Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố tuy hòa, tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.92 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH NAM

KÊ BIÊN CƯỠNG CHẾ TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH NAM

KÊ BIÊN CƯỠNG CHẾ TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THỊ HIỀN


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Minh Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KÊ BIÊN CƯỠNG
CHẾ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên cưỡng chế tài sản trong thi
hành án dân sự..................................................................................................................................... 7
1.2. Nguyên tắc, điều kiện áp dụng kê biên cưỡng chế tài sản trong thi
hành án dân sự................................................................................................................................... 21
1.3. Chủ thể, nội dung và thủ tục kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành
án dân sự.............................................................................................................................................. 26
1.4. Các yếu tố tác động đến kê biên cưỡng chế tài sản thi hành án dân sự .. 260

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KÊ BIÊN CƯỠNG CHẾ TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ TUY HÒA,
TỈNH PHÚ YÊN............................................................................................................................ 37
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và đội ngũ nhân sự thực

hiện công tác thi hành án dân sự tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên..........37
2.2. Đánh giá hoạt động kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự
ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.................................................................................... 400
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU
QUẢ KÊ BIÊN CƯỠNG CHẾ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ
YÊN........................................................................................................................................................ 58
3.1. Phương hướng hoạt động nhằm đảm bảo hiệu quả biện pháp kê biên
cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú
Yên.......................................................................................................................................................... 58


3.2. Giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế
thi hành án dân sự TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.............................................................. 611
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
QSDĐ

: Quyển sử dụng đất

THADS

: Thi hành án dân sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


UBND

: Ủy ban nhân dân.

TP

: Thành phố.

CHV

: Chấp hành viên.


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số thụ lý và giải quyết việc thi hành án......................................................... 41
Bảng 2.2: Số thụ lý và giải quyết về tiền thi hành án................................................... 41
Bảng 2.3: Tỷ lệ số việc cưỡng chế thi hành án................................................................ 42
Bảng 2.4: Tỷ lệ số tiền cưỡng chế thi hành án................................................................. 42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động đảm bảo thực thi các bản án, quyết định
dân sự và Quyết dịnh của trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh có hiệu lực pháp luật của các cơ quan, Tịa án, tổ chức có thẩm quyền;
tăng cường hiệu lực, hiện quả của bộ máy Nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và góp phần thúc đẩy hoạt động
kinh tế - xã hội. Hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự ảnh hưởng trực tiếp
đến công lý, sự công bằng đời sống xã hội, vì vậy u cầu về tính nghiêm

minh trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam đã được quy định trong
hiens pháp: “Bản án, quyết định của Tịa án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân phải
nghiêm chỉnh chấp hành” [31].
Để đảm bảo hiệu quả THADS, tùy thuộc vào tính chất quyết định, bản án
pháp luật hiện hành quy định cụ thể về các cơ quan có thẩm quyền và thủ tục,
trình tự THADS, theo đó hoạt động THADS được thực hiện và phân định theo
trình tự thi hành án dân sự và thi hành án hình sự.
Đối với THADS, Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và
các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định về thẩm quyền, thủ tục, trình tự
thi hành các quyết định dân sự, bản án, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, tài sản
thu lợi bất chính, truy thu tiền, tài sản, xử lý vật chứng, án phí và quyết định
dân sự trong quyết định, bản án hình sự, phần tài sản trong quyết định, bản án
hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến
tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và
quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là quyết định, bản án). Trên
cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về THADS, tùy điều kiện cụ thể ở từng
địa phương, các cấp chính quyền, cơ quan THADS đã thực hiện
1


nhiều biện pháp, giải pháp tổ chức THADS và đã đạt được những kết quả
nhất định.
Ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, trong những năm qua, công tác thi
hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực, trong đó đáng chú ý là kết
quả thi hành án dân sự thường đạt và vượt chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; nhiều
vụ việc khó khăn, phức tạp, có giá trị thi hành lớn đã được quan tâm chỉ đạo
và tổ chức thi hành dứt điểm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác
thi hành án dân sự cũng cịn những khó khăn, tồn tại nhất định cả về thể chế
và thực tiễn. Số lượng việc chuyển kỳ sau cịn nhiều; số việc chưa có điều

