Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 luân văn ths luật dân sự và tố tụng dân sự 60 38 01 03

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.76 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TÀI DƢƠNG

HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC HỦY HÔN
NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT
HƠN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TÀI DƢƠNG

HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC HỦY HÔN
NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT HƠN
NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014
Chun ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ

HÀ NỘI - 2017

2




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn
thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Tài Dƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẬU QUẢ
PHÁP LÝ CỦA VIỆC HỦY HÔN NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT
THEO LUẬT HƠN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014 ............................... 5
1.1.
Một số vấn đề lý luận chung về hậu quả pháp lý hủy kết hôn
trái pháp luật ....................................................................................... 5

1.1.1. Quan niệm về kết hôn trái pháp luật ..................................................... 5
1.1.2. Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật ………………………….
9
1.1.3 Khái niệm hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật... 10
1.2. Hệ quả của việc hủy hôn nhân trái pháp luật………………….

11

1.2.1. Hệ quả pháp lý………………………………………………….

12

1.2.2. Hệ quả về mặt xã hội………………………………………….

.13

1.3. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt Nam qua 11
các thời kỳ lịch sử

1.3.1. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hơn nhân trái
pháp luật của Việt Nam thời kì phong kiến ........................................ 13
1.3.2. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật của Việt Nam thời kì pháp thuộc ........................................ 15
1.3.3. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật của Việt Nam giai đoạn 1945 đến năm 1975 ...................... 17
1.3.4. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật của Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay .............................20
Chƣơng 2: NỘI DUNG HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC HỦY HÔN

2.1.


NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014 ........................................................................................ 25
Các trƣờng hợp hôn nhân trái pháp luật ....................................... 25


Hôn nhân trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn .......................... 25
Hôn nhân trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện .............................. 26
Kết hôn khi một hoặc cả hai bên bị mất năng lực hành vi dân sự ........... 30
Kết hơn giả tạo .................................................................................... 34
Người đang có vợ, có chồng mà kết hơn với người khác hoặc
người chưa có vợ, có chồng mà kết hơn với người đang có
chồng, có vợ ........................................................................................ 38
2.1.6. Kết hơn giữa những người cùng dịng máu về trực hệ, những
người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; cha
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng
của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng............................................... 41
2.1.7. Kết hôn giữa những người cùng giới tính ........................................... 46
2.2.
Hậu quả pháp lý của hơn nhân trái pháp luật ............................... 50
2.2.1. Hậu quả về mặt nhân thân................................................................... 50
2.2.2. Hậu quả về tài sản ............................................................................... 51
2.2.3. Hậu quả về quan hệ giữa cha mẹ và con............................................. 54
2.2.4. Hậu quả pháp lý về vấn đề cấp dưỡng………………………..
56
2.2.5. Hậu quả pháp lý đối với người thứ ba ngay tình……………….. 57
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.

2.1.4.
2.1.5.

2.3 Đƣờng lối xử lý cụ thể các trƣờng hợp kết hôn vi phạm các điều kiện
kết hôn theo luật định………………………………………………..

59

2.3.1. Đường lối xử lý một số trường hợp cụ thể……………………..

59

2.3.2 Các biện pháp xử lý khác……………………………………….
2.3.2.1 Xử lý hành chính……………………………………………………
2.3.2.1 Xử lý hình sự…………………………………………………

62
62
64

Chƣơng 3: NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HẬU QUẢ
PHÁP LÝ CỦA VIỆC HỦY HÔN NHÂN TRÁI PHÁP
LUẬT............................................................................................ …..69
3.1. Một số tồn tại , hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề hậu quả
pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật………...…

69



3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hậu quả pháp lý của
việc hủy hôn nhân trái pháp luật.......................................................

71

3.2.1. Một số giải pháp lập pháp…………………………………………

75

3.2.2. Một số giải pháp trong tổ chức thi hành, phổ biến và áp dụng pháp
luật…………………………………………………………………………….

75

KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nhân và gia đình là một hiện tượng xã hội. Hiện tượng này tồn tại
và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Thuở sơ khai, con
người kết hơn với nhau chỉ nhằm mục đích duy trì nịi giống. Nhưng trải qua
quá trình lịch sử lâu dài, con người gắn kết với nhau bởi quan hệ hôn nhân và
quan hệ hôn nhân đã dần được pháp luật bảo vệ. Trong những quy định của
pháp luật có những quy định cụ thể về điều kiện kết hôn, những trường hợp
cấm kết hơn, thủ tục và hình thức kết hơn.
Ngày nay, khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì đi kèm với đó là
hồn cảnh sống thay đổi, tâm lý con người thay đổi và các mối quan hệ giữa
con người với con người cũng thay đổi kéo theo đó dẫn tới những hành vi trái

