuế hết sức tinh vi. Do đó,
quản lý thu thuế đối với DN đòi hỏi đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cao. Có như vậy, mới phát hiện được các thủ thuật trốn thuế, tránh thuế hết sức
tinh vi của các đối tượng này, từ đó đề xuất hoàn thiện chính sách hoặc xử lý đối
tượng vi phạm.
* Yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Xuất phát từ vị trí của thu từ doanh nghiệp trong thu nội địa
Tỷ trọng thu từ khu vực DN ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong tổng thu nội địa, từ 70% giai đoạn 1996-2000 lên 76,8% giai đoạn 2001-2005,
tốc độ tăng thu khu vực DN bình quân 5 năm là 19% (trong khi tốc độ tăng tổng thu
NSNN bình quân chỉ đạt 13,9%/năm). Các khoản thu khác như phí, lệ phí, các
khoản thu từ nhà, đất và thu khác giảm dần, từ 30% giai đoạn 1996-2000 xuống còn
23,2% giai đoạn 2001-2005.
Thu từ khu vực DN là khoản thu quan trọng, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
tổng thu nội địa, vì vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện quản lý thuế từ doanh nghiệp
có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý thuế nói riêng và quản lý tài chính nói
chung.
Tác động của việc hoàn thiện chính sách thuế đối với doanh nghiệp
Đối tượng quản lý là một hệ thống phức tạp, luôn vận động và phát triển. Qui
luật về sự phù hợp giữa cơ chế quản lý với đối tượng quản lý là một qui luật cơ bản
của quản lý mang tính lịch sử cụ thể rõ nét [15, tr.66].
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự các
công việc của quá trình quản lý. Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ
giữa các bộ phận, các khâu, các cấp trong hệ thống quản lý [15, tr.52]
Việc hoàn thiện chính sách thuế chính là làm thay đổi khối lượng công việc
và trình tự các công việc trong quá trình quản lý thuế, và làm thay đổi mạnh mẽ đối
tượng quản lý. Ví dụ khi ban hành Luật Thuế GTGT, khối lượng công việc quản lý
thuế thay đổi như phát sinh thêm các công việc về hoàn thuế, về đối chiếu hóa đơn;
đối tượng quản lý thay đổi như một số đối tượng trước đây chịu thuế doanh thu nay
không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT
Từ năm 1986, đất nước ta bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật thuế
mới bắt đầu được xây dựng và không ngừng được bổ sung sửa đổi. Việc hoàn thiện
chính sách thuế nói chung và thuế đối với DN nói riêng đặt ra yêu cầu phải hoàn
thiện về phương pháp, qui trình và tổ chức quản lý thuế.
Tác động của hội nhập kinh tế và hội nhập về thuế đối với doanh nghiệp
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế
là tất yếu khách quan, một mặt tạo cơ hội thuận lợi cho các nước phát huy lợi thế
của mình để phát triển kinh tế. Các nước đang phát triển lợi dụng khoa học công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới
đồng thời thu hút được nguồn vốn từ nước ngoài để tạo bước phát triển nhảy vọt về
kinh tế, làm cho nền kinh tế có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có cơ
hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển. Ngược lại, xu hướng hội nhập,
liên kết kinh tế trong khu vực, tiến tới toàn cầu hoá kinh tế sẽ làm tăng sức ép cạnh
tranh giữa các nền kinh tế. Mỗi nước phải tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu
kém vươn lên mới chiến thắng trong cạnh tranh và hội nhập.
Quá trình hội nhập không chỉ đòi hỏi hệ thống thuế nhập khẩu phải được sửa
đổi mà hệ thống thuế nội địa cũng phải được sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế.
Quản lý thuế nội địa nói chung và quản lý thuế đối với DN nói riêng cũng phải
được cải cách theo các chuẩn mực quốc tế, tiến tới trao đổi thông tin về quản lý thuế
đối với các công ty đa quốc gia.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ THU THUẾ, CÁC CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ
PHƯƠNG THỨC KÊ KHAI NỘP THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.2.1. Nội dung quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Thứ nhất là hoạch định mục tiêu
Mục tiêu là trạng thái tương lai, là đích phải đạt tới mà hệ thống quản lý
mong muốn đạt tới. Nó có vai trò chi phối và định hướng hoạt động của toàn bộ hệ
thống.
Mục tiêu quản lý phải được xác định trước, nó luôn chi phối, dẫn dắt cả chủ thể và
đối tượng quản lý trong toàn bộ quá trình hoạt động. Xác định mục tiêu đúng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động quản lý.
