Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

(Luận văn thạc sĩ) xây dựng hệ thống câu hỏi đối thoại trong dạy học chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THUỶ

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỐI THOẠI
TRONG DẠY HỌC “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học
(Bộ môn Ngữ văn)
Mã số
: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VIẾT CHỮ

HÀ NỘI – 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THUỶ

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỐI THOẠI
TRONG DẠY HỌC “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học


(Bộ môn Ngữ văn)
Mã số
: 60 14 10

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 2
1.1. Đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề thời sự ............................................... 2
CHƯƠNG 1 ..................................................................................................................... 8
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CÂU HỎI VÀ CÂU HỎI ĐỐI THOẠI TRONG DẠY
HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG....................................... 8
1.1. cơ sở lí luận ............................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm về câu hỏi......................................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm về câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn ................................... 12
1.1.3. Hoạt động đối thoại trong dạy học Ngữ Văn .................................................. 13
1.2. Câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn .............................................................. 14
1.2.1. Bản chất câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn ........................................ 15
1.2.2. Vai trò của câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn. .................................... 16
1.2.3. Các loại câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn .......................................... 17
1.2.4. Nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi đối thoại ............................................. 26
CHƯƠNG 2 ................................................................................................................... 31
THỰC TRẠNG CÂU HỎI VÀ CÂU HỎI ĐỐI THOẠI TRONG DẠY HỌC
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU .............................. 31
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ................................................................. 31
2.1. Khảo nghiệm về thực trạng câu hỏi và sử dụng câu hỏi trong dạy học “Chiếc thuyền

ngoài xa” ...................................................................................................................... 31
2.1.1. Mục đích khảo nghiệm .................................................................................... 31
2.1.2. Nội dung khảo nghiệm .................................................................................... 31
2.1.3. Đối tượng,địa bàn, thời gian khảo sát ............................................................. 32
2.1.4. Kết quả khảo nghiệm ...................................................................................... 32
2.1.5. Phân tích kết quả khảo nghiệm ....................................................................... 35
2.2. Định hướng xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu ...................................................................................................... 37
2.2.1. Điều kiện để xây dựng câu hỏi đối thoại trong dạy học “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu ............................................................................................ 37
2.2.2. Hệ thống câu hỏi............................................................................................. 80
CHƯƠNG 3 ................................................................................................................... 90
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ........................................................................................ 90
3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................................... 90
3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm ................................................................................. 90
3.4. Giải pháp ............................................................................................................. 106
3.4.1. Giải pháp xây dựng, tổ chức giờ học ............................................................. 106
3.4.2. Giải pháp tăng cường khả năng giao tiếp, đối thoại ...................................... 110
3.4.3. Giải pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà ........................................ 111
3.4.4. Đề xuất hiệu quả của việc sử dụng hệ thống câu hỏi đối thoại trong phương
pháp thảo luận nhóm khi giảng dạy nhất là với tác phẩm văn xuôi để mọi người cùng
thực hiện ................................................................................................................ 112
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 114
PHỤ LỤC 1: PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN .......................................................... 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 8

1


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề thời sự
Vấn đề hiện đại hóa nhà trường trong thời kì hội nhập khu vực và quốc tế
cùng với việc hiện đại hóa một giờ dạy của bất kỳ bộ môn nào ở bất kỳ một
nền giáo dục nào cũng phải cần sự cách tân. Vấn đề đổi mới nội dung, phương
pháp dạy học là một yêu cầu cơ bản của chiến lược giáo dục và luôn là những
vấn đề thời sự lâu dài được bàn nhiều trong các chương trình Nghị sự : Nghị
quyết Trung Ương 4 khóa 7 (tháng 1/ 1993), Nghị quyết Trung Ương 2 khóa 8
( tháng 12/ 1996), chỉ thị của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đặc biệt là Chỉ thị số
14 (tháng 1/1999) được thể chế hóa trong luật Giáo Dục (2005)... Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ IX (2001) khẳng định "Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học..... phát huy
tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên đề cao năng
lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề . ( Văn kiện đại hội Toàn quốc
lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia 2001), Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục ở nước ta:„„ Giáo dục
và Đào tạo là quốc sách hàng đầu ...nguồn nhân lực chất lượng cao là ...
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững » . Như vậy, rõ ràng mục tiêu giáo dục là phải hiện đại hóa giờ dạy học,
đặc biệt đối với môn Ngữ văn. Nhất là trong những giờ dạy học những TP nổi
tiếng của những tác giả văn học có ảnh hưởng lớn đến đời sống nhà trường
như Nguyễn Minh Châu với TP chiếc thuyền ngoài xa.
Dạy học Văn là một lĩnh vực hoạt động địi hỏi nhiều tìm tịi sáng tạo của
cá nhân trên lớp. Hệ thống câu hỏi nói chung và câu hỏi đối thoại nói riêng
được người thầy xây dựng nên khơng chỉ mang ý nghĩa nghiên cứu khoa học
mà có ý nghĩa phương pháp nhằm thực hiện mục tiêu dạy học. TPVC là những
văn bản nghệ thuật đa nghĩa, tự nó đã chứa đựng những đại lượng nghệ thuật
thẩm mỹ, những nguồn thơng tin đa dạng. Tiếng nói nhà văn là tiếng nói đa
1



thanh, nhiều giọng. TPVC là một hệ thống mở, một hệ thống động. Vòng đời
của TP đan kết nhiều quá trình và nhiều quan hệ : cuộc sống - nhà văn - TPVC
- bạn đọc - cuộc sống, từ đó tạo ra nhiều tiếng nói khác nhau trong mối quan
hệ.Vì tính phức tạp này nên việc thiết lập một hệ thống câu hỏi đối thoại trong
giờ dạy học TPVC lại càng quan trọng để GV dẫn dắt HS khám phá lớp nghĩa
ẩn tàng trong TP. „„Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một
TPVC như thế – văn bản nghệ thuật đa nghĩa.
1.2. Từ tư tưởng dạy học mới và yêu cầu đổi mới phương pháp trong dạy
học Ngữ văn
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người có cá tính, bản lĩnh,
sáng tạo. Vì vậy, nhất định ngay trong giờ lên lớp, người GV không thể duy trì
mãi nếp giảng dạy cổ truyền, áp đặt. Một thời gian dài, trong nhà trường đã áp
dụng phương pháp dạy học giáo điều. GS Phan Trọng Luận coi đó là ‘‘Sai lầm
cơ bản của cái gọi là dạy học truyền thống’’. Trong nhà trường hiện nay các
giờ văn đang chịu sự lấn át của các khuynh hướng bách khoa hàn lâm và chủ
nghĩa nghiệp vụ. Khuynh hướng này bắt nguồn từ nhận thức không đúng về
đặc trưng của môn Ngữ văn và phần nào do sức ép của tư tưởng thực dụng
trong dạy học thời kinh tế thị trường. Quan niệm về môn Ngữ văn trong nhà
trường hiện nay chưa thống nhất: nhấn mạnh tính chất cơng cụ (thiên về rèn
luyện kĩ năng kĩ xảo, thiên về giáo dục chính trị ...). Chính vì vậy mà các giờ
dạy học Ngữ văn cứng nhắc, giản đơn, HS như cái bình chứa kiến thức, thụ
động, thầy thuyết trình, học trị ngồi nghe và ghi chép.
Văn học khơng những tìm kiếm, phản ánh, sáng tạo cái Đẹp mà còn rèn
luyện, bồi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, nhận thức thẩm mĩ, năng
lực sáng tạo thẩm mĩ. Môn văn nhà trường vừa là một khoa học vừa là một bộ
môn có tính nghệ thuật. Từ đặc trưng, mục đích, u cầu của môn Ngữ văn,
việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường hiện nay được
đặc biệt quan tâm. Muốn dạy tốt, học tốt đòi hỏi phải có một phương pháp
khoa học. Ngày nay nhiều phương pháp mới có ý tưởng phá vỡ ràng buộc của

