Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh yếu ở lớp 2 học tốt hơn môn tiếng việt và môn toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.26 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Hiện nay, đất nước ta đang chuyển mình vươn lên cùng với các nước trên thế
giới, cơ bản đến năm 2020 trở thành một nước có nền cơng nghiệp phát triển và
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của ngành giáo dục đóng vai
trị hết sức quan trọng là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội. Cho
nên, là một giáo viên hơn ai hết tôi rất thấu hiểu nhiệm vụ hết sức to lớn này
nhưng theo thống kê trên tồn quốc nói chung và của các trường tiểu học nói
riêng đã có biết bao học sinh ở lại lớp và học sinh yếu kém ngồi nhầm chỗ, học
sinh bỏ học do quá yếu không theo học được. Điều đó khiến tơi rất trăn trở là
làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém, giúp học sinh nắm được
kiến thức cơ bản ngay từ những năm học các lớp ở cấp tiểu học.
Thế nhưng mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại
hình, tích cách và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu bài
học rất nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là
khơng hiểu gì thơng qua các hoạt động trên lớp (Nhất là 2 môn Tốn và Tiếng
Việt- hai mơn này có vị trí rất quan trọng), là một giáo viên chủ nhiệm theo tôi
người giáo viên khơng những chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Nếu
giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên
một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng
tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là
trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người giáo viên. Mặc khác, nếu
quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi


đến lớp, cơng tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi
của cơng tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi
giảng dạy, bản thân tôi luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu.


Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được
trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.
Đó cũng là lý do tơi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yếu ở lớp
2 học tốt hơn môn Tiếng việt và mơn Tốn ” để tiếp tục áp dụng vào thực tế
giảng dạy của mình nói riêng và học sinh trường Tiểu học An Bình B nói
chung.
2. Mục đích của đề tài :
Qua đề tài này tơi muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất
lượng dạy học nói riêng và giảm tỉ lệ học sinh yếu kém hay xoá học sinh yếu
kém trong khối cũng như trong các trường học nói chung. Đồng thời tạo cho các
em học sinh yếu kém có ý chí vượt khó khăn, kiên trì, cẩn thận, tự tin vươn lên
trong học tập.
3. Nhiệm vụ của đề tài :
Đề tài tập trung nghiên cứu:
- Tình hình học yếu của học sinh khối 2 hiện nay
- Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để
tìm ra những biện pháp có hiệu quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu.
- Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn (nếu có)
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.


4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài :
Trong quá trình thực hiện đề tài, tơi sử dụng một số phương pháp sau:
* Phương pháp lí luận:
Thu thập thơng tin lí luận của vai trị người giáo viên chủ nhiệm lớp trong công
tác giáo dục đạo đức và học tập của học sinh trên các tập san giáo dục, các bài
tham luận trên internet.
* Phương pháp quan sát :
Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh.
* Phương pháp điều tra:

Trò chuyện trao đổi với giáo viên bộ môn, học sinh, hội cha mẹ học sinh, bạn
bè và hàng xóm của học sinh.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài :
- Qua tìm hiểu sơ bộ từ những phụ huynh học sinh, học hỏi những kinh
nghiệm quý báu của các anh chị em đồng nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng học sinh trong lớp.
6. Đối tượng nghiên cứu của đề tài :
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 2.2 nói riêng và học sinh
khối lớp 2 trường Tiểu học An Bình B năm học 2013- 2014 nói chung. Tổng số
40 em, tất cả 40 đều có tính cách. Trong đó có 18 em nữ và 22 em nam, đa số
các em có cùng lứa tuổi.
7. Khẳng định tính mới của đề tài :


Trong quá trình giảng dạy, việc rèn học sinh yếu là vấn đề tất cả các giáo viên
thường làm nhưng rèn cho học sinh yếu như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất,
đó chính là điều tơi muốn trình bày trong đề tài này.