pháp luật trong đó có hành vi kết hơn trái pháp luật. Việc hình thành quan hệ
hơn nhân trái pháp luật ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội, gây ra
những hậu quả xấu cho các thành viên trong gia đình, cho những người xung
quanh và để lại nhiều hệ lụy xấu cho xã hội. Trong khi đó, hệ thống pháp luật
nói chung và hệ thống pháp luật về hơn nhân và gia đình nói riêng vẫn cịn
nhiều bất cập, hạn chế; chưa thể dự liệu cũng như điều chỉnh một cách toàn
diện các trường hợp phát sinh cũng như hậu quả pháp lý mà hôn nhân trái
pháp luật gây ra. Vì thế, việc nghiên cứu về hơn nhân trái pháp luật và hậu
quả pháp lý của hôn nhân trái pháp luật trong tình hình hiện nay là điều hết
sức cần thiết. Việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ nhằm dự liệu thêm các
trường hợp phát sinh, mà quan trọng hơn đó là hồn thiện hơn nữa hệ thống
pháp luật nhằm khắc phục, giải quyết các trường hợp vi phạm quy định của
luật hơn nhân và gia đình. Như vậy pháp luật mới có hướng bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, đảm bảo xây dựng chế độ hơn nhân và gia đình

1


văn minh, tiến bộ,vì con người, bảo vệ quyền con người.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hậu quả pháp lý của việc
hủy hôn nhân trái pháp luật theo luật hơn nhân gia đình năm 2014. Từ đó đưa
ra những điểm bất cập hạn chế của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và đưa
ra một số ý kiến nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của luật hơn nhân
gia đình năm 2014
2.2.Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên cần đạt được một số mục tiêu
cụ thể như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn

nhân trái pháp luật theo Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện
hành về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật hơn
nhân gia đình năm 2014.
- Nêu ra những tồn tại, hạn chế, những bất cập của pháp luật hiện hành
những hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật hơn
nhân gia đình năm 2014.
- Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để sửa đổi, hoàn thiện những quy
định của pháp luật về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật
3. Tính mới và đóng góp của đề tài
Trong q khứ đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học của những
chuyên gia pháp lý, của các bạn học viên, sinh viên viết về vấn đề hậu quả
pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật. Tuy nhiên, tất cả những đề tài
khoa học đó chủ yếu dựa trên những quy định của Luật hôn nhân gia đình cũ.
Những đề tài khoa học đó chưa cập nhật được hết những vấn đề mới về lý

2


luận và thực tiễn cũng như chưa đưa ra được những bất cập cũng như phương
hướng hoàn thiện pháp luật về hơn nhân gia đình nói chung và những quy
định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật nói riêng đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn cuộc sống.
Luận văn được viết vào thời điểm sau khi Luật hơn nhân gia đình năm
2014 và Bộ luật dân sự năm 2015 ra đời và có hiệu lực nên luận văn có thể
đưa ra những điểm mới về lý luận và thực tiễn trong những quy định của pháp
luật về hậu quả pháp lý của việc hủy hơn nhân trái pháp luật, phân tích và chỉ
ra những điểm chưa hợp lý, những bất cập của pháp luật hiện hành về hậu
quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật, đồng thời đưa ra được một
số những kiến nghị mới, có tính cập nhật phù hợp với yêu cầu của thực tiễn

nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn
nhân trái pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật
Phạm vi nghiên cứu: những quy định của pháp luật hiện hành về hậu
quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật
5. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Các vấn đề lý luận và thực tiễn về hậu quả pháp
lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê v.v...
6. Kết cấu luận văn

3


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và kết cấu
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hậu quả pháp lý của việc
hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật hơn nhân gia đình năm 2014
Chương 2: Nội dung hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp
luật theo Luật hơn nhân gia đình năm 2014
Chương 3: Những tồn tại, hạn chế và một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật

4



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA VIỆC HỦY HÔN NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT
THEO LUẬT HƠN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hậu quả pháp lý của việc hủy
kết hôn trái pháp luật
1.1.1. Quan niệm về kết hôn trái pháp luật
Dưới giác độ xã hội học, quan hệ kết hơn và gia đình là một mối quan
hệ xã hội được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này tồn tại và
phát triển theo quy luật của tự nhiên nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của con người. Tuy nhiên, trải qua các thời kỳ lịch sử với những hình thái
kinh tế- xã hội khác nhau, pháp luật nói chung và pháp luật về kết hơn và gia
đình nói riêng đã ra đời nhằm điều chỉnh những quan hệ khách quan trong đó
có quan hệ kết hơn và gia đình. Lúc này, hơn nhân khơng cịn là một mối
quan hệ mang tính bản năng nhằm duy trì nịi giống mà quan hệ hơn nhân và
gia đình trở thành một mối quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của giai cấp
thống trị nhằm tuân theo ý chí, bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị.
Lúc này xã hội mới bắt đầu xuất hiện những quan niệm đầu tiên về kết hôn
hợp pháp và kết hôn trái pháp luật. Trải qua nhiều thời lỳ lịch sử khác nhau, ở
mỗi quan niệm về kết hơn trong đó có quan niệm về kết hơn trái pháp luật
cũng có những thay đổi khác nhau.
Trong xã hội phong kiến, pháp luật thể hiện ý chí của một bộ phận
rất nhỏ trong xã hội đó chính là những người thuộc tầng lớp quan lại, vua
chúa, địa chủ. Họ đề ra những quy định điều chỉnh quan hệ về kết hơn và
gia đình mà theo họ là hợp lý và những quy định đó trở thành những
nguyên tắc chung của toàn xã hội, được xã hội thừa nhận. Ở thời kỳ phong