2


phương pháp cũ, nhằm đổi mới dạy học theo hướng dân chủ và nhân văn .
Trong giảng dạy TPVC ở nhà trường phổ thông, vấn đề người học với tư cách
là chủ thể ngày càng được quan tâm - phát huy vai trò chủ thể của HS, đưa
người HS đối diện trực tiếp với những vấn đề nóng bỏng của xã hội. TPVC
không phải là một văn bản duy nhất trong mối quan hệ đơn phương với người
GV. Trong lớp học, một văn bản ít nhất có ba kiểu người đọc với ba điểm nhìn
khác nhau: văn bản của tác giả, văn bản của GV và văn bản của HS. Nhiệm vụ
của giờ văn là làm sao phải tạo ra sự tương tác của ba mối quan hệ vốn có giữa
TP( nhà văn), GV và bản thân HS.
Để có một giờ dạy TPVC phù hợp với cơ chế dạy học mới, đòi hỏi sự
chuẩn bị của cả thầy và trò. Xây dựng một hệ thống câu hỏi đối thoại phù hợp
với phương pháp dạy học và quy trình lên lớp là điều hết sức cần thiết để có
định hướng đúng đắn và hiểu biết sâu sắc về TPVC, kích thích hoạt động tích
cực, sáng tạo của HS, giúp GV thực hiện tốt vai trò cố vấn, điều khiển, dẫn dắt
HS tiếp nhận TPVC. Điều này đòi hỏi người GV đứng lớp hiện nay phải tập
trung trí, lực, tâm huyết. Muốn làm tốt vai trị „„trọng tài khoa học’’, người
GV khơng những phải giỏi về chun mơn mà cịn phải giỏi về nghiệp vụ sư
phạm, đó chính là kĩ năng dạy học. Trong kĩ năng dạy học, thì kĩ năng đặt câu
hỏi là một trong những kĩ năng quan trọng.
1.3. Giờ dạy tác phẩm văn học sau 1975 nói chung, "Chiếc thuyền ngồi
xa" của Nguyễn Minh Châu nói riêng cịn tồn tại những nghịch lý gây
nhiều trăn trở cho các nhà sư phạm.
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là TPVH Việt Nam giai
đoạn sau 1975. Đây là TP mới được đưa vào chương trình Ngữ văn ở nhà
trường trung học phổ thông. Văn học Việt Nam sau 1975 với những đặc trưng
riêng, khác với văn học giai đoạn trước về quan niệm thi pháp, kết cấu tự sự,
quan điểm về con người, quan điểm thẩm mỹ... Do đó, trong giờ dạy những

TP này còn một số bất cập, nhấn mạnh tính cơng cụ (thiên về rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo, cung cấp kiến thức, thiên về giáo dục chính trị đạo đức; tính
3


thẩm mỹ chưa được chú ý; quan điểm, tiếng nói suy nghĩ của HS trước những
vấn đề thế sự chưa được quan tâm,...) Với kinh nghiệm và thực tế giảng dạy,
để phát huy được tính chủ động, sáng tạo của HS, tôi nghĩ nhiều đến vấn đề
xây dựng hệ thống câu hỏi đối thoại. Tình hình đặt câu hỏi trong một số giờ
dạy Ngữ Văn hiện nay còn phụ thuộc nhiều vào hệ thống câu hỏi SGK của
HS, GV làm cho giờ học khô khan, HS như cái máy theo lập trình có sẵn. HS
tìm dẫn chứng, minh họa cho lời thuyết giảng của thầy. Trong giờ học có thể
có nhiều câu hỏi nhưng phần nhiều ngẫu hứng, tái hiện kiến thức vụn vặt, câu
hỏi không thể hiện đặc trưng giờ dạy TPVC. Giờ học giảm tính sáng tạo và sự
hấp dẫn...
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những TP tiêu biểu cho phong
cách truyện ngắn trữ tình thế sự và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu. Để HS nắm được giá trị tư tưởng của TPVC đa tầng nhiều triết lý sâu xa
này, rất cần đến một người GV - đạo diễn tài năng. Bằng cách nào để người
HS trong nhà trường hiện đại được thể hiện tư tưởng, quan điểm của mình
trong các giờ học TPVC, để trong các giờ Ngữ văn khơng cịn hiện tượng thầy
thuyết giảng, HS thụ động như cái bình chứa những suy nghĩ, quan điểm lí
giải của thầy...
Xuất phát từ những lí do trên và từ thực tiễn giảng dạy của người viết,
chúng tôi chọn đề tài ‘‘Xây dựng hệ thống câu hỏi đối thoại trong dạy học
« chiếc thuyền ngồi xa » của Nguyễn Minh Châu’’. Đây chưa phải là con
đường duy nhất để khám phá TPVC nhưng chúng tôi hy vọng góp thêm tiếng
nói về vấn đề đổi mới phương pháp trong dạy học Ngữ văn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Thực hiện đề tài ‘‘Xây dựng hệ thống câu hỏi đối thoại trong dạy học

« chiếc thuyền ngồi xa » của Nguyễn Minh Châu’’ là đưa ra một định
hướng nhằm nâng cao chất lượng của bài dạy với mục đích khai thác sâu giá
trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của TP: tình huống truyện độc đáo, mang ý
nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống; điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa
4


chiều lời văn giản dị mà sâu sắc dư ba cũng như cảm nhận được những chiêm
nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật.
2.2. Với đề tài này người nghiên cứu cũng muốn một lần nữa khẳng định vai
trò thiết thực của câu hỏi đối thoại đối với q trình dạy học TPVC ở trường
THPT nói chung, dạy học truyện trữ tình thế sự sau 1975 nói riêng. Bước đầu
đưa ra một vài tiêu chí cơ bản, cách thức và các thủ pháp xây dựng hệ thống
câu hỏi đối thoại cho một bài học cụ thể và ý nghĩa phương pháp thực sự trong
quá trình xây dựng và thực thi giờ dạy bằng các câu hỏi đối thoại.
2.3. Thiết kế một giáo án thể nghiệm, xây dựng bằng được hệ thống câu hỏi đối
thoại trong dạy học « chiếc thuyền ngồi xa » của Nguyễn Minh Châu’
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, chúng tơi làm một số nhiệm vụ sau:
3.1. Tìm hiểu và phát hiện những hạn chế trong vấn đề sử dụng câu hỏi, tổ
chức giờ học của GV Ngữ Văn hiện nay. Từ đó tìm ra được một hệ thống câu
hỏi phù hợp với việc phát huy chủ thể trong dạy học.
3.2. Xác định khái niệm câu hỏi đối thoại và xây dựng hệ thống câu hỏi đối
thoại trong dạy học truyện ngắn nói chung và truyện ngắn chiếc thuyền ngồi
xa của Nguyễn Minh Châu nói riêng.
3.3. Vận dụng câu hỏi đối thoại với những hình thức tổ chức thích hợp trong
dạy học « chiếc thuyền ngồi xa » của Nguyễn Minh Châu .
3.4. Tổ chức thực nghiệm sư phạm để khẳng định sự thành công của đề tài.
4. Đối tƣợng nghiên cứu phạm
* Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