kiện thi hành án, nhất là về giá trị (về tiền) vẫn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số
phải thi hành…Tính đến ngày 30/8/2020, tổng số việc thụ lý thi hành án mà
Chi cục thi hành án dân sự TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên giải quyết là 2.712 việc
(Trong đó có 1.712 đã thi hành xong, số chưa có điều kiện thi hành án: 388,
Hoãn Thi hành án: 30, số việc chuyển sang kỳ sau: 575). Tỷ lệ giải quyết đạt:
77%.
Thực trạng và ngun nhân nêu trên địi hỏi phải có những phương hướng,
giải pháp để khắc phục khó khăn, tồn tại và nâng cao hiệu quả THADS, góp
phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú n nói
chung và TP. Tuy Hịa nói riêng. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Cưỡng chế kê biên
tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Tuy Hịa, tỉnh Phú n”
có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nâng cao
hiệu quả Thi hành án dân sự nói chung và ở địa bàn TP. Tuy Hịa nói riêng.

2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng trong lĩnh vực Thi
hành án dân sự, nhiều văn bản pháp lý có liên quan đến lĩnh vực cơng tác Thi
hành án dân sự đã được ban hành, như: Luật Thi hành án dân sự được ban
hành thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự; hệ thống cơ quan Thi hành án dân
2


sự theo đó được hình thành, theo hệ thống ngành dọc, cơ bản đã được độc lập
về công tác tổ chức và cơng tác chun mơn. Đã có rất nhiều các cơng trình
nghiên cứu khoa học xoay quanh lĩnh vực thi hành án dân sự, nhằm hướng
đến sự hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân
sự và trên thực tế đã đạt được nhiều kết quả trong thực tiễn áp dụng. Trong

các công trình nghiên cứu về lĩnh vực THADS phải kể đến một số cơng trình
như: - Đề tài cấp Nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động THADS ở Việt Nam trong giai đoạn mớí” do TS. Nguyễn Đình Lộc
làm chủ nhiệm; “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ
tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” do TS. Uông Chu Lưu
làm chủ nhiệm.
Luận án Tiến sỹ luật học: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
THADS ở Việt Nam hiện nay” (2010) của TS. Nguyễn Quang Thái; “Hiệu
quả áp dụng pháp luật THADS ở Việt Nam” (2015) của TS. Đặng Đình
Quyền; - Luận văn thạc sĩ luật học: Có nhiều tác giả nghiên cứu liên quan đến
lĩnh vực thi hành án dân sự như: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm tra thi
hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh” (năm 2017) của Vũ Thị Bích Vân; “Thực
hiện pháp luật về Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” (năm
2018) của Trần Bá Bình; “Hiệu quả thi hành án dân sự của cơ quan Thi hành
án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh” (năm 2019) của Nguyễn Mạnh Thường và
nhiều tác giả khác. Rồi: Các sách chuyên khảo trong nước như “Kỹ năng phối
hợp với các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án dân sự”, Tài liệu bồi
dưỡng nghiệp vụ Chấp hành viên Trung cấp (năm 2018) của Ths. Nguyễn Văn
Lực - Cục trưởng Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi ra, cịn có các
bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu khoa học như: “Một số kiến nghị từ thực tiễn hoạt động kiểm
3


sát thi hành án dân sự ở xã, phường, thị trấn” của tác giả Nguyễn Ngọc Kiên,
Tạp chí Kiểm sát số 19/2006; “Hòa giải - biện pháp nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS” của tác giả Phạm Quốc Toản, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7/2006; “Thi hành án dân sự phải là
cơng việc, nhiệm vụ của cấp uỷ, chính quyền đoàn thể nhân dân” của tác giả