5



kiến, kết hôn trái pháp luật được quan niệm là những cuộc két hôn không
tuân thủ một số điều kiện như không môn đăng hộ đối, không được sự chấp
thuận của cha mẹ, họ hàng...
Để lý giải cho những quan niệm của thời kỳ phong kiến, chúng ta có
thể giải thích quan niệm đó thơng qua chính nội tại của xã hội phong kiến. Xã
hội phong kiến là một xã hội mà ở nơi đó có sự chuyên quyền, gia trưởng, độc
đốn. Ở xã hội đó, kết hơn khơng phải là sự tự nguyện và quyết định của hai
bên nam nữ mà đó là mối quan hệ của hai gia đình, dịng họ, và đơi khi kết
hơn cịn được sử dụng như một cơng cụ chính trị nhằm đạt được một mục
đích nào đó nếu cuộc kết hơn đó thuộc tầng lớp vua chúa, quan lại, quý tộc. Ở
xã hội đó quan niệm về dân chủ và bình đẳng giới chưa hề xuất hiện. Vì thế ở
thời đó nam nữ hồn tồn chấp nhận việc kết hơn là việc của hai gia đình, hai
dịng họ và sự chấp thuận của gia đình và dịng họ vẫn là yếu tố quan trọng
nhất quyết định tới sự thành công của cuộc kết hơn. Nếu như có một đơi nam
nữ nào đó kết hôn với nhau mà không được sự đồng ý của gia đình, dịng họ
thì cuộc kết hơn đó sẽ khơng được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Bên cạnh đó, trong pháp luật phong kiến cịn có rất nhiều những quy
định hà khắc, cổ hủ, khơng cho con người có bất cứ quyền tự do dân chủ nào
đặc biệt là người phụ nữ trong gia đình, từ khi họ sinh ra và lớn lên hầu như
khơng có quyền địi hỏi những quyền lợi cho bản thân, tất cả những việc hệ
trọng trong cuộc đời của họ đều do gia đình, dòng họ sắp đặt, và họ cũng phải
chấp nhận cảnh đàn ơng “năm thê bảy thiếp”.Do đó trong rất nhiều việc đặc
biệt là việc kết hôn đại sự, họ mặc nhiên chấp nhận những điều đó, coi điều
đó là điều đương nhiên, là số mệnh sắp đặt và những điều đó cứ được truyền
qua nhiều thế kỷ làm cho những quy định này trở thành một điều gì đó ăn sâu
vào suy nghĩ, vào tiềm thức của mỗi con người tạo thành một hệ tư tưởng,
một quan niệm mà không dễ gì có thể thay đổi được và ở một góc độ nào đó

6



những quan niệm này cịn được người dân tơn trọng và tuân thủ hơn cả những
quy định của pháp luật về hơn nhân đương đại. Điều đó được thể hiện ở chỗ
mặc dù hiện nay là thế kỷ hai mươi mốt, quyền tự do dân chủ của con người
trong đó có quyền tự do về hơn nhân được Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn
trọng và được bảo đảm thực hiện, nhưng ở nhiều nơi vẫn có quan niệm hôn
nhân là phải môn đăng hộ đối và đặc biệt là phải được sự đồng ý của cha mẹ.
Việc hôn nhân là phải được sự đồng ý của cha mẹ không phải là căn cứ kết
hôn theo luật định nhưng theo truyền thống của người Việt thì việc đại sự
trong đời như việc kết hôn vẫn rất cần tới sự chấp thuận của cha mẹ.
Ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa, những điều kiện về kinh tế,
xã hội, con người cũng đã làm nảy sinh những quan niệm về hôn nhân và
cũng được pháp luật ghi nhận. Về vấn đề kết hơn thì các nước tư bản có
những quan niệm khác Việt Nam chúng ta. Vì vậy những quy định về hôn
nhân hợp pháp và hôn nhân trái pháp luật cũng khác chúng ta. Đặc biệt do
điều kiện về kinh tế, khí hậu, sinh học, mơi trường, văn hóa..... khác chúng ta
nên khiến con người có sự phát triển nhanh hơn, sự trưởng thành về thể lực,
trí lực khác với người Châu Á nên độ tuổi kết hôn cũng phải được điều chỉnh
sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn tại các quốc gia đó. Bên cạnh đó, hiện
nay ở nhiều nước Tư bản chủ nghĩa cịn thừa nhận hơn nhân đồng giới là hơn
nhân hợp pháp được Nhà nước và xã hội chấp nhận, tôn trọng và ủng hộ.
Như vậy, có thể thấy rằng quan niệm về hôn nhân chịu sự tác động của
rất nhiều yếu tố khác nhau trong xã hội như kinh tế, văn hóa, sinh học, mơi
trường sống... nhưng yếu tố quan trọng nhất và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ
nhất tới vấn đề hơn nhân đó chính là luật pháp. Pháp luật về hơn nhân và gia
đình là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, trong đó sự tự nguyện của
các bên tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình là điều kiện tiên quyết đảm
bảo sự thừa nhận và tôn trọng của Nhà nước và xã hội. Pháp luật ở mỗi hình