* Các cơng trình nghiên cứu về vấn đề câu hỏi trong dạy học Ngữ văn.
* Các cơng trình nghiên cứu về cuộc đời sự nghiệp nhà văn Nguyễn Minh Châu.
* Thực trạng dạy và học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
5, Phạm vi nghiên cứu
* Nghiên cứu các cơ sở lí luận khoa học về vấn đề câu hỏi trong dạy học Văn
ở nhà trường phổ thông
* Học sinh, GV các trường THPT ở Hải Phòng
5


* Quá trình soạn, giảng, chiếm lĩnh tiếp nhận TPVC của thầy và trò trong dạy
học tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được một hệ thống câu hỏi với tinh thần đối thoại trong dạy
học TPVC và kèm theo được những hình thức tổ chức đối thoại thích hợp thì
việc dạy học những TP trữ tình thế sự của Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn
sau 1975 sẽ đạt hiệu quả tốt.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm luận văn này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp tiêu biểu:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phát triển tổng hợp, nghiên cứu các tài liệu, các vấn đề lí luận có liên quan
đến đối thoại và câu hỏi đối thoại.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra khảo sát, phân tích, thống kê các số liệu.Thu thập
thơng tin, khảo sát thực trạng và khảo sát tính chất thực thi của giải pháp.
- Phương pháp trao đổi trực tiếp, phỏng vấn.
- Phương pháp thực nghiệm tự nhiên 2 tiết của giáo viên.
7.3. Phương pháp sử lí số liệu bằng thống kê tốn học.
8. Kết cấu của luận văn

Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề câu hỏi và câu hỏi đối
thoại trong dạy học Ngữ Văn ở trường trung học phổ thông
Chương 2: Thực trạng câu hỏi và câu hỏi đối thoại trong dạy học “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở trường trung học phổ thông.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CÂU HỎI VÀ CÂU HỎI ĐỐI THOẠI TRONG
DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
1.1. cơ sở lí luận
“Gieo một câu hỏi vào trong lịng người đọc là gieo một chất kích thích”.
Câu hỏi có một vị trí đặc biệt trong hoạt động giao tiếp, nhất là trong dạy học
Ngữ Văn. Nhờ câu hỏi mà con người điều chỉnh được mình, đưa mình vào
những tình huống, buộc mình phải thể hiện được sự thích ứng với những tình
huống cụ thể để giải quyết những vấn đề khách quan, chủ quan một cách hợp
lý.

1.1.1. Khái niệm về câu hỏi
1.1.1.1. Theo Aritotle: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã
biết và cả cái chưa biết”. Trong đời sống cũng như trong nghiên cứu khoa học,
con người chỉ nêu ra thắc mắc, tranh luận khi đã biết nhưng chưa đầy đủ, cần
biết thêm. Cịn nếu chưa biết gì hoặc biết tất cả về sự vật nào đó thì khơng có
gì để hỏi về sự vật đó. Do đó tương quan giữa cái biết và cái chưa biết thúc
đẩy việc mở rộng hiểu biết của con người.


1.1.1.2. Trong giao tiếp
Thế kỉ XXI, thế kỉ của giao tiếp. Trong đời sống cũng như trong nghiên
cứu khoa học, con người chỉ nêu ra thắc mắc, tranh luận khi đã biết nhưng
chưa đầy đủ, cần biết thêm. Hỏi là nêu ra những điều mình muốn người khác
giải đáp hoặc trả lời về vấn đề nào đó. Vậy có thể hiểu, câu hỏi là sản phẩm
của hoạt động nhận thức thơng qua q trình giao tiếp. Con người muốn biết
một sự vật, hiện tượng nào đó dứt khốt chỉ biết khi người đó đặt được những
câu hỏi: đó là cái gì? như thế nào? vì sao?..nghĩa là khi đó người ta chủ động
tìm đối tượng để hỏi ( giao tiếp) .

1.1.1.3. Trong dạy học Ngữ Văn
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi,
một mệnh lệnh mà người học, người dạy cần phải giải quyết. Câu hỏi để tích

7


cực hóa hoạt động của HS trong q trình dạy học là câu hỏi phải nhằm vào
mục đích phát triển tư duy, phát huy khả năng tích cực, chủ động trong học tập
của HS.
Tìm hiểu TPVC qua hệ thống câu hỏi, trong cuốn “Phương pháp dạy học
TPVC trong nhà trường”, tác giả Nguyễn Viết Chữ trước khi đề xuất một số
biện pháp rèn luyện việc đặt câu hỏi đối với TPVC trong dạy học văn từng
viết: “ ở nước ta, vấn đề dạy học văn từ lâu đã được bàn đến với nhiều góc độ.
Nhưng một lý thuyết về câu hỏi với tính chất “ bài bản” thì chưa có. Vì chưa
có một lí thuyết như vậy, nên sự tùy tiện đặt câu hỏi trong SGK, sách hướng
dẫn, cũng như trong giờ dạy văn đến nay chưa thể khắc phục được” [5 ; 31].
Rèn luyện việc đặt câu hỏi cho TPVC trong dạy học văn của thầy và trò xuất
phát từ những thành tựu khoa học, những phương pháp và kinh nghiệm truyền
thống:

- Nắm vững lí thuyết câu hỏi cảm thụ, nắm vững được những u cầu có tính
ngun tắc: Từ quan niệm mới mẻ về môn Văn và việc dạy học bộ môn Ngữ
Văn trong nhà trường. Văn học là ngành nghệ thuật “trị diễn bằng ngơn từ”
thể hiện đời sống tinh thần qua hình tượng, mà đối với hình tượng nghệ thuật
phi hình thể nên cái gọi là chân lí nghệ thuật khơng xác định, nó là kết quả của
sự tương tác giữa khách thể và chủ thể. Thầy, trò trong quan hệ với TP: thầy
giữ vai trò chủ đạo để trò chủ động tiếp nhận TP. “Tác phẩm nghệ thuật là
một sự chuyển hóa đặc thù của khách thể vào chủ thể và của chủ thể vào
khách thể được thể hiện trong quá trình hành chức nghệ thuật và sự tồn tại xã
hội của nó”. Chống áp đặt trong cảm thụ nghệ thuật, khắc phục bệnh xã hội
học dung tục, phát huy vai trị tích cực, chủ động của HS trong tiếp nhận thẩm
mỹ của ngành nghệ thuật ngôn từ là vấn đề bức xúc đang đặt ra. Trượt trên
những lối mịn cũ của lí thuyết “giảng văn” theo những quy trình gần như ổn
định là một vấn đề cần thiết phải đặt ra khi bản chất của việc dạy học văn hiện
đại đã thay đổi; Lí luận dạy học hiện đại đã đặt ra những vấn đề hết sức cấp
thiết.