Mục tiêu của quản lý thuế nói chung thường được xác định bằng các chỉ tiêu
cụ thể như: số thuế thu trong một thời gian nhất định; tỷ lệ huy động nguồn thu từ
thuế vào ngân sách nhà nước; tốc độ tăng trưởng về số thu của thời kỳ kế hoạch so
với thời kỳ trước; tỷ trọng các sắc thuế (thường hay quan tâm đến tỷ trọng của thuế
gián thu và thuế trực thu trong tổng thu ngân sách) cần đạt được trong từng thời kỳ
vv [10, tr12]. Tuy nhiên, vì thuế có các chức năng cơ bản là huy động nguồn lực
tài chính cho Nhà nước và điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước, do
đó xét đến cùng, mục tiêu của quản lý thuế là nhằm làm cho ĐTNT thực hiện đầy
đủ kịp thời các nghĩa vụ luật định về thuế của mình, đồng thời Nhà nước thực hiện
được các mục tiêu vốn có của mỗi sắc thuế [4].
Mục tiêu cụ thể của quản lý thuế đối với DN, đó là làm cho các DN thực
hiện đầy đủ kịp thời các nghĩa vụ luật định về thuế của mình trên cơ sở mức độ tuân
thủ tự nguyện pháp luật thuế của các DN ngày càng cao. Điều đó cũng có nghĩa là
số thuế thu từ DN sẽ tiến gần đến số thuế tiềm năng, hay thất thu thuế ngày càng
giảm thiểu và tiến dần tới 0; số thu của ngân sách nhà nước từ DN sẽ là lớn nhất
trong điều kiện chính sách thuế ổn định, đồng thời chi phí của cơ quan thuế giảm
khi mức độ tuân thủ của đối tượng nộp thuế ngày càng tăng. Đồng thời mục tiêu
vốn có của mỗi sắc thuế cũng được thực hiện.
* Thứ hai là phân cấp quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Hệ thống quản lý là một hệ thống rất phức tạp, bao gồm nhiều tầng nấc, mỗi
tầng nấc là một hệ thống con có sự độc lập tương đối, có mục tiêu riêng và điều
kiện vận động đặc thù cả về vật chất và thông tin nhưng lại đặt trong sự quản lý
thống nhất chung của toàn hệ thống. Như vậy, toàn bộ hệ thống vừa có một sự quản
lý tập trung thống nhất, vừa có sự tự vận động độc lập tương đối. Do đặc thù quản
lý của hệ thống, chủ thể quản lý một mặt phải đảm bảo sự quản lý tập trung thống
nhất trên những mặt cơ bản chính yếu nhất, mặt khác phân cấp cho cấp dưới xử lý
thông tin và ra quyết định với những quyền hạn và trách nhiệm xác định. Việc phân
cấp trong quản lý mang lại nhiều lợi ích:
- Giải phóng cho chủ thể quản lý cấp cao những công việc sự vụ, tập trung
vào những nhiệm vụ quan trọng, có tầm chiến lược, đảm bảo sự quản lý tập trung,
thống nhất.
- Giao quyền và trách nhiệm quản lý cho cấp dưới để tạo điều kiện phát huy
tính năng động sáng tạo của cấp dưới, rèn luyện và tập dượt cho cấp dưới trưởng
thành, khắc phục tính dựa dẫm, ỷ lại cấp trên.
- Tạo nên bầu không khí tâm lý dân chủ và lành mạnh trong tập thể của hệ
thống quản lý, mở rộng dân chủ hoá trong quản lý.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý cũng là nội dung cơ bản của
phân cấp, vừa đảm bảo sự quản lý tập trung trên những vấn đề cơ bản và mở rộng
dân chủ cho cấp dưới. Trong quản lý hiện đại, nhất là trong điều kiện của hệ thống
quản lý ngày càng phức tạp, lượng thông tin cực kỳ lớn và rất nhạy cảm trong xử lý
thì yêu cầu phân cấp càng lớn và càng đòi hỏi dân chủ hoá và mở rộng quyền. Tuy
nhiên, tập trung quyền lực hay phân quyền đến đâu còn tuỳ thuộc vào điều kiện
khách quan và nhất là trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở mỗi cấp [15, tr.69-
70].