7


thái kinh tế - xã hội, ở mỗi quốc gia có những quan điểm, những quy định
khác nhau về hơn nhân cũng như hôn nhân trái pháp luật, nhưng tựu chung lại
thì pháp luật ở mỗi quốc gia đều tạo ra một khuôn khổ pháp lý nhất định,
trong khuôn khổ pháp lý đó thì mọi cuộc hơn nhân trên tinh thần tự nguyện
đều được Nhà nước và xã hội tôn trọng và thừa nhận. Tuy nhiên nếu như có
một hành vi nào đó vượt khỏi khn khổ pháp lý hoặc là vi phạm vào những
điều cấm thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ có biện pháp can thiệp
nhằm điều chỉnh những hành vi đó tuân theo những quy định mà khuôn khổ
pháp lý đề ra. Trải qua các thời kỳ khác nhau thì những quan niệm của con
người về hơn nhân và gia đình cũng có nhiều sự thay đổi khác nhau, vì vậy
những quy định của pháp luật cũng sẽ phải được điều chỉnh cho phù hợp với
tình hình thực tiễn. Hiện nay, với những tiến bộ về khoa học công nghệ,
những thay đổi về môi trường sống, xã hội ngày càng phát triển hơn, văn
minh hơn nên xu hướng làm luật nói chung và làm luật về hơn nhân và gia
đình nói riêng cũng ngày càng thay đổi theo hướng tôn trọng các quyền tự do
của con người, đặc biệt là tự do hôn nhân, các trường hợp kết hôn trên cơ sở
tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ hôn nhân đều được
Nhà nước và xã hội đề cao và ủng hộ. Như vậy có thể nói rằng, pháp luật nói
chung và pháp luật về hơn nhân và gia đình nói riêng ngồi việc tạo ra khn
khổ pháp lý cho quan hệ hơn nhân và gia đình thì pháp luật cũng rất linh hoạt
nhằm vừa tôn trọng và đảm bảo quyền và lợi ích của các bên, bảo đảm trật tự
cơng cộng, vừa phù hợp với tâm tư, tình cảm của con người. Không những
thế, quan hệ hôn nhân và gia đình cịn mang trong mình những đặc điểm
mang tính đặc thù mà những quan hệ dân sự khác cũng khơng có được. Đó
chính là trong quan hệ hơn nhân và gia đình thì mọi sự thỏa thuận, mọi sự
bình đẳng đều được gắn liền với yếu tố tình cảm, gắn với trách nhiệm của vợ,
chồng đối với nhau, của vợ, chồng đối với con cái. Đây là mối quan hệ gốc


8


làm phát sinh các quan hệ về nuôi dưỡng, quan hệ ruột thịt..... Đối với người
Phương đơng nói chung và người Việt Nam nói riêng, tình cảm gia đình ln
là một thứ tình cảm vơ cùng thiêng liêng, vơ cùng cao q, nếu luật pháp về
hơn nhân và gia đình chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc mà bỏ qua
những yếu tố về tình cảm thì những quy định đó sẽ đương nhiên bộc lộ ra
những điểm bất cập, hạn chế và có tính khả thi khơng cao.
Ở Việt Nam chúng ta là một nước Phương đông với hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa, quy định về hôn nhân trái pháp luật là những trường hợp mà
cuộc hơn nhân đó vi phạm những điều kiện về kết hơn. Những điều kiện đó
được Nhà nước quy định dựa trên những quan niệm trong đời sống xã hội phù
hợp với đại đa số quần chúng nhân dân và phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Theo đó, kết hơn trái pháp luật theo quan niệm của Việt Nam chính là việc
xác lập quan hệ vợ chồng mà vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật quy
định, cụ thể như sau: vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn; vi phạm điều kiện
về yếu tố tự nguyện trong hôn nhân; vi phạm vào các trường hợp cấm kết
hôn; vi phạm những điều kiện về đăng ký kết hơn theo quy định của pháp
luật. Quan niệm đó được hình thành dựa trên chính đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội, sự phát triển dinh học của con người Việt Nam.....
1.1.2 Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật
Nhằm đảm bảo các nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình cũng như
duy trì và phát triển chế độ hơn nha tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc và bền
vững, việc đặt ra những chế tài để áp dụng trong những trường hợp có những
hành vi vi phạm các quy định về quan hệ hôn nhân là hết sức cần thiết. Và
một trong những chế tài đối với hành vi kết hơn trái pháp luật đó là hủy kết
hơn trái pháp luật. Việc quy định chế tài hủy kết hôn trái pháp luật nhằm đảm
bảo trật tự xã hội, bảo vệ chế độ hơn nhân gia đình. Tuy nhiên, trong các văn

bản pháp luật trước đây mà cụ thể là Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 và