8


- Bước đầu vận dụng lý thuyết câu hỏi vào dạy học các loại thể Văn học trong
nhà trường. Những phương pháp lớn của Dugakmuka (Dicđatique) (Lí luận
dạy học đại cương) vào ngành dạy học văn do những đặc điểm bộ mơn, người
ta thấy nổi lên bốn nhóm phương pháp: đọc sáng tạo, gợi tìm vấn đề, nghiên
cứu và tái tạo. Bốn nhóm phương pháp này đã đặt học trị và thầy giáo vào
những tình huống khác nhau trong việc tiếp nhận TP qua văn bản nghệ thuật.
Nhưng bằng những biện pháp nào để dẫn đến những hoạt động của người dạy
và người học từ người truyền đạt giảng giải chuyển sang chủ động là vấn đề
bức thiết cần phải giải quyết; Lí thuyết của văn học hiện đại lại chỉ ra cấu trúc
đa tầng của TPVC khiến việc dạy học văn theo ý đã trở thành lỗi thời và đơn

giản hóa nghệ thuật. Việc mở rộng sự hiểu biết về cá tính sáng tạo, phong cách
nghệ thuật và vấn đề thi pháp, đặc biệt là lí thuyết tiếp nhận văn học, đã mở ra
công việc dạy học văn nhiều cách nhìn mới mẻ, đa chiều. Vì vậy, khơng hi
vọng một tiết dạy văn có thể khai thác cạn kiệt cái hay, cái đẹp mà phải kích
thích thế nào để hình tượng nghệ thuật được phát triển và âm vang mãi trong
tâm hồn người đọc; Dạy học phát triển là hệ quả của một thời đại công nghiệp,
buộc giáo dục phải có một cách nhìn phù hợp và điều chỉnh lại những phương
pháp hiện đã trở thành bảo thủ ( nếu thời Comenxki là đi từ cụ thể đến khái
quát thì ngày nay phải đi từ khái quát đến cụ thể. Trên thực tế, khơng có một
sự quy nạp nào cho ta những kết luận hồn tồn đúng). Việc hình thành nhân
cách con người được đặt ra trong tương tác của bốn yếu tố: di truyền, môi
trường, giáo dục và tự thân vận động. Những thành tựu của tâm lí học hiện đại
đã cho ta những kết luận quan trọng về hứng thú các lứa tuổi với các loại hình
nghệ thuật và đặc biệt là sự kích thích hứng thú của cá nhân. Sự kích thích
(stimulation) trong hoạt động cá nhân khi phản ứng với nghệ thuật tạo ra sự
lây lan cảm xúc và hứng thú. Vậy, kích thích như thế nào để hứng thú vận
động và phát triển trong quá trình dạy học sáng tạo; Mĩ thuật, sư phạm học,
Giáo dục học hiện đại đã chỉ ra rằng trong dạy học văn hay một mơn nghệ
thuật khác thì giáo dục phải là cái gì tinh tế, tế nhị để chuyển nó thành hứng
9


thú mà đối tượng tiếp nhận “tự được giáo dục”. Vì vậy về phương diện lí luận,
trong cơng việc dạy văn cần có một lí thuyết câu hỏi xuất phát từ đặc trưng bộ
mơn, từ lí luận hiện đại .
Trong dạy học văn, vấn đề câu hỏi được nhiều người nói đến: Giáo trình
“Phương pháp dạy học văn” do giáo sư Phan Trọng Luận chủ biên…đề cập
bàn tới câu hỏi trong dạy học Văn mang ý nghĩa phương pháp. Tác giả Phan
Trọng Luận trong các cơng trình nghiên cứu của mình đã phân loại câu hỏi tái
hiện và câu hỏi sáng tạo, nhấn mạnh đặc điểm của câu hỏi sáng tạo, câu hỏi

nêu vấn đề trong dạy học TPVC. Tuy nhiên tác giả chưa đưa ra cơ sở lí luận
đầy đủ về lí thuyết câu hỏi và những tiêu chí xây dựng câu hỏi cụ thể. Có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề câu hỏi trên nhiều bình diện và
cụ thể hóa. “Câu hỏi trong giảng văn” của Trương Dĩnh đã đưa ra một số vấn
đề lí luận làm cơ sở xác định cấu trúc câu hỏi, phân loại câu hỏi nhưng tập
trung chủ yếu ở câu hỏi nêu vấn đề...Trong chuyên luận “Phương pháp dạy
học tác phẩm văn chương theo thể loại” của PGS.TS Nguyễn Viết Chữ, tác
giả đã dành nhiều trang viết về câu hỏi. Ơng đã đưa ra những cơ sở lí luận,
những u cầu có tính ngun tắc cho việc đặt câu hỏi trong quá trình dạy học
và vận dụng cách thức đặt câu hỏi cho những thể loại văn học tiêu biểu. Tác
giả đã phân chia thành 9 loại câu hỏi nhỏ khác nhau đối với quá trình dạy học.
Đây là đóng góp lớn về mặt lí thuyết xây dựng câu hỏi, đặc biệt vận dụng dạy
học theo loại thể. TS. Phan Huy Dũng trong hội thảo khoa học về phương
pháp đã đưa ra tham luận “Mâu thuẫn đặc thù của tác phẩm văn học và cách
thức đặt câu hỏi then chốt cho giờ giảng văn” đã đưa ra những cách thức đặt
câu hỏi khai thác từ mâu thuẫn đặc thù một yếu tố quan trọng trong nhận thức
và trong quá trình chiếm lĩnh TPVC. Việc xây dựng những câu hỏi xuất phát
từ mâu thuẫn đặc thù của TP giúp định hướng trọng tâm cho vấn đề của TP
tránh sự tản mạn, rời rạc, khơng có điểm nhấn trong đặt câu hỏi đối với quá
trình giảng văn…