Trong hệ thống quản lý thuế, việc phân cấp quản lý cho từng cấp là hết sức
cần thiết. Ở nhiều nước, hệ thống thuế được tổ chức phù hợp với tổ chức của Nhà
nước như thuế Liên Bang, thuế Bang (như Hoa Kỳ, Úc), hoặc thuế Trung ương và
thuế địa phương (như Trung Quốc,Nhật Bản, Philipin ). Đối với thuế Liên Bang
hoặc thuế Trung ương, xu hướng chung trên thế giới hiện nay là cơ quan thuế được
tổ chức theo ngành dọc thống nhất gồm hai hoặc ba cấp. Đối với Việt Nam, Hệ
thống thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến quận,
huyện (từ năm 1990) chịu trách nhiệm quản lý thu tất cả các khoản thu nội địa
(không phân biệt thuế Trung ương hay thuế địa phương).
Việc phân cấp quản lý thu trong ngành Thuế thường căn cứ vào đối tượng
quản lý (không căn cứ vào sắc thuế). Một đối tượng có thể nộp nhiều loại thuế khác
nhau nhưng hầu hết sẽ chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan thuế. Điều này tránh
được sự phiền hà cho ĐTNT (chỉ phải liên hệ với một cơ quan thuế). Trong tổng số
đối tượng nộp thuế hiện nay: khoảng hơn 140.000 doanh nghiệp, gần 1,5 triệu hộ
kinh doanh cá thể, hơn 10 triệu hộ nộp thuế nhà đất, hàng trăm nghìn đối tượng nộp
thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế khác, tất yếu phải được phân cấp quản lý cho
từng cấp trong ngành thuế một cách phù hợp. Có như vậy, mới tạo ra sức mạnh tổng
hợp để quản lý thu có hiệu quả.
Đối với DN, mặc dù số đối tượng nộp thuế không lớn, tuy nhiên số thu từ đối
tượng này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nội địa; qui mô và phạm vi kinh doanh
rộng lớn hơn hộ cá thể rất nhiều, đòi hỏi cán bộ quản lý thuế phải có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao do đó việc phân cấp quản lý đối tượng này cũng phải
dựa vào qui mô, ngành nghề kinh doanh, đặc điểm của DN, độ phức tạp của công
tác quản lý, cơ sở vật chất và nhân lực của cơ quan thuế.
* Thứ ba là xây dựng, ban hành và thực hiện các qui trình quản lý thu
đối với doanh nghiệp
Qui trình quản lý thu thuế qui định trình tự, thủ tục các bước công việc phải làm để
quản lý thu thuế.
Việc ban hành qui trình quản lý giúp cho cơ quan thuế chỉ đạo, điều hành
hoạt động của cả hệ thống một cách thống nhất, khoa học, theo một trình tự hợp lý,
đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật thuế, thực hiện dân chủ hóa, công khai minh bạch
và rõ ràng để các cán bộ thuế, đối tượng nộp thuế dễ thực hiện và kiểm soát cơ quan
thuế.
Việc thực hiện các qui trình quản lý thuế phản ánh chất lượng quản lý của cơ
quan thuế và tác động đến kết quả thu thuế.
Mỗi loại ĐTNT có đặc điểm khác nhau, các sắc thuế áp dụng khác nhau. Vì
vậy, qui trình quản lý thuế cũng được qui định cho từng loại đối tượng phù hợp với
đặc điểm về chính sách thuế và đặc điểm riêng có của từng loại đối tượng, như qui
trình quản lý đối với doanh nghiệp, qui trình quản lý đối với hộ cá thể kinh doanh,
qui trình quản lý phí, lệ phí, qui trình quản lý thuế trước bạ Cùng với cải cách
chính sách thuế và yêu cầu quản lý, đòi hỏi các qui trình này cũng phải được bổ
sung, sửa đổi hoặc cải cách căn bản qua các giai đoạn.
Qui trình quản lý thu đối với DN bao gồm các qui trình nhỏ như qui trình
đăng ký thuế, kê khai nộp thuế, kiểm soát tính thuế, thông báo thuế, thu thuế, tuyên
truyền hỗ trợ ĐTNT; cưỡng chế thu nợ thuế; thanh tra, kiểm tra, và xử lý vi phạm
pháp luật về thuế. Nội dung của qui trình này bao gồm:
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các đơn vị và cá nhân liên quan đến quản
lý thu thuế đối với DN trong cơ quan thuế.
- Trình tự, thủ tục hành chính của các bước công việc: đảm bảo hoạt động
đồng bộ giữa các bước công việc cũng như về thời gian.
- Mối quan hệ công tác giữa các đơn vị, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ:
phối hợp ngang giữa các bộ phận trong cơ quan, giữa các cơ quan trong ngành; kết
hợp các công việc của các cá nhân trong bộ phận.
Việc xây dựng, ban hành và thực hiện các qui trình quản lý thu đối với doanh
nghiệp là nội dung cơ bản của quản lý thuế.