NỘI DUNG
A. CƠ SỞ KHOA HỌC
Là giáo viên chủ nhiệm ngay khi nhận lớp, tơi tìm hiểu các em học sinh của lớp
mình chủ nhiệm thơng qua giáo viên chủ nhiệm năm trước, giáo viên giảng dạy
bộ môn, trao đổi với một số ban cán sự lớp để tìm hiểu sâu hơn về học sinh lớp
mình. Bên cạnh đó tơi gặp trực tiếp các em học sinh yếu để biết rõ hơn nguyên
nhân học yếu rồi có biện pháp khắc phục và phụ đạo cho từng trường hợp cụ
thể. Sau khi tiến hành các bước trên, tôi đã đưa ra một số biện pháp nhằm giúp
đỡ những học sinh yếu, kém.
Có thể hiểu Học sinh yếu là những học sinh bằng kiến thức, kĩ năng, kinh
nghiệm của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không tự giải
quyết được những mâu thuẫn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học,

hoặc bị hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức, kĩ năng cơ bản phải


có ở học sinh để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá
trình dạy và học.
Giáo viên chủ nhiệm khi gặp học sinh yếu, kém, cá biệt thường lúng túng than
phiền hoặc tìm cách cho các em nghỉ học để giảm bớt gánh nặng cho mình. Nếu
những đối tượng này vi phạm thì quở phạt thật nặng, hoặc đưa ra hội đồng kỷ
luật từ khiển trách đến cảnh cáo và thậm chí là buộc thơi học. Hình thức này đơi
lúc có mặt trái là học sinh càng chán nản và ngày càng trở nên học yếu, kém và
thậm chí nghỉ học. Để giúp học sinh yếu học tốt cần phải tìm hiểu từng đối
tượng học sinh và tạo cho học sinh thấy sự hứng thú, say mê ham học, nhận biết
được việc học để giúp ích gì cho bản thân, gia đình, xã hội. Sau đó giáo viên
chủ nhiệm giải thích cho học sinh thấy được trường học thân thiện, học sinh học
tích cực không phải là áp lực đối với các em, phân tích kĩ nguyên nhân dẫn đến
học sinh học yếu và đưa ra những giải pháp đúng đắn, thiết thực nhất.
Theo cảm nhận của tơi thì chất lượng học tập, tỉ lệ lưu ban bỏ học của một lớp,
cả trường và toàn ngành giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào vai trị của giáo viên
chủ nhiệm. Trong đó, khắc phục học sinh yếu, kém là biện pháp hữu hiệu để hạn
chế tỉ lệ lưu ban bỏ học và nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
B. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi :
* Đối với học sinh lớp 2 là lớp bắt đầu tập tự thân mình làm mọi hành động nên
ý thức, động cơ học tập của các em tương đối cao. Học sinh lớp 2 có thể tiếp
nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn học với vai trị “ Đơi
bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó khăn trong
học tập.


* Đội ngũ giáo viên khối 2 nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối

tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám
hiệu và Đoàn thể nhà trường.
* Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khốn nội
dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân
môn, từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động
hơn trong học tập.
2. Khó khăn :
Bên cạnh những thuận lợi thì đối tượng học sinh yếu có những khác biệt.
Hơn thế nữa, trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về
phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác
nhau.
Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một môn học xếp loại
yếu khi điểm học lực môn dưới 5. Nhưng theo tôi trong thực tế, những học sinh
yếu mơn Tốn, Tiếng Việt thì những mơn học khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này
địi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao.
Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hồn cảnh khó khăn về kinh tế,
cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân
tộc thiểu số, ít quan tâm đến việc học của các em. Ngoài ra, các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả giáo dục như: Đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất…
Thực tế trong những năm vừa qua tôi đã theo dõi học sinh lớp tôi chủ nhiệm
cũng như học sinh của toàn khối khi học hai mơn Tốn và Tiếng Việt, tơi thấy
các em có một thói quen khơng tốt cho lắm:
2.1. Về mơn Tốn:


Đa phần học sinh đọc các đề bài toán qua loa sau đó làm bài ngay, làm xong
khơng cần kiểm tra lại kết quả, cho nên khi trả bài các em mới biết là mình sai
hoặc các em bị hỏng kiến thức cũ, ví dụ như các em khơng thuộc bảng nhân,
chia; Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần
thục dẫn đến tính tốn chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng,

trừ có nhớ và nhân, chia ngồi bảng. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc
nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn.
Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài
tập về giải tốn vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và khơng biết tính hoặc tính
thiếu chính xác.
2.2. Về mơn Tiếng Việt:
Các em đọc còn rất chậm, rất yếu, còn hơn một nửa lớp đọc nhỏ, sai “thêm,
bớt”, còn đọc ê a, còn đọc nhát, đọc ngọng. (Tức là: Nhận mặt chữ chậm, đọc
chậm, còn sai nhiều). Số học sinh đọc tốt trong lớp chỉ có khoảng 5, 6 học sinh.
Chính vì lẽ đó dẫn đến kết quả như chữ viết xấu, sai nhiều lỗi, văn thì diễn đạt
chưa đủ ý, đặt câu thiếu bộ phận câu. (Tức là: Các em chưa biết phân biệt và
chưa hiểu nghĩa của từ, một số em còn viết hoa tuỳ tiện hoặc một số em cịn viết
đúng nhưng qn bỏ dấu thanh).
Tóm lại: Sự yếu kém có những biểu hiện nhiều hình, nhiều vẻ nhưng nhìn
chung thường có 5 đặc điểm sau:
* Nhiều "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng.
* Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm.
* Năng lực tư duy yếu.
* Phương pháp học tập chưa tốt.


* Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà.
C. NỘI DUNG
1. Đặc điểm chung của lớp:

Năm học 2013 - 2014, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2.2, với
tổng số học sinh là 40 em, nữ 18 em, dân tộc 0 em.
Qua kết quả bàn giao của Ban giám hiệu và kết quả kiểm tra chất lượng đầu
năm, lớp tôi đạt như sau:


2. Tình hình thực tế học tập của học sinh qua mơn Tiếng việt và mơn Tốn
2.1. Mơn Tiếng Việt:
Khi dạy môn Tiếng Việt tôi thấy phần đa số học sinh yếu rơi vào phân môn Tập
đọc, bắt đầu từ đó dẫn đến yếu về các phân mơn khác như: Chính tả, Luyện từ
và câu, Tập làm văn. Cụ thể như sau:
* Đối với phân môn Tập đọc:
Dù là học sinh lớp 2, nhưng trong lớp còn một số em đọc rất yếu. Như em Phan,
Thành, Hiếu, Tình, Anh Kiều, Huyền Nhi… Nguyên nhân đọc yếu ở các em là
ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu
(em Phan), chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 2, với những từ có vần
khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên
cạnh đó, khả năng đọc trơi chảy, đọc hiểu và một văn bản còn hạn chế.


Học sinh không đọc được các bài tập đọc: Theo tơi giáo viên phải có kế hoạch
dạy cho em đó trong tiết tập đọc. Có nhiều cách để lập kế hoạch dạy cho em đó.
Ví dụ : Trong tiết tập đọc giáo viên vẫn dạy bình thường, đến phần luyện đọc
giáo viên cũng gọi em đó đọc nhưng chỉ đọc một chữ cái, âm, vần, ghép tiếng
dần dần học sinh đọc được và nâng cao dần lên.
* Đối với phân mơn chính tả:
Trong lớp tơi có học sinh viết khơng kịp hoặc khơng biết viết, khi giáo viên dạy
tiết chính tả thì cần lưu ý đến em đó khơng thể để em đó ngồi tiết học. Ví dụ
khi giáo viên đọc cho HS viết thì đối với học sinh yếu giáo viên cho học sinh
mở Sách giáo khoa để tập chép. Hoặc trong lớp học có nhiều em học sinh yếu
về viết, viết rất chậm thì giáo viên đọc thật chậm và chỉ cho học sinh viết vài
câu là đủ rồi.
* Đối với phân môn Luyện từ và câu:
Các em học sinh thường có vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết
câu.
* Đối với phân môn Tập làm văn:

Khả năng đọc, viết hạn chế đã ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt
khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em.
Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các
chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết
đoạn.
Từ tình hình thực tế như trên theo tơi người giáo viên cần lưu ý:
- Việc rèn đọc đòi hỏi người giáo viên khơng được nản, khơng được bng thả.
Địi hỏi chúng ta phải tỉ mỉ và cặn kẽ.