9


năm 2000 chưa có quy định cụ thể thế nào là hủy kết hôn trái pháp luật.
Mặc dù pháp luật pháp luật khơng có định nghĩa thế nào là hủy kết hôn
trái pháp luật. Tuy nhiên, theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì
“hủy” có nghĩa là “phá bỏ, làm cho khơng cịn tồn tại hoặc khơng có giá trị”.
Từ đó, tơi xin đưa ra định nghĩa về hủy kết hôn trái pháp luật như sau: “Hủy
việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết
hôn vi phạm điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh Luật
hôn nhân và gia đình”
Việc hủy kết hơn trái pháp luật có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, hủy việc kết hôn trái pháp luật là thể hiện thái độ của Nhà
nước đối với hành vi kết hôn trái pháp luật, vi phạm pháp luật về hơn nhân và
gia đình
- Thứ hai, hủy việc kết hôn trái pháp luật là chế tài đối với cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật
- Thứ ba, hủy việc kết hôn trái pháp luật là chế tài mang tính chất linh
hoạt, mềm dẻo. Bởi vì khơng phải mọi hành vi kết hơn trái pháp luật đều bị
Tòa án ra quyết định hủy.
1.1.3 Khái niệm hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
Trong cuộc sống hang ngày, chúng ta thường được nghe thấy hai từ
“hậu quả”. Vậy khái niệm hậu quả được hiểu như thế nào? Về khái niệm này
có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có hai quan điểm chính. Quan điểm
thứ nhất cho rằng hậu quả là cái gì đó khơng hay, khơng tốt và được hiểu theo
nghĩa tiêu cực. Đây được cho là quan điểm theo nghĩa hẹp. Còn quan điểm
thứ hai hiểu theo nghĩa rộng cho rằng, hậu quả là bao gồm cả điểm tích cực và
điểm tiêu cực. Theo đó, hậu quả là kết quả phát sinh từ một hành vi hay một

sự kiện nào đó mà thơi; hiểu theo nghĩa này thì có thể thấy hậu quả được hiểu
không khác so với khái niệm hệ quả. Qua phân tích khái niệm ở trên, tôi đồng

10


ý với quan điểm hậu quả được hiểu theo nghĩa rộng.
Theo đó, hậu quả pháp lý được hiểu là những vấn đề pháp lý phát sinh
từ một sự kiện hoặc một hành vi nào đó và được pháp luật cơng nhận. Khi
xem xét hậu quả pháp lý cần xem xét việc phát sinh các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể được phát sinh, thay đổi, chấm dứt như thế nào.
Từ những phân tích ở trên, tác giả đưa ra định nghĩa hậu quả pháp lý
của việc hủy kết hôn trái pháp luật như sau:
“Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật là tổng hợp những vấn
đề pháp lý phát sinh giữa các chủ thể khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy”.
1.2. Hệ quả của việc huỷ hôn nhân trái pháp luật
1.2.1. Hệ quả pháp lý
Kết hôn trái pháp luật là hành vi vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia
đình. Và vì là hành vi vi phạm pháp luật nên đương nhiên sẽ phải chịu những
hệ quả pháp lý. Mỗi công dân đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc và được pháp luật bảo vệ, vậy mà hành vi thiết lập nên những
cuộc hôn nhân trái pháp luật lại xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới quyền
mưu cầu hạnh phúc của công dân. Khi đã là cuộc hơn nhân trái pháp luật thì
đương nhiên khơng được pháp luật công nhận và bảo vệ. Mối quan hệ của họ
không được coi là quan hệ vợ chồng, khi việc kết hơn bị hủy thì ai đi đường
nấy, tài sản cũng không chia như trong trường hợp hôn nhân hợp pháp mà tài
sản của ai thuộc về người đó, khơng có khái niệm tài sản hình thành trong
thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Điều này gây ra những thiệt
thịi cho cơng dân đặc biệt là người phụ nữ bởi người phụ nữ trong gia đình
Việt Nam thường yếu thế hơn, khơng phải là trụ cột về mặt kinh tế mà chủ

yếu lo phần nội trợ và chăm sóc chồng con. Bên cạnh đó, cuộc hơn nhân trái
pháp luật cịn ảnh hưởng tới con cái họ, tới những người thân xung quanh họ.
Đặc biệt là những đứa trẻ có quyền được hưởng sự thương yêu, chăm sóc của
cả cha và mẹ vậy mà cuộc hơn nhân trái pháp luật vơ hình chung đã đẩy