Trương Vĩnh Trọng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật 8/2005; “Biện pháp tự
nguyện trong thi hành án dân sự”, của tác giả Phạm Quang Dũng, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 4/2005; “Vai trị của cơng tác hịa giải trong
THADS”, của tác giả Đỗ Xuân Lợi, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 01/2005;
“Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự trong cải cách tư pháp” của
PGS.TS. Nguyễn Văn Luyện [20]... Mặc dù có nhiều tác giả đã nghiên cứu về
thi hành án dân sự, nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu đến đề tài chuyên
về “Kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục
Thi hành án dân sự TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên”. Để nghiên cứu và thực hiện
đề tài “Kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục
Thi hành án dân sự TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” tác giả đã tham khảo, kế thừa
có chọn lọc kết quả của các cơng trình nghiên cứu khoa học đã được cơng bố.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kên biên
cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự ở góc độ thể chế và thực tiễn thi
hành ở thành phó Tuy Hịa, tỉnh Phú n, từ đó đề xuất các giải pháp nhăm
hoàn thiện pháp luật; bảo đảm thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong Thi
hành án dân sự nói chung và ở TP. Tuy Hịa, tỉnh Phú Yên nói riêng trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề thực tiễn về thi
4


hành án dân sự trong những vụ án kê biên cưỡng chế tài sản; phân tích đánh
giá thực trạng về công tác thi hành án dân sự trong vụ án kê biên cưỡng chế

tài sản trên địa bàn TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại
và nguyên nhân của những hạn chế tồn tại; trên cơ sở đó đề ra hệ thống giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong
vụ án kê biên cưỡng chế tài sản trên địa bàn TP. Tuy Hịa, tỉnh Phú n nói
riêng và trên tồn quốc nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý luận về kê biên
tài sản trong thi hành án dân sự và thực trạng kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự ở TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên để từ đó luận giải các giải pháp hoàn thiện
pháp luật, nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động thi hành án dân sự nói chung, kê biên cưỡng chế tài sản
trong thi hành án dân sự nói riêng có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều
góc độ khác nhau. Trong khn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên
cứu kê biên cưỡng chế tài sản trong thi trong thi hành án dân sự theo phạm vi
thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định pháp luật (Không
đề cập đến thẩm quyền thi hành án của Thừa phát lại).
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của
triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về công tác thi hành án dân sự, về kê biên cưỡng chế tài sản và
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5



5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, … và tổng kết thực tiễn để
nghiên cứu luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
-

Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận chung về hoạt động

cưỡng chế thi hành án dân sự.
-

Nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động

Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Tuy
Hịa từ đó góp phần mang lại hiệu quả công tác thi hành án dân sự của thành
phố Tuy Hòa trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lí về kê biên cưỡng chế tài sản trong
thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự
tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đảm bảo hiệu quả về kê biên
cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú
Yên.

6



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KÊ BIÊN CƯỠNG CHẾ
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên cưỡng chế tài sản
trong thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự:
Quyết định, Bản án của Tòa án, Trọng tài. Hội đồng xét xử vụ việc cạnh
tranh có hiệu lực thi hành có được thi hành nghiêm chỉnh, dứt điểm hay
khơng; kỷ cương pháp luật có được tơn trọng; lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tập thể, của các tổ chức xã hội và mội chơng dân có được bảo đảm hai không
phụ chuộc nhiều kết quả của việc thi hành án.
Với tính chất dân sự của mình, Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện
các quyền, nghĩa vụ dân sự (Chủ yếu là các ngành, nghĩa vụ về tài sản) của
các bên đã được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan tài phán khác
đã ghi nhận. Trong thi hành án dân sự, các bên đương sự có quyền tự định
đoạt, thoả thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản
án, quyết định, thực hiện ý chí của các bên đương sự nhằm thi hành bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành [22].
Tuy nhiên, khi người phải thi hành án đã được thuyết phục, giải thích,
mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng khơng tự nguyện thi hành, hoặc trốn
tránh thi hành thì buộc cơ quan THADS phải tổ chức cưỡng chế thi hành.
Cưỡng chế THADS thể hiện quyền năng của cơ quan thi hành án dân sự,
bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án, quyết định
có hiệu lực thi hành được kịp thời, nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.
Như vậy, cưỡng chế Thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc
của cơ quan Thi hành án dân sự, do Chấp hành viên quyết định theo quyền

7



hạn và nhiệm vụ nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những nghĩa
vụ tài sản theo Bản án và Quyết định. Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong
trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện
thi hành, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi
huỷ hoại tài sản, tẩu tán hoặc trốn tránh việc thi hành án.