Một số khâu cơ bản trong qui trình quản lý:
Tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT:
- Cơ quan thuế thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế cho doanh
nghiệp và mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để làm cho các cấp các ngành và mọi
người dân hiểu biết về thuế, thực hiện luật thuế và lên án những hành vi vi phạm
pháp luật thuế, hỗ trợ cơ quan thuế trong quản lý thu thuế.
- Cơ quan thuế cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho DN: nắm bắt nhu cầu và tổ chức
các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ DN sát với yêu cầu, đặc điểm của từng nhóm
ĐTNT với những nội dung, hình thức phù hợp đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của
DN nhanh nhất và đầy đủ nhất, nhằm hỗ trợ tối đa để DN hiểu biết pháp luật thuế và
kê khai thuế, nộp thuế đúng qui định của pháp luật thuế.
Xử lý tờ khai và kế toán thuế:
- Nhận các tờ khai thuế, phát hiện các lỗi kê khai và hướng dẫn ĐTNT sửa
lỗi kịp thời, xác định nghĩa vụ thuế theo kê khai của của DN.
- Theo dõi tình hình thực hiện kê khai của DN và cung cấp thông tin này cho
các khâu quản lý tiếp theo để các khâu quản lý như hỗ trợ, thu nợ, thanh tra, kiểm
tra có biện pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn người nộp thuế để tránh các lỗi đã
mắc trong kê khai nếu việc mắc lỗi là do chưa hiểu rõ; hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ
khai nếu tờ khai chưa phù hợp; hoặc đó là một dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các
trường hợp thanh tra.
- Nhận chứng từ nộp thuế, hạch toán số thuế đã nộp của DN, theo dõi thanh
toán thuế, đảm bảo tính đúng nợ thuế của ĐTNT theo từng khoản thuế phải nộp, để
khâu cưỡng chế thu nợ thuế thực hiện đôn đốc và cưỡng chế DN nộp thuế vào
NSNN.
Cưỡng chế thu nợ thuế:
Mục tiêu của công tác cưỡng chế thu nợ thuế là kịp thời phát hiện và xử lý các đối
tượng nộp thuế cố ý chây ỳ, nợ thuế, chiếm đoạt tiền thuế và các khoản tiền phạt
liên quan đến thuế, để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu vào
NSNN, phù hợp với pháp luật thuế.
Nội dung của công tác cưỡng chế thu nợ thuế là:
- Giám sát chặt chẽ việc thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế của DN, có
biện pháp kịp thời để đôn đốc, xử phạt việc chậm kê khai, chậm nộp thuế của DN
theo qui định của luật thuế.
- Theo dõi được số thuế nợ của DN theo từng loại thuế, mức nợ, tuổi nợ,
nguyên nhân của từng khoản nợ thuế và kết hợp với việc phân tích thông tin về tình
hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của DN để xây dựng kế hoạch và có
biện pháp tổ chức thu nợ phù hợp.
Thanh tra, kiểm tra:
Kiểm tra, thanh tra có liên quan đến mọi cấp quản lý, nhằm đo lường và điều
chỉnh hoạt động của các bộ phận cấp dưới căn cứ vào mục tiêu và kế hoạch đã định.
Mục đích của kiểm tra nhằm đảm bảo kế hoạch thành công, nhờ phát hiện kịp thời
những sai sót, tìm ra nguyên nhân và biện pháp sửa chữa kịp thời những sai sót đó.
Kiểm tra là tai mắt của quản lý. Vì vậy cần tiến hành thường xuyên linh hoạt nhiều
hình thức kiểm tra. Kiểm tra là việc làm bình thường không được cản trở đối tượng
thực hiện mục tiêu [15].
Kiểm tra, thanh tra là một nội dung quan trọng trong quản lý thuế. Lịch sử
phát triển của công tác quản lý thuế của các nước trên thế giới đã chứng minh chức
năng thanh tra thuế là tất yếu và là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan
thuế để bảo đảm chính sách thuế được thi hành nghiêm túc.
Đối tượng của kiểm tra thanh tra thuế là các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ
nộp thuế cho Nhà nước. Kiểm tra, thanh tra thuế nói chung và kiểm tra, thanh tra
thuế đối với DN nói riêng đều nhằm hướng vào các mục đích chủ yếu sau [14]:
- Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật
thuế như khai man, trốn thuế, nợ đọng thuế, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình
trạng thất thu thuế cho Nhà nước và đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp
thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
- Làm cho các DN tin rằng mọi vi phạm về thuế, đặc biệt là các trường hợp trốn
thuế sẽ bị cơ quan thuế phát hiện và xử phạt. Từ đó, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật thuế của ĐTNT.