10


Trong dạy học văn hiện đại, vấn đề câu hỏi được nhiều người nói tới vì nó
là phương diện tối ưu trong các biện pháp hữu hiệu để tìm hiểu, cảm nhận,
tiếp nhận TPVC. Trong dạy học Văn, GV muốn nêu được vấn, cần đến câu
hỏi gợi mở, muốn HS nắm được vấn đề cần có câu hỏi định hướng. Theo quan
điểm giáo dục hiện đại, muốn có những học trị chủ động, tự tin, dám trình bày
quan điểm, suy nghĩ của mình… về những vấn đề cuộc sống, con người, nghệ

thật mà TPVC phản ánh cần có câu hỏi đối thoại.
1.1.2. Khái niệm về câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn
Câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn là một loại câu hỏi mang nội
dung đối thoại giữa hai hay nhiều người trước, trong, sau hoạt động dạy học
Văn với nội dung nghệ thuật của bộ mơn mang tính nghệ thuật. Ở đây nghệ
thuật văn chương và khoa học nghệ thuật sư phạm được thể hiện một cách
nhuần nhị. Câu hỏi đối thoại để tích cực hóa hoạt động của HS. Câu hỏi phải
nhằm vào mục đích phát triển tư duy, phát huy khả năng tích cực, chủ động
trong học tập của HS. Vì vậy, yêu cầu của câu hỏi đối thoại không phải chỉ là
liệt kê nội dung trình bày trong SGK mà phải là những câu hỏi có u cầu
phân tích, giải thích, chứng minh, so sánh, khái qt hóa, có tính nghệ thuật.
Làm cho giờ HS động, cởi mở dân chủ, trong đó có đan xen lời nói, tranh
luận, đàm thoại, đặt ra những câu hỏi và câu trả lời, giải quyết các tình
huống…của cả thầy và trị.
Như vậy, đối thoại là sự trao đổi kết quả tư duy của mình với người khác,
đối với hiện thực. Cho nên khơng có kết quả của tư duy, khơng có đối thoại,
khơng có giao tiếp được. Ngược lại, đối thoại còn là cơ sở của phương pháp tư
duy, phương pháp nhận thức. Tư duy theo nguyên tắc đối thoại là một hướng
tư duy nhằm làm phát triển nội dung tri thức cần tiếp nhận. Trong dạy học
TPVC, thông qua ngôn ngữ, GV hướng HS tiếp nhận TP bằng việc tổ chức
các quan hệ đối thoại giữa HS với thế giới nghệ thuật trong TP, với các nhân
vật, các sự kiện, tình tiết trong TP, với tác giả, để từ đó HS có thể khám phá
TP, để hiểu nội dung TP một cách cặn kẽ hơn.
11


Như vậy, câu hỏi đối thoại là sản phẩm của hoạt động nhận thức
thông qua giao tiếp đối thoại. Nếu người tham gia đối thoại biết đặt câu
hỏi và trả lời được câu hỏi đó là trình độ cao nhất. Trong dạy học đối
thoại, người ta sử dụng cả hai trình độ ấy, dạy HS biết hỏi và dạy HS biết

trả lời.
1.1.3. Hoạt động đối thoại trong dạy học Ngữ Văn
Trong dạy học văn, chủ thể HS vận dụng phương pháp nghiên cứu phát
hiện cái mới, biết hoài nghi phê phán, đưa ra những tiêu chuẩn để khẳng định
đánh giá cái mới, cái tốt đúng với tính chất của một chủ thể. Ngồi ra, chủ thể
muốn thể hiện được mình thì phải tận dụng phương pháp gợi tìm của thầy, của
bạn hay tự mình đặt ra: đối thoại với mình, đối thoại với nhà văn, đối thoại với
bạn, đối thoại với nhân vật… đối thoại thành lời hay đối thoại thầm lặng.
Đối thoại không chỉ là hoạt động giao tiếp bằng lời mà là cả giao tiếp
trong tư duy, tư tưởng, trong bản thân “cái tơi” và cả sự hóa thân của cái tôi.
Đối thoại trong dạy học văn thể hiện sâu sắc và đa dạng nhất của bản sắc nhân
văn, dân chủ. Nếu “diện mạo dân chủ là đạo đức của người thầy dạy văn” thì
đối thoại ở giờ dạy văn, bản chất ấy thể hiện rõ nhất trong vai trị chủ thể của
người HS: được nói, dám nói (thậm chí phải nói) ý nghĩ chân thật của mình.
Trong hoạt động đối thoại, phương pháp tái tạo được thể hiên một cách rất
tế nhị, “Nhớ cái cũ, tiếp thu cái mới một cách sáng tạo gọi là tái tạo”. Trong
hoạt động đối thoại cả người dạy và người học đều thể hiện được đúng vai trị
của mình, vị trí của mình. Đúng như Dewey nói: “Hãy trả lại cho học sinh
những gì thuộc về họ”
TPVC - bản chất của nó là đối thoại. Nhờ sự cộng hưởng giữa tâm hồn
người nghệ sĩ và thế giới xung quanh, kết quả của ý thức và vụ thức vào phút
giây thăng hoa qua tài năng nghệ sĩ và cá tính sáng tạo mà TP đích thực ra đời.
Nhà văn gửi thơng điệp qua hệ thống tín hiệu nghệ thuật, hệ thống đó mỗi lần
gặp một người (qua đọc, nghe, nói, viết, xem) với kênh nghe và kênh nhìn
khác nhau, ngẫm nghĩ và hình thành TP. Có bao nhiêu người đọc thì có bấy
12


nhiêu TP. “Tác phẩm chỉ bắt đầu khi nó vang lên trong tâm hồn người đọc
như một sự độc thoại bên trong” (V.G. Marantxman).

TPVC luôn sống trong sự phát triển của bạn đọc. Khơng có bạn đọc thì
TPVC khơng tồn tại. “Tác phẩm tốt không phải chỉ đem tới thông tin mà kích
thích để bùng nổ thơng tin. Bạn đọc quyết định sự tồn vong của tác phẩm qua
giao lưu đối thoại”. Xôcrat khẳng định: “Làm cho người ta muốn biết, tranh
luận. đối thoại, chân lý sẽ xuất hiện”…. Trong nhà trường, vấn đề tích cực hóa
người đọc theo hướng nhân văn, dân chủ tạo được sự giao lưu, giao cảm khi
người đọc tiếp xúc văn bản của nhà văn… từ đó hình thành cho họ thói quen
tư duy đối thoại, khắc phục thói quen lệ thuộc. Trong xã hội hiện nay, lệ thuộc
tư duy là điều khơng nên có ở người công dân trẻ.
Con đường đối thoại gợi mở, trao đổi trực tiếp tạo cho khơng khí của lớp
học tràn ngập dân chủ tự do. Chuẩn bị cho giờ dạy học văn theo hướng đối
thoại cần công phu và tự nhiên, khơng nên hình thức , cơng thức.
Các ý kiến của nhiều nhà phương pháp về câu hỏi trong dạy học văn và
tính chất đối thoại trong dạy học Ngữ Văn đã là những gợi ý quan trọng cho
người viết tìm đến một loại câu hỏi có nội hàm gần hơn với thực tiễn dạy học
Văn, đó là câu hỏi đối thoại.
1.2. Câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn
Trong cơng cuộc hiện đại hóa nhà trường hiện nay, việc dạy học tương
tác, hợp tác phát huy chủ thể HS, “Trả lại cho người HS những gì thuộc về
nó” là một nhu cầu bức bách, việc xây dựng một hệ thống câu hỏi đối thoại
trong các giờ Văn đã trở thành một vấn đề bức xúc cần phải giải quyết
1.2.1. Bản chất câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn
Trong dạy học văn, câu hỏi đối thoại phát huy tính tích cực sáng tạo trong
học tập của HS. Tuy nhiên khơng phải bất kì một câu hỏi nào cũng kích thích
tư duy của HS. Chỉ có câu hỏi có vấn đề được xuất hiện ở chủ thể nhận thức
một cách có quy luật là sự mở đầu hoạt động tư duy tích cực. Tình huống có