11


những đứa trẻ vào hồn cảnh khơng được hưởng sự thương yêu, chăm sóc
một cách đầy đủ và trọn vẹn, ảnh hưởng tới tâm sinh lý, tới tương lai của
chúng, ảnh hưởng tới thế hệ tương lai của đất nước. Đối với trường hợp kết
hôn khi chưa đủ độ tuổi kết hôn mà vẫn tiến hành những cuộc hôn nhân
không chỉ xâm hại tới quyền tự do, tự nguyện trong hơn nhân mà cịn vi phạm
những quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em, thậm chí phạm một số tội
trong Bộ luật hình sự. Hơn nhân đồng giới cũng không được Nhà nước thừa
nhận. Hôn nhân trái pháp luật không chỉ gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích
chính đáng của cơng dân mà cịn gây ra những khó khăn khơng nhỏ cho các
cơ quan Nhà nước. Những cuộc hôn nhân trái pháp luật sẽ khiến các cơ quan
Nhà nước khó nắm bắt và quản lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, hộ
khẩu, khai sinh hoặc giải quyết những tranh chấp dân sự khác.
1.2.2. Hệ quả về mặt xã hội
Trước hết phải khẳng định rằng quan hệ hôn nhân vốn dĩ đã là một
quan hệ xã hội. Bởi thế những cuộc hôn nhân trái pháp luật không chỉ gây ra
những hệ quả về mặt pháp lý mà còn gây ra những hệ quả cho xã hội. Một gia
đình được hình thành và tồn tại để thực hiện tốt những chức năng của nó phải
được xây dựng trên cơ sở tình yêu của hai bên nam nữ, sự thương yêu, gắn
kết và tự nguyện chung sống, thực hiện tốt bổn phận của mình, phải được
thiết lập giữa những chủ thể khác giới có đầy đủ những tiêu chuẩn về thể lực,
sinh lý, tâm lý. Nếu một cuộc hơn nhân mà thiếu đi những yếu tố đó thì sẽ
khơng thể xây dựng được một gia đình hạnh phúc. Đó là những thành tố

khơng tốt gây ảnh hưởng đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội, góp phần
tạo dựng nên một xã hội không ổn định. Bên cạnh đó, khi một cuộc hơn nhân
trái pháp luật bị tan vỡ sẽ gây ra một số những ảnh hưởng không nhỏ cho cá
nhân như: tổ chức lại mối quan hệ với các cá nhân, tìm kiếm tình yêu và thiết
lập quan hệ tình dục mới; khơi phục lại lịng tự trọng để vượt qua ý thức về sự
lỗi lầm và đau đớn; thay đổi mối quan hệ với những người quen mà trước hết

12


là những người thân của cả hai vợ chồng, nảy sinh những sự phức tạp về kinh
tế. Thêm vào đó, những hành vi kết hôn trái pháp luật như chung sống như vợ
chồng, kết hơn với người đang có vợ, có chồng cịn tác động tiêu cực đến các
mối quan hệ khác trong xã hội, gia đình tan vỡ, con cái bơ vơ không nơi
nương tựa là nguyên nhân dẫn tới tình trạng tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng,
đặc biệt là tình trạng trẻ hóa tội phạm đang ngày một gia tăng. Hơn thế nữa,
việc tạo lập nên những cuộc hôn nhân trái pháp luật đều vi phạm những quy
định được xây dựng dựa trên truyền thống văn hóa dân tộc và sự tiếp thu
những tinh hoa của nhân loại. Khi xâm hại những quy định này vô hình chung
sẽ góp phần tác động tiêu cực tới lối sống, đến đạo đức, đến truyền thống văn
hóa của dân tộc. Đó sẽ là những sự cản trở cho sự phát triển của xã hội, cho
một quốc gia, một dân tộc.
1.3. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật của Việt Nam qua các thời kì lịch sử
1.3.1. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật của Việt Nam thời kì phong kiến
Ở thời kỳ phong kiến, tư tưởng Nho giáo đóng một vai trị chủ đạo chi
phối hầu hết các mối quan hệ cơ bản trong xã hội trong đó có quan hệ hơn
nhân và gia đình. Bởi vậy, hệ thống pháp luật trong thời kỳ phong kiến cũng
chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi tư tưởng Nho giáo nhằm củng cố địa vị, vị trí

của người gia trưởng. Nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình như
vấn đề kết hơn, quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái....
đã được nhiều văn bản quy phạm pháp luật dưới thời phong kiến quy định,
trong đó khơng thể khơng nhắc tới hai bộ luật tiêu biểu là Bộ Quốc triều hình
luật (Luật Hồng Đức) được ban hành dưới triều Lê và Hoàng Việt Luật Lệ
(Bộ luật Gia Long) được ban hành dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên các văn bản
luật thời kỳ này ít quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật.