- Phát hiện những nội dung không phù hợp trong các văn bản pháp qui về thuế,
những điểm bất hợp lý trong qui trình quản lý thuế, cơ cấu tổ chức, từ đó kiến nghị
các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung kịp thời để không ngừng hoàn thiện chính
sách thuế và quản lý thuế.
Nội dung kiểm tra, thanh tra thuế đối với DN gồm: kiểm tra, thanh tra việc
chấp hành những qui định về đăng ký, kê khai và nộp thuế, việc chấp hành chế độ
sổ sách kế toán và hoá đơn, chứng từ.
Về kỹ thuật thanh tra: có thanh tra theo truyền thống và thanh tra dựa trên cơ
sở phân tích rủi ro (là kỹ thuật thanh tra mà các nước tiến tiến đang áp dụng.)
Về hình thức thanh tra: nếu xét theo thời gian có thanh tra đột xuất và thanh
tra theo kế hoạch, xét theo phạm vi có thanh tra toàn diện và thanh tra có trọng
điểm. Tuỳ theo yêu cầu cụ thể để áp dụng hình thức thanh tra đối với DN một cách
phù hợp.
* Thứ tư là xây dựng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ
Về cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức quản lý là một chỉnh thể gồm các bộ phận có chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn khác nhau, có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được bố trí
thành từng cấp, từng khâu khác nhau, thực hiện các chức năng quản lý được chuyên
môn hoá nhằm đạt mục tiêu xác định [15]. Mỗi cơ cấu tổ chức quản lý có hai mối
quan hệ cơ bản: quan hệ ngang và quan hệ dọc. Theo quan hệ ngang, cơ cấu tổ chức
quản lý chia thành các khâu quản lý khác nhau. Theo quan hệ dọc, cơ cấu tổ chức
quản lý được chia thành các cấp quản lý.
Hầu hết mô hình tổ chức cơ quan thuế gồm 3 cấp: Trung ương, vùng, địa
phương. Ở nhiều quốc gia, có sự phân chia thuế Trung ương và thuế địa phương
hoặc thuế Liên bang, thuế Bang.Thông thường bộ máy thuế Trung ương hay Liên
Bang có nhiệm vụ thu những loại thuế quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
thu của quốc gia, ngược lại bộ máy thuế địa phương hoặc Bang thu những khoản
thu nhỏ, gắn với chính quyền địa phương
Ở một số nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi, cơ quan thuế
địa phương chịu sự song trùng lãnh đạo của cơ quan thuế cấp trên và chính quyền
địa phương, nhưng xu hướng chung, cơ quan thuế được tổ chức theo ngành dọc độc
lập với chính quyền địa phương.
Về mô hình tổ chức cụ thể, có 3 hình mẫu phổ biến nhất, đó là tổ chức theo
sắc thuế, tổ chức theo chức năng, tổ chức theo đối tượng nộp thuế (tương ứng với 3
mô hình tổ chức trong khu vực kinh doanh là: tổ chức theo sản phẩm, chức năng và
khách hàng).
Mô hình tổ chức bộ máy theo sắc thuế: là mô hình tổ chức các phòng, ban
riêng biệt để quản lý một số loại thuế cụ thể (như Cục hay phòng thuế thu nhập,
phòng thuế GTGT, phòng thuế TTĐB ). Trong từng phòng ban, được tổ chức các
bộ phận thực hiện các khâu công việc quản lý của sắc thuế đó.
Với mô hình này, DN sẽ chịu sự quản lý của nhiều phòng ban, mỗi phòng
ban chịu trách nhiệm quản lý một sắc thuế.
Mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng: Tổ chức các phòng (bộ phận) thực
hiện một hoặc một số chức năng nhất định trong qui trình quản lý thu thuế (Phòng
dịch vụ hỗ trợ ĐTNT, phòng xử lý tờ khai, phòng quản lý thu các trường hợp nợ
đọng, gian lận, phòng Thanh tra ).
Với mô hình này, DN cũng sẽ chịu sự quản lý của nhiều phòng ban, mỗi
phòng ban chịu trách nhiệm quản lý theo chức năng được phân công đối với tất cả
các sắc thuế, ví dụ: chịu sự quản lý của phòng Thanh tra về khả năng thanh tra tất cả
các sắc thuế đối với DN.
Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm ĐTNT: Tổ chức các đơn vị (Cục) theo
nhóm đối tượng. Mỗi Cục chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ các chức năng quản lý
thuế cho nhóm đối tượng (như Cục Quản lý thuế các DN lớn, Cục Quản lý thuế các
DN vừa, nhỏ, Cục Quản lý tiền công và lương hưu như ở Australia).