1.1.2. Đặc điểm của kê biên cưỡng chế tài sản trong THADS
Kê biên cưỡng chế tài sản là một biện pháp cưỡng chế trong thi hành án
dân sự, vì vậy biện pháp này có những đặc điểm chung của cưỡng chế thi
hành án dân sự. Đó là: thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng
quyền lực nhà nước; được áp dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án nhưng không tự nguyện thi hành (sau khi hết thời gian tự nguyện thi
hành); người phải thi hành án ngoài việc thực hiện nghĩa vụ theo bản án,
quyết định thì cịn phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án; việc cưỡng chế
khơng chỉ có hiệu lực với người phải thi hành án mà còn đối với các cơ quan,
tổ chức, cá nhân liên quan; việc cưỡng chế THADS phải tôn trọng quyền tự
định đoạt của các đương sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội; phải trên
cơ sở trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.
Ngoài các đặc điểm chung của cưỡng chế thi hành án dân sự nêu trên, kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự cịn có một số đặc thù sau đây:
Thứ nhất, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền bằng biện pháp khấu trừ
tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền giấy tờ có giá của người phải thi hành
án.
Điều 71 Luật Thi hành án dân sự (Được sửa đổi, bổ sung) năm 2014 quy
định 6 biện pháp cưỡng chế và biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản; thu
hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một trong các biện
pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, để thực hiện nghĩa vụ trả tiền của người phải thi
hành án, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án Chấp hành
8



viên chỉ có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây: Khấu trừ tiền
trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án;
trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của
người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy
tờ; buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công
việc nhất định [30].
Biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, xử lý tiền, thu hồi,
giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế hoàn
toàn độc lập với các biện pháp cưỡng chế thi hành án khác. Việc lựa chọn biện
pháp cưỡng chế nào do Chấp hành viên quyết định những biện pháp cưỡng
chế khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án là những biện pháp đầu tiên mà Chấp hành viên phải cân
nhắc để lựa chọn. Chỉ khi nào không đủ điều kiện để áp dụng biện pháp
cưỡng chế này, thì Chấp hành viên mới lựa chọn các biện pháp cưỡng chế
khác (như biện pháp kê biên xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án). Vì biện
pháp cưỡng chế này trên thực tế dễ thực hiện hơn các biện pháp cưỡng chế
khác.
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá
của người phải thi hành án được quy định cụ thể tại Điều 76, Điều 79 và các
điều 80, 81, 82, 83 Luật Thi hành án dân sự 2014.
Khấu trừ tiền trong tài khoản, xử lý tiền, thu hồi, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên áp dụng. Vì vậy,
Chấp hành viên phải tuân thủ nghiêm túc, chặt chẽ tất cả các nguyên tắc và điều
kiện chung khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, đối với từng
biện pháp cưỡng chế có những nguyên tắc và điều kiện áp dụng cũng rất khác
nhau. Dưới đây là một số nguyên tắc và điều kiện khi áp dụng
9



biện pháp cưỡng chế khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá
của người phải thi hành án.
Chỉ Chấp hành viên mới có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án: Chấp hành viên là công chức, được Nhà nước giao
trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi
hành. Việc pháp luật quy định cụ thể như vừa để tránh trình trạng các đối
tượng khác lạm dụng việc thi hành án để gây áp lực đối với người phải thi
hành án, mặt khác tăng cường tính trách nhiệm cá nhân của chấp hành viên
khi tổ chức hoạt động này. Là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành
các Bản án, quyết định dân sự của Tòa án, khi thực hiện nhiwwmj vụ của
chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
được pháp luật bảo vệ. Chấp hành viên khi tiến hành hoạt động thi hành án
chỉ được thực hiện những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng trình
tự, thủ tục theo quy định pháp luật; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
kết quả thi hành án [36].
Người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền: Nghĩa vụ trả tiền của người
phải thi hành án chính là nghĩa vụ mà theo bản án, quyết định của Tịa án
người phải thi hành án phải trả (hoặc có thể là: phải thanh toán, phải bồi
thường, thanh toán tiền chênh lệch giá trị tài sản, án phí...) cho người được thi
hành án. Người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền, thì Chấp hành viên mới
có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, xử lý tiền,
thu hồi, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Nghĩa vụ này chủ yếu được
xác định trong các quyết định hay bản án của Tòa án. Đây là loại việc chiếm
tỷ lệ lớn trong tổng số vụ việc được thụ lý ở các Cơ quan thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, đã có khơng ít trường hợp nghĩa vụ của người phải thi hành án
được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án không phải là nghĩa vụ trả
10