13


Bộ Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) là bộ luật hình chính thống
và quan trọng nhất của triều đại Nhà Lê (1428-1788); là một thành tựu có giá
trị đặc biệt trong trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Trong đó riêng về lĩnh vực
hơn nhân và gia đình có 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân gia
đình và những tội phạm khác trong lĩnh vực này.
Chương hộ hơn của Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) quy định
chế độ hơn nhân và gia đình có 58 điều. Trong đó có nhiều điều luật tiến bộ,
cụ thể là: Cấm kết hơn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng. (Điều 317
Bộ luật Hồng Đức); Cấm kết hơn giữa những người thân thích. (Điều 319
Luật Hồng Đức); Cấm quan lại không được lấy con hát làm vợ. (Điều 323)
Cấm học trò lấy vợ của thầy học đã chết, anh, em lấy vợ của em, anh đã chết.
(Điều 324). Cấm quan lại ở biên trấn kết thơng gia với tù trưởng vùng đó.
(Điều 33). Cấm quan ty lấy con gái trong hạt mình. (Điều 316).
Đó là những quy định về những trường hợp bị cấm kết hơn, nếu vi
phạm những quy định đó thì Bộ luật Hồng Đức cũng có những quy định để
xử lý như Điều 316 Luật Hồng Đức đã quy định: đối với những trường hợp
khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng vào các điều cấm của luật tức là
đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật khơng cơng nhận tính

hợp pháp của hơn nhân đó và cần phải tiêu huỷ hôn nhân. Tại Điều 317 và
Điều 323 Luật Hồng Đức có quy định các bên sẽ phải chia lìa hoặc phải ly dị
khi vi phạm vào các điều kiện quan trọng của việc xác lập hơn nhân.
Hồng Việt Luật Lệ (Luật Gia Long) là bộ luật chính thức của Việt
Nam thời đầu nhà Nguyễn do Bắc thành Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn
thảo và vua Gia Long cho ban hành năm 1815. Tương tự như Bộ luật Hồng
Đức, Bộ luật Gia Long quy định việc kết hơn phải có sự đồng ý của cha mẹ
hai bên hoặc những người họ hàng thân thích nếu cha mẹ khơng cịn (điều
94); cấm kết hơn giữa những người có họ hàng thân thích (điều 100, 101,

14


102); cấm kết hơn khi có tang cha mẹ hoặc tang chồng (điều 98); cấm kết hôn
khi cha mẹ đang ở tù (điều 99).
Như vậy, vấn đề hủy hôn nhân trái pháp luật thời kỳ phong kiến mà
tiêu biểu là trong hai Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long có rất ít những
quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật, những quy
định đó rời rạc, thiếu tính hệ thống, khơng nêu rõ ràng hậu quả pháp lý và
phương pháp giải quyết các trường hợp tiêu hôn. Những quy định về hậu quả
pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật vẫn dừng lại ở mức liệt kê những
hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, hành vi bị cấm kết hơn cịn về hậu quả
pháp lý thì chưa rõ ràng.
1.3.2. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hơn nhân trái
pháp luật của Việt Nam thời kì pháp thuộc
Từ năm 1858 tới năm 1945, Việt nam chúng ta chịu sự đô hộ của Thực
dân Pháp. Sau khi xâm lược nước ta, Pháp đã sử dụng chính sách “chia để
trị” nên đã chia đất nước ta thành ba miền: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.
Cùng với việc phân về mặt hành chính thì chúng cũng lần lượt ban hàng
những văn bản pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong đó có

mối quan hệ hơn nhân và gia đình dựa trên Bộ luật Dân sự Napoleon năm
1804 bao gồm: Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 áp dụng tại miền Bắc; Bộ dân
luật Trung Kỳ năm 1936 áp dụng tại miền Trung; Tập Dân luật giản yếu Nam
Kỳ năm 1883 áp dụng tại miền Nam.
Trong thời kỳ nửa thực dân nửa phong kiến, pháp luật của nước ta vừa
chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, vừa chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng
của Phương tây mà điển hình là tư tưởng của Pháp nên hôn nhân trái pháp
luật được hiểu là các trường hợp khi kết hôn các bên đã vi phạm vào điều cấm
kết hôn hoặc vi phạm một số các điều kiện khác của hôn nhân hợp pháp. Tuy
ba bộ dân luật thời kì này có những quy định về điều kiện kết hôn khác nhau,