Theo mô hình này DN chỉ chịu sự quản lý của một tổ chức (Cục), gồm các
phòng thực hiện các chức năng quản lý thuế.
Mô hình này hiện đang được áp dụng ở một số nước phát triển.
Hiện nay, trên thế giới có 3/4 cơ quan thuế các nước hoạt động với cơ cấu tổ
chức theo chức năng hoặc hỗn hợp giữa các mô hình. Cả 3 mô hình nêu trên, mỗi
mô hình đều có ưu điểm, nhược điểm. Những ưu điểm không phải tự có và những
nhược điểm cũng không phải không hoàn toàn tránh được. Vì vậy, mỗi quốc gia cần
nghiên cứu kỹ những đặc điểm của đất nước mình để tổ chức cơ quan thuế phù hợp.
Về cán bộ quản lý
Cán bộ quản lý là người lao động quản lý bao gồm tất cả các cá nhân thực
hiện những chức năng quản lý nhất định trong bộ máy quản lý của một hệ thống.
Đội ngũ cán bộ nói chung gồm 2 loại chính: cán bộ lãnh đạo và cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ.
Đội ngũ cán bộ quản lý giữ vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định
sự thành công hay thất bại của một hệ thống quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ "cán bộ là cái gốc của mọi công việc công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém".
Để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, trước hết phải xác định yêu cầu (yêu
cầu về phẩm chất đạo đức, yêu cầu về năng lực, trình độ). Từ đó, kế hoạch hoá đội
ngũ cán bộ (xác định số lượng và chất lượng cán bộ, kế hoạch bổ sung, luân chuyển,
qui hoạch, đào tạo), phân định chức năng, quyền hạn và trách nhiệm cho cán bộ
trong cơ quan quản lý, bố trí, đánh giá, đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ quản lý.
Để nâng cao hiệu lực của bộ máy nói chung và thuế nói riêng, việc lựa chọn,
bố trí, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu công việc,
có vai trò rất quan trọng.
Chất lượng của quản lý thuế phụ thuộc vào trình độ cán bộ, việc bố trí nhân
lực cho các khâu để quản lý các đối tượng nộp thuế trong qui trình một cách hợp lý.
Đối với các nước có trình độ quản lý thuế tiến tiến thì tỷ lệ cán bộ bố trí cho
khâu xử lý tờ khai và kế toán thuế chiếm từ 14-22%, khâu tuyên truyền và dịch vụ
hỗ trợ doanh nghiệp chiếm từ 12-24%, khâu thanh tra, kiểm tra chiếm từ 24-40%,
khâu cưỡng chế thu nợ thuế chiếm từ 12-17%. (xem biểu 1.1).
Bảng 1.1: Tỷ lệ cán bộ bố trí theo các chức năng ở một số nước
Đơn vị tính:(%)
Quốc gia TT-hỗ trợ
ĐTNT
Xử lý tờ
khai
Thanh tra,
kiểm tra
Thu nợ
thuế
Khác
Canada 8 17 26 17 32
Hoa Kỳ 24 14 27 12 23
Newzeland 19 22 24 14 21
Singapore 20 15 40 13 12
Nguồn: Quĩ Tiền tệ quốc tế
Trong bố trí cán bộ, tỷ lệ cán bộ trực tiếp quản lý thuế phải chiếm tỷ trọng
cao thông thường khoảng 80%, tỷ lệ cán bộ làm công tác phục vụ, quản lý nội bộ
ngành khoảng 20%. Đồng thời phải xác định được các khâu trọng yếu của quản lý
thuế và bố trí cán bộ phù hợp.
Chất lượng và số lượng cán bộ quản lý doanh nghiệp phải được quan tâm
hàng đầu, vì đây là khu vực có số thu lớn nhất, do đó khả năng rủi ro về thuế cũng
lớn nhất.
Cùng với xác định tỷ lệ cán bộ ở các khâu thì cũng cần bố trí cán bộ có trình
độ phù hợp vào quản lý các đối tượng và các khâu công việc. Trong quản lý đối
tượng nộp thuế gồm DN, cá nhân kinh doanh, cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân,
đối tượng nộp phí, lệ phí thì quản lý DN đòi hỏi cán bộ phải có trình độ cao, có kiến
thức đầy đủ về tài chính kế toán, am hiểu hoạt động kinh doanh của DN. Việc đào
tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ thuế nói chung và đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ
quản lý thuế đối DN nói riêng phải được tiến hành thường xuyên, theo hướng chính
qui hiện đại.