13



vấn đề được xuất hiện ở chủ thể nhận thức một cách có quy luật là sự mở đầu
hoạt động tư duy tích cực.
Ru bin xten cho rằng: “Tư duy con con người bắt đầu từ vấn đề hay một
câu hỏi, từ một sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc, từ một mâu thuẫn”
Lecnhe quan niệm: “Tình huống có vấn đề là một khó khăn được chủ thể
ý thức rõ ràng hay mơ hồ, mà muốn khắc phục thì phải tìm tịi những tri thức
mới, những phương thức hành động mới” . Những khó khăn trong nhận thức đó
chính là vấn đề học tập là những tình huống về lí thuyết hay thực tiễn có chứa
đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái đã biết với cái chưa biết và mâu thuẫn này
đòi hỏi được giải quyết. Giải quyết xong là người học có tri thức mới.
Như vậy, câu hỏi, bài tập là một công cụ lôgic, một công cụ về lí luận dạy
học để chúng ta mơ hình hóa các mâu thuẫn khách quan và mâu thuẫn chủ
quan, giúp người học nhận thức các đối tượng nghiên cứu. Vậy, có thể nói câu
hỏi đối thoại vừa là điểm xuất phát, vừa là phương tiện, vừa là cầu nối để nhận
thức sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Vì thế, nhiều tác giả cho
rằng câu hỏi đối thoại là sản phẩm của quá trình giao tiếp giúp con người
khám phá những điều bí ẩn của tự nhiên, xã hội.
Từ những đặc điểm về câu hỏi nói chung, câu hỏi đối thoại nói riêng, có
thể cho rằng bản chất câu hỏi đối thoại trong dạy học văn không phải là lý
thuyết chung mà là sản phẩm của quá trình đối thoại, trao đổi, tranh luận, bàn
bạc giữa thầy và trò trong quá trình tiếp nhận TPVC, giúp người học, người
dạy khám phá những điều bí ẩn về con người, cuộc đời, mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc đời mà nhà văn gửi gắm qua TPVC.
Với từng loại thể, từng thể tài câu hỏi đối thoại lại có những bản chất khác
nhau ( Câu hỏi đối thoại phải gắn với chất của loại trong thể từng TPVC)
1.2.2. Vai trò của câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn.
Trong dạy học Văn câu hỏi nói chung và câu hỏi đối thoại nói riêng có vai trị:
- Dùng câu hỏi đối thoại để mã hóa thơng tin trong SGK. Câu hỏi và cách trả
lời câu hỏi là nguồn tri thức mới cho HS.
14



- Câu hỏi đối thoại có tác dụng định hướng nhận thức tri thức mới, phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập môn Ngữ Văn của HS.
- Hệ thống câu hỏi đối thoại có vấn đề được đặt ra trong giờ Văn chứa đựng
các mâu thuẫn sẽ đặt HS vào tình huống có vấn đề. HS đóng vai trị là chủ thể
của q trình nhận thức, chủ động giành lấy kiến thức thông qua việc trả lời
các câu hỏi. HS chủ động đặt các câu hỏi về những vấn đề chưa nắm vững,
chưa biết trong quá trình học tập từ đó khắc phục lối truyền thụ một chiều.
- Câu hỏi đối thoại giúp HS lĩnh hội được kiến thức một cách cởi mở có hệ
thống, chủ động thể hiện quan điểm, cách cảm, cách nghĩ của mình về những
vấn đề mà TPVC đề cập.
- Câu hỏi đối thoại, giúp cá thể hóa việc học một cách tối ưu, tạo điều kiện cho
HS tự học và rèn luyện phương pháp học.
- HS được dạy cách lắng nghe và học hỏi người khác, biết cách làm việc tập
thể để phát huy sức mạnh tập thể kết hợp với làm việc độc lâp, biết chủ động
nêu lên những thắc mắc, trước những vấn đề biết chưa đầy đủ trong TPVC cần
tường tận và hiểu sâu sắc hơn, kể cả khi không biết hoặc đã biết tất cả về sự
việc, vấn đề con người, cuộc đời, để được bình đẳng tranh luận đi đến thống
nhất, tường tận những vấn đề được đặt ra trong TPVC.
- Dạy học bằng câu hỏi đối thoại còn rèn luyện cho HS kỹ năng diễn đạt ngơn
ngữ nói. HS thơng qua việc phát biểu tại lớp sẽ phát triển được kỹ năng diễn
đạt, lập luận lơgic, xử lí thơng tin một cách nhanh nhạy, khi đó thơng tin
khơng cịn là thơng tin chết nữa. Thơng tin được tích lũy dần dần tạo điều kiện
phát sinh các ý tưởng.
- Dạy học bằng câu hỏi đối thoại giúp GV đánh giá HS về mặt kiến thức, thái
độ, vì câu hỏi đối thoại là biện pháp phát hiện, tự phát hiện thông tin ngược về
kết quả nhận thức.
- Dạy học bằng câu hỏi đối thoại khắc phục được tình trạng ghi nhớ máy móc,
HS được tham gia với vai trò như những nhà khoa học phát hiện ra kiến thức.

Do đó giờ học khơng cịn trở nên nặng nề đối với HS.
15


- Dạy học bằng câu hỏi đối thoại tạo không khí gần gũi, rút ngắn khoảng cách
tiếp nhận, HS lĩnh hội tri thức nhanh và sâu hơn.
Như vậy, dạy học bằng câu hỏi đối thoại vừa giúp HS lĩnh hội được tri
thức một cách chủ động, vừa rèn luyện được cho các em thao tác tư duy độc
lập, sáng tạo, vừa rèn luyện phương pháp học tập. Câu hỏi đối thoại là phương
tiện tổ chức dạy học (ví dụ nêu vấn đề, dạy học khám phá…) thì đều rất cần
chuẩn bị một hệ thống câu hỏi đối thoại , gợi mở để giúp HS tự lực đi đến mục
tiêu của hoạt động.
1.2.3. Các loại câu hỏi đối thoại trong dạy học Ngữ Văn
Trong dạy học muốn xây dựng và lựa chọn câu hỏi đối thoại phù hợp với
nội dung dạy học, để có thể phát huy được tính tích cực học tập của HS thì GV
cũng phải nắm vững các loại câu hỏi.
* Phân loại câu hỏi dựa vào yêu cầu năng lực nhận thức
Câu hỏi có hai loại chính: Loại thứ nhất là câu hỏi đòi hỏi tái hiện các kiến
thức, sự kiện , nhớ và trình bày một cách có hệ thống, có chọn lọc; loại thứ hai
là câu hỏi địi hỏi sự thơng hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, vận dụng
kiến thức. Theo hướng dạy học phát huy tính tích cực trong học tập của HS thì
GVcần chú trọng loại câu hỏi thứ 2, nhưng khơng nên xem nhẹ loại câu hỏi
thứ nhất, vì khơng tích lũy kiến thức sự kiện đến một mức nhất định thì khó
mà tư duy sáng tạo. Mặt khác, GV phải cố gắng tìm tịi phát triển loại câu hỏi
có yêu cầu cao về nhận thức, hiện nay câu hỏi này quá ít ỏi trong các tiết học
văn ở nhà trường phổ thông.
Theo yêu cầu năng lực nhận thức, Benjamin (1956) đã đề xuất một thang 6
mức câu hỏi (6 loại câu hỏi) tương ứng với 6 mức chất lượng lĩnh hội kiến
thức [24]:
1. Biết: Câu hỏi yêu cầu HS nhắc lại một kiến thức đã Biết, HS trả lời câu hỏi