tiền (nghĩa vụ giao vật, trả nhà hoặc quyền sử dụng đất...), nhưng trong quá
trình tổ chức thi hành, nghĩa vụ trả tiền của người phải thi hành án mới phát
sinh (ví dụ: trong trường hợp nộp phí thi hành án hoặc trong trường hợp phải
nộp chi phí cưỡng chế thi hành án). Trong trường hợp này nghĩa vụ của người
phải thi hành án vẫn được áp dụng như nghĩa vụ trả tiền.
Phải hết thời gian tự nguyện thi hành án: Thời gian để người phải thi
hành án tự nguyện thi hành án là khoảng thời gian để đương sự sắp xếp, phải
chuẩn bị khoản tiền để thanh toán cho bên được thi hành án. Thời gian tự
nguyện theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự là 10 ngày, kể từ
khi người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ các quyết
định thi hành án [36]. Nội dung và cách thức tống đạt các giấy tờ về thi hành
án được quy định tại các điều từ Điều 39 đến Điếu 43 Luật Thi hành án dân sự
2014. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có biểu hiện tẩu tán,
hủy bỏ tài sản hoặc né tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp
dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV Luật Thi hành án dân sự.
Như vậy, đối với trường hợp này, Chấp hành viên không cần xem xét đến
điều kiện đã hết thời gian tự nguyện hay chưa mà khi phát hiện người phải thi
hành án có tiền (trong tài khoản hoặc tiền mặt), thì Chấp hành viên có thể áp
dụng ngay các biện pháp đã quy định tại Chương IV Luật Thi hành án dân sự
có thể là biện pháp bảo đảm và có thể là biện pháp cưỡng chế. Vì tiền là loại
tài sản rất dễ tẩu tán.
Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án: Để khẳng định được
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án chính là kết quả xác minh của
Chấp hành viên. Đây là một hoạt động nghiệp vụ thi hành án và phải được thể
hiện trong hồ sơ thi hành án. Mục đích của hoạt động thi hành án dân sự là
thực hiện các quyền về tài sản và những vấn đề liên quan đến tài sản khác với
11



mục đích của thi hành án hình sự là trừng phạt và giáo dục. Như vậy, để
khẳng định người phải thi hành án có điều kiện thi hành án trong thi hành án
dân sự được hiểu là người phải thi hành án có tài sản hoặc quyền về tài sản.
Tiền (có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ) và giấy tờ có giá cũng là tài
sản, đây chính là đối tượng mà biện pháp cưỡng chế này hướng tới. Trong
trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền, thì Chấp hành viên
phải có căn cứ chứng tỏ được người phải thi hành án có điều kiện thi hành
như: người phải thi hành án đang có tiền mặt hoặc trong tài khoản mở tại ngân
hàng, kho bạc nhà nước hay tổ chức tín dụng hoặc giấy tờ có giá thì mới có
thể áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Thứ hai, cưỡng chế thi hành án bằng biện pháp khấu trừ vào thu nhập
của người phải thi hành án:
Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án chỉ được áp dụng khi Chấp
hành viên đã xác định được người phải thi hành án có thu nhập tương đối ổn
định, nhưng không tự nguyện thi hành án và chỉ được áp dụng trong một số
trường hợp cụ thể. Vì vây, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế này cần phải có
đủ các điều kiện.
Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải
thi hành án: Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ trả tiền (không
phải trả vật, trừ trường hợp người phải thi hành án, người được thi hành án có
thỏa thuận khác theo khoản c Điều 114 Luật Thi hành án dân sự). Nghĩa vụ trả
tiền là nghĩa vụ mà theo bản án, quyết định người phải thi hành án phải trả
một khoản tiền nào đó cho người được thi hành án trong các trường hợp như:
bồi thường, trả nợ, cấp dưỡng, thanh toán theo hợp đồng, tiền chênh lệch giá
trị tài sản khi chia tài sản, di sản và án phí, phí thi hành án.... Người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án tức là người phải thi hành án có thu nhập
tương đối ổn định.
12



Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi
hành án chỉ được áp dụng trong các trường hợp sau (khoản 2 Điều 78 Luật
Thi hành án dân sự): Theo thỏa thuận của các đương sự, Bản án, quyết định
ấn định biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án để thi hành án.
Thi hành án theo định kỳ, thi hành án cấp dưỡng, khoản tiền phải thi hành án
không lớn hoặc tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành.
Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi
hành án, Chấp hành viên phải tuân thủ các nguyên tắc chung về cưỡng chế thi
hành án, cụ thể như sau:
Chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn 10 ngày tự
nguyện thi hành án:
Việc ấn định thời gian tự nguyện thi hành án cho người phải thi hành án
là một thủ tục bắt buộc trong thi hành án dân sự, đó cũng là nhiệm vụ bắt
buộc của Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án các bản án, quyết
định. Việc ấn định thời gian tự nguyện thi hành án được thực hiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự. Sau khi hết thời gian tự
nguyện thi hành án, nếu xác định được người phải thi hành án có thu nhập
tương đối ổn định mà không tự nguyện thi hành án, thì Chấp hành viển ra
quyết định cưỡng chế thi hành án theo khoản 2 Điều 71 và Điều 78 Luật Thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 45 đã quy định “Trường hợp cần
ngăn chặn người phải thi hành án có biểu hiện tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc
tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện
pháp quy định tại Chương IV của Luật Thi hành án dân sự” [36]. Vì vậy,
trong trường hợp cần thiết, Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp
cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án phải phù hợp với tỷ lệ mà
pháp luật quy định:
13



Mức trừ vào tiền lương, tiên công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức
lao động: Để đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người phải thi hành án
và những người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng theo quy định của pháp luật, khoản 3 Điều 78 Luật Thi hành án dân sự
quy định mức cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu,
tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% (ba mươi phần trăm) tổng số tiền được
nhận hàng tháng, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác. Như vậy, theo
nguyên tắc này, khi thực hiện việc trừ vào thu nhập của người phải thi hành
án, thì người phải thi hành án phải có khoản tiền tương đối ổn định được nhận
hàng tháng, Chấp hành viên sẽ tính tốn và quyết định mức trừ, nhưng mức
trừ tối đa không được quá 30% tổng số tiền mà người phải thi hành án được
nhận hàng tháng.
Như vậy, đối với những khoản thu nhập khác không phải là tiền lương,
tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động, thì mức khấu trừ
khơng bắt buộc phải thấp hơn hoặc bằng 30% tổng số tiền thu nhập, mà mức
khấu trừ trong trường hợp này phụ thuộc vào thu nhập thực tế của người phải
thi hành án, đồng thời, mức khấu trừ phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối
thiểu cho người phải thi hành án và người mà người phải thi hành án có nghĩa
vụ ni dưỡng, cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Do đó, mức này trừ
vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động của
người phải thi hành án không quá 30%.
Các loại thu nhập của người phải thi hành án: Theo quy định tại khoản 1
Điều 78 Luật Thi hành án dân sự (Được sữa đổi, bổ sung) năm 2014, thu nhập
của người phải thi hành án gồm: tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp mất sức lao
động, tiền lương hưu và các thu nhập hợp pháp khác. Các khoản thu nhập hợp
pháp của người phải thi hành án ngồi tiền lương, tiền lương hưu, tiền cơng,
tiền trợ cấp mất sức lao động có thể là tiền thưởng, tiền phụ cấp chức vụ... do
14