1.2.2. Các cơ chế quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Cơ chế cơ quan thuế tính thuế
Cơ chế cơ quan thuế tính thuế: là cơ chế quản lý thu trong đó các đối tượng
nộp thuế phải kê khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế nhận tờ
khai, kiểm tra tờ khai và tính thuế, thông báo số thuế phải nộp gửi đối tượng nộp
thuế. Trong khoảng thời hạn theo thông báo (qui định trong luật), ĐTNT phải có
trách nhiệm nộp đầy đủ số thuế theo thông báo vào kho bạc nhà nước.
Theo cơ chế này, tất cả các ĐTNT đều được cơ quan thuế kiểm tra, tính thuế
do đó đảm bảo được việc tính toán chính xác số thuế phải nộp trên tờ khai của các
đối tượng, phù hợp với một nền kinh tế trong đó ý thức và trình độ hiểu biết về luật
pháp nói chung và luật thuế của đối tượng nộp thuế chưa cao. Tuy nhiên, khối
lượng công việc mà cơ quan thuế đảm nhận sẽ rất nhiều, đặc biệt khi số lượng
ĐTNT tăng lên nhanh chóng sẽ gây áp lực lên cơ quan quản lý thuế, đồng thời trong
một số trường hợp, cách quản lý này gây lãng phí nguồn nhân lực; hơn nữa cơ chế
này không tạo kiện và khuyến khích các đối tượng nộp thuế tuân thủ tốt nghĩa vụ
thuế (vì 100% đối tượng nộp thuế đều được kiểm soát như nhau)
Trên thế giới, hầu hết các nước phát triển đã trải qua cơ chế quản lý này. Tuy
nhiên, đến nay các nước phát triển đã chuyển sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê
khai, tự tính, tự nộp thuế (sẽ được giới thiệu dưới đây).
* Cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai - tự nộp thuế
Cơ chế ĐTNT tự kê khai - tự nộp thuế hay còn gọi là tự khai- tự nộp (TK-
TN) là cơ chế quản lý thuế trong đó các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh căn
cứ nghĩa vụ thuế được qui định tại luật thuế, tự kê khai thuế và tự nộp thuế đầy đủ,
đúng hạn vào ngân sách nhà nước. Cơ quan thuế tăng cường tuyên truyền và cung
cấp dịch vụ hỗ trợ cho ĐTNT, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
trên cơ sở kỹ thuật thanh tra, kiểm tra theo rủi ro (tức là thanh tra, kiểm tra các đối
tượng có nguy cơ trốn lậu thuế thông qua việc phân tích các thông tin).
Trong cơ chế TK-TN, cơ quan thuế chủ yếu tập trung vào công tác tuyên
truyền phục vụ, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh nhằm tạo điều kiện
cho đối tượng nộp thuế hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình, đồng thời
tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế có hiệu quả hơn đối với các
đối tượng nộp thuế có khả năng rủi ro cao (khả năng trốn lậu thuế lớn).
Cơ chế TK-TN thường gắn với mô hình tổ chức theo chức năng.
Ưu điểm của cơ chế tự khai - tự nộp:
+ Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế: mục đích của cơ chế này là nhằm
nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế trên cơ sở tăng cường
tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế và đẩy mạnh thanh tra và kiểm tra, do đó tỷ
lệ đối tượng nộp thuế tuân thủ tự nguyện luật thuế ngày càng cao, có nghĩa là số thu
ngày càng lớn, thất thu ngày càng giảm. Hiệu quả quản lý còn được thể hiện ở chỗ:
khi đối tượng nộp thuế tăng lên nhanh chóng, sẽ không gây áp lực cho cơ quan quản
lý thuế do cơ quan thuế không phải kiểm tra và tính thuế đối với tất cả các tờ khai
như cơ chế cơ quan thuế tính thuế mà trách nhiệm kê khai và tính thuế là của
ĐTNT, cơ quan thuế chỉ tập trung tăng cường công tác tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT
và kiểm tra thanh tra các đối tượng nộp thuế có dấu hiệu nghi ngờ gian lận thuế, vì
vậy có điều kiện phân bổ nguồn lực có hiệu quả hơn, do đó tiết kiệm được chi phí
quản lý. Trường hợp ĐTNT đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính toán
chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính toán kiểm tra lại của cơ quan
thuế (theo cơ chế cơ quan thuế tính thuế) là thừa và lãng phí thời gian, công sức.