chỉ bằng sự tái hiện và lặp lại‟

16


2. Hiểu: Câu hỏi yêu cầu HS tổ chức, sắp xếp lại các kiến thức đã học và diễn
đạt điều đã biết theo ý mình, chứng tỏ đã thơng hiểu chứ không phải chỉ biết
và nhớ.
3. Áp dụng: Câu hỏi yêu cầu HS áp dụng kiến thức đã học vào một tình huống
mới khác với tình huống trong bài học.
4. Phân tích: Câu hỏi yêu cầu HS phân tích nguyên nhân hay kết quả của một
hiện tượng, tìm kiếm bằng chứng cho một luận điểm.
5. Tổng hợp: Câu hỏi yêu cầu HS vận dụng, phối hợp các kiến thức đã có để
giải đáp vấn đề khái quát hơn bằng suy nghĩ sáng tạo của bản thân.
6. Đánh giá: Câu hỏi yêu cầu HS nhận định, phán đoán về ý nghĩa của kiến
thức, giá trị của một tư tưởng, vai trò của một học thuyết…
Thực tế phổ biến là đa số GV đang sử dụng loại câu hỏi ở mức 1 và 2.
Muốn phát huy tính tích cực học tập của HS, cần phát triển loại câu hỏi ở các
mức từ 3 đến 6.
* Câu hỏi dựa vào đặc trưng của bộ môn Văn trong nhà trường phổ thông.
PGS.TS Nguyễn Viết Chữ đã đưa ra hệ thống câu hỏi cảm thụ để dạy học
TPVC ở nhà trường Việt Nam, gồm có 3 nhóm câu hỏi: Câu hỏi cảm xúc, câu
hỏi hình dung tưởng tượng, câu hỏi hiểu với tổng cộng 9 loại câu hỏi:
1. Hệ thống câu hỏi cảm xúc: câu hỏi tìm ra phản ứng trực giác của người đọc
bị tác động bởi TPVC:
1.1 Câu hỏi cảm xúc vật chất: câu hỏi thiên về cảm xúc trực giác của người
đọc như vui buồn, sợ hãi, căm ghét trước tác động của số phận nhân vật.
1.2 Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật: hướng về những rung động ban đầu của
người đọc bởi tác động của những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, ngữ
điệu nhạc tính trong thơ, cấu trúc độc đáo trong văn xi.

2. Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng: thiên về sự hình dung của người đọc.
Những câu hỏi giúp người đọc xác nhận sự hình dung của mình dưới tác động của
hình tượng văn học. Trong hệ thống này gồm 2 loại: tái hiện và tái tạo.

17


2.1. Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng tái hiện: đòi hỏi thầy và trò tự
xác định bức tranh nghệ thuật trong tâm hồn mình khi đọc tác phẩm hoặc khêu
gợi trí tưởng tượng trong và sau khi đọc.
2.2. Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng tái tạo: loại câu hỏi này đi vào những
bức tranh nghệ thuật bộ phận, sắc sảo tinh tế có tính chất phát hiện sáng tạo.
3. Hệ thống câu hỏi hiểu biết về nội dung và hình thức của tác phẩm
3.1. Hệ thống câu hỏi hiểu biết về nội dung TPVH
Có 3 mức độ trong hệ thống nhỏ:
- Kể lại được
- Phân tích lí giải
- Phát biểu quan điểm
3.2. Hệ thống câu hỏi hiểu biết về hình thức TPVH
Địi hỏi khám phá sâu hơn với câu hỏi chi tiết hình thức, câu hỏi về cấu trúc
hình thức tác phẩm.
* Câu hỏi đặt ra khi kiểm tra kết quả thực hiện mục tiêu bài học
- Câu hỏi để kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức đã học.
- Câu hỏi kiểm tra sự nắm vững bản chất của kiến thức nghĩa là địi hỏi giải
thích nội dung kiến thức đã lĩnh hội.
- Câu hỏi kiểm tra khả năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết nhiệm
vụ nhận thức mới.
- Câu hỏi kiểm tra sự nắm vững giá trị của kiến thức, nghĩa là xác định được
vai trò, ý nghĩa của kiến thức trong lí luận và trong thực tiễn.
- Câu hỏi kiểm tra thái độ, hành vi của người học sau khi kết thúc một chủ đề

nào đó.
* Câu hỏi để hình thành năng lực nhận thức
- Câu hỏi rèn luyện kĩ năng quan sát
- Câu hỏi rèn luyện kĩ năng phân tích
- Câu hỏi rèn luyện kĩ năng tổng hợp
- Câu hỏi rèn luyện kĩ năng so sánh
18


- Câu hỏi rèn luyện kĩ năng sử dụng con đường quy nạp
- Câu hỏi rèn luyện kĩ năng sử dụng con đường diễn dịch.
* Xây dựng câu hỏi dựa vào các khâu của quá trình dạy học
- Câu hỏi hình thành kiến thức mới
- Câu hỏi củng cố, hồn thiện kiến thức
- Câu hỏi kiểm tra, đánh giá.
* Phân loại câu hỏi dựa vào cách trả lời
- Câu hỏi tự luận
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan
* Phân loại câu hỏi dựa vào nội dung mà câu hỏi phản ánh
- Câu hỏi nêu các sự kiện
- Câu hỏi xác định các dấu hiệu bản chất
- Câu hỏi xác định mối quan hệ
- Câu hỏi xác định cơ chế
- Câu hỏi xác định phương pháp khoa học
- Câu hỏi xác định ý nghĩa lí luận hay thực tiễn của kiến thức.
* Phân loại câu hỏi dựa vào mức độ tích cực trong dạy học
- Câu hỏi tái hiện, trình bày lại kiến thức
- Câu hỏi tìm tịi bộ phận
- Câu hỏi phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học tập của HS.
Trong quá trình dạy học văn, người GV phải vận dụng linh hoạt các loại câu

hỏi để kích thích khả năng tư duy của HS.
Từ những kiến thức chung về các loại câu hỏi, chúng tơi có thể cho rằng có
hai loại câu hỏi đối thoại trong dạy học TPVC: Câu hỏi đối thoại dựa trên cấu
trúc TPVC; Câu hỏi đối thoại dựa trên nội dung TPVC. Ở đây, người viết chủ
yếu dựa trên nội dung để định hướng câu hỏi đối thoại.
Trong dạy học Ngữ Văn, theo chúng tơi có những nhóm câu hỏi đối thoại
sau:
1.2.3.1. Nhóm câu hỏi đối thoại nhận thức, cảm thụ, tiếp nhận.
19