cơ quan, cá nhân, tổ chức quản lý thu nhập của người phải thi hành án trả cho
người được thi hành án. Thu nhập khác của người phải thi hành án trong
trường hợp này là những khoản được nhận gắn liền với tiền lương, tiền công
từ các tổ chức, cá nhân, cơ quan đang quản lý các khoản thu nhập đó. Trong
trường hợp này khơng được coi việc được nhận một khoản tiền do tặng cho,
thừa kế, trúng xổ số... là nguồn thu nhập thường xuyên. Tuy nhiên, những
nguồn thu nhập này đều được coi là thu nhập chính đáng của một cá nhân,
nhưng không thể được coi là thu nhập thường xuyên của người phải thi hành
án để áp dụng việc khấu trừ thu nhập của họ. Vì vậy, khi xác minh người phải
thi hành án có tài sản là những khoản tiền trên, thì Chấp hành viên khơng
được áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập mà lựa chọn biện pháp
cưỡng chế khác phù hợp với quy định của Luật Thi hành án dân sự (được sữa
đổi, bổ sung) năm 2014, như biện pháp khấu trừ tiền, thu hồi, xử lý tiền của
người phải thi hành án theo khoản 1 Điều 71 Luật Thi hành án dân sự (được
sữa đổi, bổ sung) năm 2014 [36].
Tiền lương là khoản tiền trả cho cán bộ, công chức làm việc trong các cơ
quan Nhà nước, chính trị xã hội và các tổ chức chính trị, được trả từ ngân sách
Nhà nước, trả qua hệ thống kế toán của cơ quan, tổ chức nơi cơng tác, cán bộ
đó làm việc. Lương, bảng lương, hệ số lương… đều được thể hiện rõ trên sổ
sách kế toán của đơn vị, cơ quan. Theo quy định của pháp luật hiện hành,
thông thường cứ hai hoặc bà năm cán bộ, công chức sẽ được nâng lương một
lần theo ngạch mà công chức, cán bộ đó đang được hưỡng. Như vậy, mức
lương sẽ được tăng lên theo quy định. Ngồi mức lương chính cán bộ, cơng
chức cịn có thể có phụ cấp, như phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên…
Các thu nhập hợp pháp khác của người phải thi hành án trong nội dung
này được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là các khoản thu nhập của người phải thi
15



hành án ngồi khoản tiền lương, tiền cơng do các cơ quan, tổ chức, cá nhân
hoặc đang quản lý thu nhập chi trả thêm cho người lao động như tiền thưởng
hàng tháng, phụ cấp chức vụ, phụ cấp vùng…Thu nhập hợp pháp của một
người cụ thể từ nhiều nguồn thu khác nhau như: tài sản được tặng cho, do
được thừa kế, hoặc do trúng xổ số kiến thiết… nhưng những nguồn thu nhập
này, chấp hành viên không được áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu
nhập của người phải thi hành án mà phải lựa chọn biện pháp cưỡng chế khác,
vì đây là khoản thu nhạp khơng thường xun của đương sự [36].
Thứ ba, kê biên cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng
ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm:
Theo quy định Điều 89 Luật Thi hành án dân sự (được sữa đổi, bổ sung)
năm 2014, đối với tài sản là quyền sư dụng đất hoặc đăng ký giao dịch bảo
đảm hoặc tài sản phải đăng ký quyền sở hữu để hạn chế các khiếu kiện từ phía
người phải thi hành án và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
pháp luật quy định trước khi kê biên, Chấp hành viên phải yêu cầu (Bằng văn
bản) cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký về
một số nội dung như giao dịch đã đăng ký hoặc quyền sử dụng đất là của
người nào? Có bị cầm cố hay thế chấp khơng?... Và sau khi đã thực hiện xong
việc kê biên tài sản, Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan
đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc đăng ký quyền sở hữu về việc kê biên dó để
các cơ quan này xử lý theo khoản 1 Điều 178 Luật Thi hành án dân sự (được
sửa đổi, bổ sung) năm 2014 như: tạm dừng hoặc dừng việc thực hiện các yêu
cầu liên quan đến các giao dịch đối với tài sản của đương sự đăng ký tại cơ
quan đăng ký giao dịch đảm bảo, đăng ký tài sản.
Tại Điều 111 Luật Thi hành án dân sự (Được sửa đổi, bổ sung) năm 2014
còn quy định chi tiết việc kê biên quyền sử dụng đất như sau: Khi kê biên
quyền sử dụng đất, Chấp hành viên yêu cầu người đang quản lý giấy tờ
16