- GV cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng
công nghệ thông tin để tiết học sinh động hơn, hấp dẫn hơn.
- Cần tích cực tổ chức học sinh học nhóm đều hơn.
- Trị chơi học tập được thực hiện thơng qua các bài học là rất cần thiết và có
hiệu quả rất to lớn. Nếu trò chơi học tập được tổ chức phân phối một cách hợp
lý vừa sức, đúng trọng tâm bài học thì khơng những nâng cao sự hứng thú trong
học tập của học sinh mà cịn phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo giúp các
em tiếp thu bài mau, nhớ lâu, nắm chắc trí thức ngay tại lớp học và qua hoạt
động này có thể kích thích sự tìm tịi ở các em yếu giúp các em tập trung và
nắm bắt được kiến thức.
- Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ
tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện
giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn
nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta
sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê
rèn đọc.
2.2.Mơn Tốn :
* Trong lớp tơi chủ nhiệm có các em như Nguyễn Văn Phan, Lê Thị Cẩm Thu
thì hầu như các em khơng biết tính khi học tốn. Ngun nhân thì có rất nhiều,
bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu như không nắm được các

phép tính cộng, trừ trong phạm vi 100 có nhớ, Vì vậy, các em cũng khơng nắm
được các phép tính cộng, trừ, trong phạm vi 1000 có nhớ. Khơng nắm được lí
thuyết của bài. Khơng nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)…
Từ chỗ khơng nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được
cấu tạo số trong phạm vi 1000. Mà đối với học sinh lớp 2, các em phải làm rất
nhiều bài tập về các số có 2, 3 chữ số.


* Đối với những học sinh khơng biết tính theo tơi thì giáo viên cần:
- Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực
hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan
cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần
dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em khơng thuộc bảng nhân,
chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt những phút đầu
giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các
tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
- Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm
các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt
tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 125 + 213
125
+213

Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 +102
56
+102
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến
lớn, giáo viên cũng phải yêu cầu các em biết cách đặt tính sao cho hàng đơn vị



thẳng hàng đơn vị, hàng chục thẳng hàng chục, hàng trăm thẳng hàng trăm rồi
mới thực hiện tính kết quả.
Bên cạnh những học sinh khơng biết tính thì có những em tính cịn yếu.
* Ngun nhân các em tính yếu có thể là do:
- Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục
dẫn đến tính tốn chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có
nhớ và nhân, chia ngồi bảng.
- Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết
quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy
luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải tốn vì ảnh hưởng bởi khả
năng đọc hiểu và khơng biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những
học sinh tính yếu thì giáo viên cần: . Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo
4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản.
- Khi giải tốn, giáo viên có thể u cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm
tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay
đổi một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào
giờ ra chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi,
sửa sai (nếu có) kịp thời.
+ Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ
bản.
+ Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.
+ Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
+ Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó
khăn


thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi
cần.
+ Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai,

xem trước bài mới.
+ Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục
và động viên kịp thời.
3. Một số nguyên nhân:
3.1. Về phía học sinh:Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức
thì nguyên nhân học sinh yếu có thể là do:
* Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em
học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm
vào việc học, về nhà thì khơng xem bài, khơng chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì
cắp sách đến trường. Cịn một bộ phận nhỏ thì các em khơng xác định được mục
đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi
ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không
hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
* Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận
với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi
của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
3.2.Về phía giáo viên:
* Ngun nhân học sinh học yếu khơng phải hoàn toàn là ở học sinh mà một
phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trị giỏi.
Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong cơng tác giảng dạy thì địi hỏi giáo viên
phải khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên,


ở đây khơng phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ
giảng dạy tốt mà ở đây người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học
nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua
q trình cơng tác bản thân tơi nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên
chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa
tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới để kích thích tính tích cực, chủ động
của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của từng

học sinh.
* Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản
thân tơi nhận thấy trong q trình cơng tác. Cụ thể lớp tơi phụ trách có các
nhóm ngun nhân như sau:
- Tiếp thu chậm, hổng kiến thức, lười và chán học.(Ví dụ như các em: Lê Minh
Thư, em Nguyễn Văn Phan, Bùi Thùy Dương)
- Thiểu năng trí tuệ. (Ví dụ như em: Nguyễn Trung Hiếu)
- Hồn cảnh khó khăn, một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học
của các em.(Ví dụ như phụ huynh em: Trần Nguyễn Anh Kiều, Nguyễn Văn
Phan, Nguyễn Văn Đạt)
3.3. Về

phíaphụ

huynh:

* Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần thấp, thái độ học tập của học sinh, chất
lượng học tập cho thấy nhận thức và thái độ của phụ huynh trong việc hợp tác
với nhà trường là chưa cao. Qua đó cho thấy một bộ phận phụ huynh chưa thật
sự quan tâm, chăm lo và đơn đốc con em mình học tập, cịn phó thác cho nhà
trường, cho thầy cơ.

* Qua q trình cơng tác bản thân tơi nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo


viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu.
Chưa tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động
của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của từng
học sinh.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản

thân nhận thấy trong quá trình cơng tác. Qua việc phân tích những ngun nhân
đó, bản thân tôi đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu.
Trong phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh
yếu ở hai mơn là Tốn và Tiếng Việt.
4. Những biện pháp thực hiện:
4.1. Những biện pháp chung:
* Xây dựng môi trường học tập thân thiện:

Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả
cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm
giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong
cuộc sống của bản thân mình.
- Ln tạo cho bầu khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng
hoặc dùng lời nói thiếu tơn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ
giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương u và tơn trọng mình
- Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích
cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những
việc làm mà các em hồn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
Hoặc có thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc


làm của các em như: “Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích
cực”, “ Giúp bạn vượt khó”…
* Phân loại các đối tượng học sinh:

- Tơiđã xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có
của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng
của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả
năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát.
- Trong q trình thiết kế bài dạy, tơicần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo

điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ
khi học bài: Đường gấp khúc. Độ dài đường gấp khúc (Toán–lớp 2), đối với các
em học sinh yếu thì các em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “Đường gấp khúc và
cách tính độ dài đường gấp khúc” là đạt u cầu rồi.
- Bên cạnh đó tơi cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành
cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện
cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được
vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài
tập, các em này có thể hồn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
- Ngồi ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các
biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo
từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, iệc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với


hình thức vui chơi nhằm lơi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề..
* Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:

- Tôi cần phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy
giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng
dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham
thích và say mê khám phá tìm tịi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
- Bên cạnh đó, tơi phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hồn cảnh gia đình
và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trị
chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn
lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng
thời, tôi phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện
nay, có một số phụ huynh ln gị ép việc học của con em mình, sự áp đặt và
quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Vì vậy bản thân tơi cần phân tích để

các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của
gia đình, thầy cơ sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
* Kèm cặp học sinh yếu:

- Ngay từ đầu năm học theo tôi người giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết
số lượng học sinh yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 2 mà bản


thân tôi chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 5 học sinh
yếu và bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo cho các em.
- Lập danh sách học sinh yếu (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan tâm đặc biệt
đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên
trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng…
DANH SÁCH HỌC SINH YẾU LỚP …

TIẾNG VIỆT TỐN

Con ơng Địa chỉ
(bà)

STT Họ và
tên

Đọc

Viết

Khơng Tính

yếu


yếu

biết tính yếu

1
2
3

- Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ
huynh tìm biện pháp khắc phục.
4.2. Những biện pháp cụ thể:
* Môn Tiếng việt:


- Đối với phân môn Tập đọc:

Trước hết tôi cần phải nắm chắc quy trình một tiết dạy Tập đọc, kết hợp nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học, giúp học sinh chủ động sáng tạo tiếp thu kiến
thức mới.
Đối với những học sinh đọc yếu theo tơi thì giáo viên cần:
+ Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như thường
xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và
cho các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học khơng đủ
thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc
10 phút.
+ Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một
bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra
và nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp
thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp

phụ huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy
cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ.
+ Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện
cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể
hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các
bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều
này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em
say mê rèn đọc.


+ Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy
thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng
vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một
số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
-

Đối với phân mơn Chính tả:

Đối với những học sinh viết yếu theo tôi người giáo viên cần:
+ Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi
ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc
cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng
ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở
riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá
kịp thời.
+ Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em cần rèn thêm vào cuối buổi học nhà thì
các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần
các em sẽ viết đúng chính tả.
+ Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo
khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần,

nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm.
- Đối với phân mônLuyện từ và câu:
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày. Hướng dẫn các
em tra từ cách đặt câu, tạo cơ hội cho các em được nêu lên những câu văn đúng
giúp cho các em ham thích tìm hiểu.
- Đối với phân mơn Tập làm văn:


+ Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu
thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.
+ Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm
văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp.
Nhờ có hồn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
+ Giáo viên cần giúp học sinh nhận dạng thể loại, xác định nội dung, viết đoạn
và chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh rồi yêu cầu học sinh tự viết lại.
Ví dụ: Với đề bài : Viết về người thân (Sách Tiếng Việt lớp 2 – Tập 2 )
Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trong gia đình em ai cũng yêu mến
và chăm sóc em, em hãy viết đoạn văn nói về người mà em quý mến.
Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng
thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ
tả.
* Mơn Tốn: Theo tơi có một số biệp pháp sau:

- Lấp lỗ hổng kiến thức:
+ Theo tôi trước hết cần phải lấp lỗ hổng kiến thức , "lỗ hổng" là một "bệnh"
phổ biến của học sinh yếu kém toán. Trong q trình dạy học trên lớp, tơi cần
phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Những lỗ
hổng nào điển hình mà trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì cần có kế hoạch
tiếp tục giải quyết trong nhóm học sinh yếu kém. Thơng qua q trình học lý
thuyết và làm bài tập của học sinh, tôi cũng cần tập cho học sinh, nhất là học

sinh yếu kém có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của bản thân mình và biết
cách tự lấp những lỗ hổng đó.


Ví dụ như dạy bài:Cộng số có hai chữ số 47+25 trang 28
+ Ở bài này các em cần nắm vững cách thực hiện phép tính cộng; Bước 2 cộng
từ phải sang trái.Thế nhưng khi các em thực hiện nhiều khi các em không thuộc
cách thực hiện phép cộng nên dẫn đến kết quả sai, hoặc các em quên không nhớ
làm kết quả cũng không đúng. Tôi phát hiện ra là các em đã bị hổng kiến thức ở
lớp 1 rất nhiều.
+ Cụ thể như phép tính: 17+24( Khi cộng nhẩm ở hàng đơn vị và hàng chục:
7+4=11 viết 1nhớ 1 sang hàng chục thì các em thường qn khơng nhớ. Tiếp đó
khi phép cộng có nhớ lần thứ hai thì các em cũng thường hay quên hoặc nhớ
một cách khơng đúng).
Đây là bài làm của các em:
17
+24
31 Sai
Vì vậy tơi nghĩ ra cách lấp lỗ hổng đó như sau: Tơi phải sử dụng nhiều hình ảnh
trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hiện khi cộng q 10 thì phải
nhớ sang hàng liền kề trước đó. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ
nhớ kĩ hơn, sau đó tơi cho các em đọc đi đọc lại nhiều lần ( 8+3 =11 viết 1 nhớ
1,1thêm 1 bằng 2, 2 cộng 1 bằng 3 viết 3). Vậy 18+13= 31. (Tương tự như thế
với những phép tính khác) và khi sinh hoạt những phút đầu giờ tôi hướng dẫn
cho các em tổ chức trò chơi: "Ai nhanh hơn?” Nhóm học sinh khá, giỏi nêu
bất kì phép tính nào thuộc dạng cộng số có 2 chữ số trở lên. Nhóm học sinh yếu
thi nhau nêu số cần điền. . .
- Luyện tập vừa sức:



+ Đối với học sinh yếu kém, giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của kiến
thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức và tăng
cường luyện tập vừa sức.
+ Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ
chung, nhiều khi khơng phù hợp với khả năng học sinh yếu kém. Vì vậy khi làm
việc riêng với nhóm học sinh yếu kém, cần dành thời gian để các em tăng cường
luyện tập vừa sức mình. Khi giải dạng bài có lời văn tơi cần lưu ý những điều
sau đây:
+ Đảm bảo học sinh hiểu đầu bài tập: Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay từ
bước đầu tiên, khơng hiểu bài tốn đó nói gì thì khơng thể tiếp tục q trình giải
tốn. Vì vậy, giáo viên nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì
đã cho, cái gì cần tìm cần phải tìm, tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp
váp đầu tiên đó.
Ví dụ khi dạy dạng bài: Bảng chia 2 (Trang 109, Toán 2)
Đề bài toán ở sách giáo khoa: Có 12 cái kẹo chia đều cho 2 bạn. Hỏi mỗi bạn
được mấy cái kẹo?
Tôi đã hướng dẫn nhóm học sinh yếu giải như sau:
- Bước 1: Đọc kĩ đề tốn(Xác định dạng tốn)
- Bước 2: Tóm tắt đề tốn .
- Bước 3: Phân tích bài tốn.
- Bước 4: Viết bài giải.
- Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.


Cụ thể như sau:
- Đọc kĩ đề toán: Đối với đối tượng học sinh yếu đọc ít nhất 3 lần có như thế
mới giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản: Những “ dữ kiện” là những cái đã
cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần phải tìm,
cuối cùng là những “điều kiện’ là quan hệ giữa các dữ kiện là ẩn số. Tránh thói
quen xấu là vừa đọc đề xong đã vội làm ngay.

- Tóm tắt đề tốn: Sau khi đọc kĩ đề, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm
cho bài tốn gọn lại. Nhờ đó đã làm rõ mối quan hệ cái đã cho và cái phải
tìm.Trong thực tế có rất nhiều cách tóm tắt một bài toán, nếu các em càng nắm
được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải tốn giỏi hơn. Thế nhưng đối
với các em học sinh yếu tôi chỉ hướng dẫn các em chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu
và rõ nhất là được, chẳng hạn như cách tóm tắt bằng chữ.
Ví dụ:



: 12 cái kẹo

Chia đều : 2 bạn
Mỗi bạn : … cái kẹo?
- Phân tích bài tốn: Tóm tắt xong các em cần phải phân tích đề bài để tìm ra
cách giải. Đối với học sinh yếu ở bước này tôi cần sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp. Phân tích bài tốn dưới dạng các câu hỏi như sau:
+ Bài tốn trên cho biết gì? ( Có 12 cái kẹo)
+ Bài tốn trên cho biết gì nữa? (Chia đều cho 2 bạn)
+ Bài tốn hỏi gì? (Mỗi bạn được mấy cái kẹo?)
+ Muốn biết mỗi bạn được mấy cái kẹo ta làm thế nào?


+ Giáo viên giảng lại cho những học sinh yếu biết được 12 cái kẹo chia đều
cho 2 bạn để tìm được số cái kẹo của mỗi bạn.
- Viết bài giải: Dựa vào dữ kiện phân tích, tơi đã hướng dẫn các em hồn thiện
bài tốn một cách đầy đủ, chính xác và tơi chỉ việc u cầu các em cách trình
bày bài tốn cân đối ở vở là được. Cuối cùng, khi củng cố dạng bài tốn này tơi
cho học sinh rút ra các bước cơ bản sau:
- Đọc kĩ đề tốn

- Phân tích đề tốn xem bài tốn đó đã cho biết gì và hỏi các em đi tìm cái gì ?
- Tóm tắt và giải trên giấy nháp cho rõ ràng
-Kiểm tra lời giải và đánh giá kết quả: Đối với những em học yếu thì việc kiểm
tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải tốn và phải trở thành thói quen
đối với các em. Cho nên tôi cần hướng dẫn các em các bước như sau:
+ Đọc lại lời giải.
+ Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí so với yêu cầu của bài chưa, các
câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
+ Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
+ Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề chưa đúng.
- Rèn luyện kĩ năng học tập:
Yếu về kĩ năng học tập là một tình hình phổ biến của học sinh yếu kém tốn.
Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với một
bộ phận trong những học sinh dạng này. Vì vậy, một trong những biện pháp
khắc phục tình trạng học sinh yếu kém là giúp đỡ các em về phương pháp học


×