1). Hệ thống câu hỏi cảm xúc
Đây là hệ thống câu hỏi tìm ra phản ứng tực giác của người đọc bị tác
động bởi nội dung và hình thức của TP ở mức độ ấn tượng ban đầu. Nó đi sâu
vào cảm xúc thẩm mỹ. Trả lời hệ thống câu hỏi này, người đọc xác định được
cảm xúc của mình khi đọc xong TP, thể hiện được ấn tượng ban đầu của mình
trước hình thức nghệ thuật hay nội dung trực tiếpc ó tính chất vật chất của TP.
V.G. Manantxan gọi loại câu hỏi này là: “Cảm xúc vật chất”. Để có được câu
hỏi thỏa mãn yêu cầu vừa sức, không bị “nhàm sáo”, luôn bám sát văn bản,
người dạy cũng như người học Văn không thể hời hợt với TP ngay từ phút
đầu.
a) Câu hỏi cảm xúc vật chất
Loại câu hỏi này thiên về những rung động vật chất của người đọc trước
sự tác động của số phận nhân vật trong văn xi, mâu thuẫn có tính xã hội
trong kịch, và tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ. Loại câu hỏi này tồn
tại ở nhiều dạng khác nhau nhưng người trả lời phải bộc lộ được trạng thái,
cảm xúc, vui, buồn, đau khổ, yêu , thích, căm ghét, sợ hãi… ở dạng trực giác.
Ví dụ: Sau khi đọc tác phẩm:
- Tâm trạng em thế nào?
- Em thương nhất nhân vật nào?

- Thái độ (nhất định không chịu bỏ gã chồng vũ phu) của người đàn bà vạn
chài ở tịa án có làm em ngạc nhiên khơng?
- Nhân vật “thằng Phác” gợi ở anh (chị) ấn tượng gì?, cảm giác gì?
Thơng qua câu hỏi này, thầy có thể phát hiện ngay sự mẫn cảm, trong cảm
thụ của trò. Các hệ thống câu hỏi không cố định trong thời gian tiết học mà hỏi
vào lúc nào thì có ít nhiều thay đổi bổ sung phụ thuộc vào những yêu cầu khác
của người thầy.
b) Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật

20


Loại câu hỏi hướng về những rung động ban đầu của người đọc bởi tác
động của những hình thức nghệ thuật độc đáo, đặc sắc trong tác phẩm như ngữ
điệu nhạc tính trong thơ, hoặc cấu trúc độc đáo trong văn xi.
Ví dụ:
- Sự lặp lại một số khổ thơ, dịng thơ trong bài gợi cho em ấn tượng gì?
- Em thấy buồn, lo lắng hay vui khi hình ảnh cái lò gạch ở cuối tác phẩm lại
xuất hiện?
2). Hệ thống câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng
Sự tưởng tượng càng phong phú và mãnh liệt thì cảm xúc càng phát triển.
Hệ thống câu hỏi này thiên về sự hình dung của người đọc. Những câu hỏi
giúp người đọc xác nhận sự hình dung của mình dưới tác động của hình tượng
văn học. Hệ thống này gồm hai loại: tái hiện và tái tạo.
a) Hệ thống câu hỏi hình dung, tưởng tượng tái hiện
Đòi hỏi thầy và trò tự xác định bức tranh nghệ thuật trong tâm hồn mình
khi đọc tác phẩm hoặc khơi gợi trí tưởng tượng trong và sau khi đọc TP. Cũng
như loại câu hỏi cảm xúc, loại câu hỏi này trong giảng văn trước đây hầu như
không dùng hoặc có dùng cũng rất ít.
Ví dụ:

- Trong suốt cuộc đời nhân vật Nhĩ (Bến quê), giai đoạn nào gợi cho anh (chị)
ấn tượng mạnh nhất? Hãy minh họa bằng lời?
b) Hệ thống câu hỏi hình dung, tưởng tượng tái tạo
Loại câu hỏi này đi vào những bức tranh nghệ thuật bộ phận, sắc sảo, tinh
tế, có tính chất phát hiện sáng tạo. Có thể gợi ý, định hướng trong những chi
tiết của cuộc đời nhân vật, những thời điểm mang nhiều thông tin và dụng ý
nghệ thuật. Trả lời được những câu hỏi đó, tả được những cảnh tượng thể hiện
sự rung động và sự mẫn cảm trong tiếp nhận của người đọc phản ánh ngay cái
yếu, cái mạnh của trị. Từ đó GV có thể điều chỉnh hoặc để cho HS tự nhận xét
về nhau, trên cơ sở đó cũng có thể bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học của
các em.
21


Ví dụ:
- Em hình dung như thế nào về cái chết của Lão Hạc? Hãy tả lại?
- Hãy tưởng tượng hình ảnh ba nhân vật: từ “ Đẩu gật đầu”…. đến hết đoạn
trích và lí giải diễn biến tâm trạng của từng nhân vật?
3). Hệ thống câu hỏi tìm hiểu nội dung và hình thức của tác phẩm
a) Hệ thống câu hiểu biết nội dung tác phẩm văn học nghệ thuật
* Kể lại được, mức độ này đòi hỏi phải nhớ được cốt truyện đối với tác phẩm
văn xuôi, đọc thuộc đối với thơ. Đây là bước đầu của việc hiểu nội dung.
Ví dụ:
- Sự kiện nào đáng ghi nhớ trong cuộc đời nhân vật? (ở đây có thể sử dụng
các phương pháp đọc diễn cảm, đọc thể hiện khi tiến hành tìm hiểu)
- Kể tóm tắt câu chuyện ở tịa án huyện?
- Có mấy sự kiện đáng nhớ trong chuyến đi thực tế về miền biển của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng?
* Phân tích, lí giải: ở câu hỏi này, người cảm thụ đã tìm ra những mối tương
quan của sự kiện, sự việc, những biến cố trong cuộc đời nhân vật của tác phẩm

văn xuôi hay kịch hoặc những biến đổi tâm trạng của nhân vật trữ tình trong
thơ. Người cảm thụ đi tới những đối chiếu, so sánh, quy nạp, phân tích được
các chi tiết sự kiện, ít nhiều đã có sự suy diễn đối chiếu, lí giải.
Ví dụ:
- Tại sao tác phẩm có tên như vậy? (Những chi tiết phi lí hay phi lơgic của
truyện về phương diện nội dung cũng có thể giải quyết trong câu hỏi này)
- Cái chết của nhân vật có làm cho anh (chị) ngạc nhiên không? Tại sao?
(hoặc đi sâu vào những mâu thuẫn tư tưởng, những khát vọng mà tác phẩm
nghệ thuật đã thể hiện , ở mức cao hơn nữa là thái độ quan điểm)
- Tại sao tác giả đặt tên cho tác phẩm là “ chiếc thuyền ngoài xa”?
* Phát biểu quan điểm. Câu hỏi này thường vận dụng đối với lớp HS lớn. Trả
lời được những câu hỏi này, người đọc thể hiện được khả năng cảm thụ thẩm
mĩ của mình:
22


×