về quyền sở hữu sử dụng đất, người phải thi hành án phải nộp các giấy tờ đó
cho Cơ quan THADS. Khi kê biên quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với
đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì kê biên cả tài sản gắn
liền với đất và quyền sử dụng đất. Trường hợp tài sản gắn liền với đất thuộc
tài sản của người khác (khơng phải của người phải thi hành án) thì Chấp hành
viên chỉ kê biên quyền sử đất và thông báo cho người có tài sản gắn liền với
đất. Quyền sử dụng đất cũng là một loại tài sản có những đặc thù nhất định
như đất đai thuộc sở hữu tồn dân nhưng quyền sử dụng đất thì lại thuộc
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy,
Luật THADS đã dành một mục (Mục 8 Chương IV của Luật Thi hành án dân
sự năm 2014) gồm 04 điều quy định về việc cưỡng chế đối với tài sản là
quyển sử dụng đất trong đó có việc kê biên quyền sử dụng đất. Để kê biên tài
sản là quyền sử dụng đất, Chấp hành viên cần làm những việc sau:
-

Xác định giấy tờ về quyền sử dụng đất được kê biên: Quyền sử dụng

đất là loại tài sản rất đặc thù và do tính chất phức tạp của loại tài sản này nên
khi tiến hành kê biên, Chấp hành viên cần chú ý đến giấy tờ xác định giá trị
pháp lý của quyền sử dụng đất. Khi kê biên quyền sử dụng đất của người phải
thi hành án, Chấp hành viên cần xem xét kỹ các giấy tờ xác định quyền sử
dụng đất của người phải thi hành án. Chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử
dụng đất khi người phải thi hành án có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp theo quy định của Luật Đất đai.
Thứ tư, kê biên cưỡng chế tài sản đang cầm cố, thế chấp và do người thứ ba

giữ:
Theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự (Được sửa đổi, bổ
sung) năm 2014, Chấp hành viên có quyền kê biên tài sản đang cầm cố, thế
chấp.

Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp: Chấp
17


hành viên tiến hành kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp khi: Người phải thi
hành án có nhưng khơng đủ để thi hành án hoặc khơng cịn tài sản nào khác.
Giá trị tài sản đang thế chấp, cầm cố phải lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo và
chi phí cưỡng chế thi hành án.
Trong thực tiễn thi hành án đã gặp rất nhiều trường hợp khi xác minh
người phải thi hành án có tài sản nhưng họ đã thế chấp cho Ngân hàng hoặc
cầm cố hoặc cá nhân, tổ chức để vay một khoản tiền nhất định, nếu người
phải thi hành án khơng cịn tài sản nào khác hoặc có nhưng tài sản có giá trị
nhỏ khơng đủ để thi hành án thì Chấp hành viên phải xác minh làm rõ việc thế
chấp, cầm cố có hợp pháp không? Giá trị tài sản đang thế chấp, cầm cố và
nghĩa vụ được đảm bảo là bao nhiêu và dự tính các chi phí cưỡng chế để
quyết định có kê biên hay không kê biên tài sản đang thế chấp, cầm cố. Chấp
hành viên chỉ được kê biên tài sản đang thế chấp, cầm cố của người phải thi
hành án khi đã có cơ sở cho rằng, người phải thi hành án khơng cịn tài sản
nào khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án và giá trị tài sản thế chấp,
cầm cố lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo và các chi phí cần thiết trong q
trình kê biên cưỡng chế tài sản cho đến khi người mua trúng đấu giá.
Khi kê biên, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận thế
chấp, cầm cố và khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thì Chấp hành viên phải ưu
tiên thanh toán cho nghĩa vụ được đảm bảo sau khi đã trừ các chi phí về thi
hành án yêu tiên theo quy định tại khoản 3 Điếu 47 Luật Thi hành án dân sự
năm 2014 “Trường hợp xử lý tài sản thế chấp, cầm cố mà bên nhận thế chấp,
cầm cố là bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà quyết định,
bản án tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu
được từ việc bán tài sản thế chấp, cầm cố bị kê biên được ưu tiên thanh toán
cho bên nhận cầm cố, thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ được bảo đảm sau khi

trừ án phí của quyết định, bản án đó, chi phí cưỡng chế.
18


×