Với số lượng các ĐTNT hiện lên đến gần 140.000 doanh nghiệp, sẽ tiết kiệm được
rất nhiều thời gian và công sức cho cán bộ quản lý thu thuế, tiết kiệm được nhân lực
quản lý để tăng cường cho các khâu trọng yếu trong quản lý thu đối với DN: thanh
tra, kiểm tra và xử lý các đối tượng vi phạm luật thuế. Ngoài ra, nhờ việc hàng
tháng không phải gửi thông báo mà ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy, mực, in
ấn, cước phí bưu điện đem lại một hiệu quả kinh tế không nhỏ, giảm chi phí quản
lý thu.
+ Thực hiện cơ chế TK-TN, các ĐTNT không phải đợi nhận được thông báo
của cơ quan thuế để làm cơ sở cho việc nộp thuế. Đối tượng nộp thuế được giảm
bớt các thủ tục hành chính thuế, được chủ động và tạo điều kiện thuận lợi trong việc
thực hiện nghĩa vụ thuế, được cung cấp các dịch vụ hỗ trợ một cách đầy đủ nhất, tốt
nhất, giúp họ hiểu và tự kê khai nghĩa vụ thuế; Theo cơ chế này, ĐTNT phải chịu
trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và cả tính chính xác
của việc tính toán số thuế phải nộp. Nói cách khác, ĐTNT được nâng cao trách
nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước.
Một số hạn chế
+ Nguy cơ trốn lậu, thất thoát thuế lớn nếu trình độ dân trí thấp và không có
biện pháp quản lý phù hợp
Nếu không có biện pháp quản lý thuế phù hợp, chẳng hạn công tác thanh tra,
kiểm tra không kịp thời, việc phổ biến pháp luật kém hiệu quả , có thể dẫn đến tình
trạng lợi dụng việc không kiểm tra, tính toán lại thường kỳ của cơ quan thuế để cố
tình kê khai sai nhằm trốn lậu thuế. Trong trường hợp do hiểu biết pháp luật của đối
tượng nộp thuế kém thì có thể có tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp một cách
vô ý.
+ Đòi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan nhà nước
Để áp dụng cơ chế mới một cách hiệu quả, đòi hỏi cơ sở vật chất của ngành
Thuế phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công
tác thông tin, hỗ trợ cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu có thể được thực hiện nhanh
chóng và chính xác. Nghĩa là, cần có sự đầu tư ban đầu rất lớn, trong khi ngân sách
nhà nước còn hạn hẹp. Mặt khác, trình độ quản lý của các cơ quan hành pháp hiện
nay còn thấp, nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng có thể xẩy ra tình trạng thả nổi,
buông lỏng công tác quản lý thuế [10].
- Những điều kiện tiên quyết để thực hiện cơ chế tự khai - tự nộp thành công
+ Xây dựng hệ thống chính sách thuế và qui trình, thủ tục đơn giản, rõ ràng
để các ĐTNT dễ dàng hiểu và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, có thể tự mình điền vào
các mẫu tờ khai và hoàn thành các thủ tục qui định.
+ Cơ quan thuế cần tập trung vào việc phục vụ, hỗ trợ ĐTNT để đối tượng
nộp thuế hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình: ĐTNT phải nhận được các
thông tin rõ ràng, chính xác về nghĩa vụ thuế, bao gồm căn cứ tính thuế, thuế suất,
thời hạn kê khai nộp thuế, các yêu cầu về chứng từ nộp kèm theo tờ khai Các mẫu
tờ khai cùng với các hướng dẫn rõ ràng cách điền vào tờ khai cần được cung cấp
miễn phí và sẵn có ở các địa điểm thuận tiện. Các ĐTNT phải luôn được thông báo
và cập nhật những thay đổi trong chính sách thuế và cần được tạo điều kiện dễ dàng
tiếp cận với các cán bộ thuế để được hỗ trợ và giải đáp thắc mắc. Hơn nữa, cần phải
tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNT nộp tờ khai thuế và nộp thuế dễ dàng (ví dụ: đồng
thời nộp tờ khai và nộp thuế tại ngân hàng hay kho bạc).
+ Tăng cường được công tác thanh tra, kiểm tra ĐTNT cả về số lượng và
chất lượng để ngăn ngừa và phát hiện kịp thời những trường hợp không chấp hành
nghĩa vụ kê khai, nộp thuế; áp dụng các hình thức xử phạt nghiêm minh đối với các
trường hợp vi phạm về thuế; làm cho ĐTNT tin tưởng rằng các chương trình thanh
tra thuế hiệu quả đang tồn tại. ĐTNT phải nhận thức được rằng các trường hợp