15


song đều tập trung vào một số các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của
những người kết hơn, lợi ích của con cái, của gia đình và của cả xã hội. Nếu
việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn, các trường hợp bị cấm kết hơn thì
hơn nhân đó bị coi là trái pháp luật và có thể sẽ bị tun vơ hiệu. Chúng ta có
thể thấy điều đó ở trong một số những quy định sau:
Thứ nhất, hôn nhân phải dựa trên cơ sở của sự tự nguyện, đồng thời
phải được sự đồng ý của cha mẹ. Điều 77, Bộ Dân luật Bắc kỳ quy
định“phàm khơng khi nào khơng có sự bằng lịng của cha mẹ mà kết hơn
được”. Nếu mẹ khơng bằng lịng thì chỉ cần sự đồng ý của người cha, nếu
cha mẹ đã chết hoặc khơng bày tỏ ý chí được thì phải được sự bằng lịng
của ơng bà, nếu bà khơng bằng lịng thì chỉ cần ơng bằng lịng là được. Nếu
khơng có ơng bà, cha mẹ hoặc có nhưng khơng bày tỏ ý chí được thì người
dưới 21 tuổi, dù con trai hay con gái phải có người giám hộ bằng lịng mới
được kết hơn.
Thứ hai, về một số quy định cấm kết hơn thì Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ
dân luật Trung kỳ quy định cấm kết hơn khi một trong hai bên đang có tang

cha hoặc tang mẹ, và thời kỳ chịu tang được tính là 27 tháng, nếu cưới chạy
tang thì việc kết hơn vẫn có giá trị pháp lý. Nếu vợ chết trước thì chồng chỉ
được lấy vợ khác khi đã hết tang vợ chính và thời hạn đó được tính là 1 năm,
vợ phải chịu tang chồng 27 tháng mới được tái giá, phụ nữ đã li dị chồng thì
sau 10 tháng mới được cải giá tính từ thời điểm li dị chồng. Bên cạnh đó ở
điều 81 Bộ Dân luật Bắc kỳ và điều 79 Bộ Hồng Việt Trung kỳ cịn quy định
cấm lấy vợ thứ nếu chưa lấy vợ chính. Thêm vào đó, Bộ Hồng Việt Trung kỳ
hộ luật, điều 74 cịn quy định cấm kết hơn giữa chồng với con gái riêng của
vợ hoặc vợ góa với con trai riêng của chồng.
Ngồi ra, hơn nhân cịn được coi là vơ hiệu khi phạm vào một trong các
trường hợp kết hôn không khai với hộ lại (Điều 82 Dân luật Bắc kỳ). Hoặc

16


trong trường hợp người đàn bà trước đã có giá thú làm chính thất hoặc thứ
thất mà chưa tiêu hơn (Điều 84 Bộ Dân luật Bắc kỳ).
Về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật, sau khi Tịa
án ra quyết định tiêu hơn thì tài sản của vợ chồng được chia như khi vợ
chồng ly hôn. Tức là nếu khi tiêu hôn mà hai bên vợ chồng có con chung thì
tài sản được chia theo quy định của hơn ước. Nếu khơng có hơn ước thì thực
hiện bằng cách giao trả cho vợ bằng hiện vật tương đương với kỷ phần của
người vợ. Nếu tài sản riêng của người vợ đã bị bán đi được sử dụng chi dùng
cho gia đình hoặc cho riêng người chồng thì người vợ khơng có quyền địi
lại. Đối với quan hệ giữa cha mẹ và con cái thì con sinh ra trong thời kỳ hơn
nhân đó vẫn là con chính thức, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con
được áp dụng tương tự như khi cha mẹ ly hôn. Và việc tiêu hôn này phải
được hộ lại ghi vào sổ giấy tờ và hộ tịch (điều 89 và 90 Bộ dân luật Bắc kỳ
và Hoàng Triều Trung kỳ hộ luật).
Như vậy, pháp luật trong thời kỳ này có nhiều điểm tương đồng với

pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện đại, thể hiện sự tiến bộ một cách rõ
ràng trong việc quy định về vấn đề hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân
trái pháp luật so với hệ thống pháp luật thời kỳ phong kiến. Bộ dân luật Bắc
kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật đã quy định khá rõ ràng và có tính hệ
thống về hơn nhân và gia đình nói chung cũng như vấn đề hủy hơn nhân trái
pháp luật nói riêng. Vấn đề hủy hôn nhân trái pháp luật được nêu khá rõ
ràng trong đó có các trường hợp cấm kết hơn, có các điều kiện kết hơn, có
cơ quan thẩm quyền có thẩm quyền giải quyết, hậu quả pháp lý của hủy hôn
nhân trái pháp luật đã được quy định khá cụ thể.
1.3.3. Những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái
pháp luật của Việt Nam giai đoạn 1945 đến năm 1975
Năm 1945 Việt Nam chúng ta tiến hành cách mạng tháng tám thành

17


cơng, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời mở ra một trang mới trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên thì từ năm 1945 đến
1954 chúng ta vẫn phải tiến hành kháng chiến chống Pháp và từ năm 1954 tới
1975 thì tiến hành kháng chiến chống Mỹ. Trong thời kỳ này nước ta vừa
kháng chiến vừa kiến quốc và các văn bản quy phạm pháp luật từ đó cũng
được hình thành, đặc biệt là Hiến pháp năm 1946. Bên cạnh đó cịn nhiều văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh những mối quan hệ xã hội khác nhau
trong đó có các văn bản điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình.
Ở miền Bắc, Nhà nước đã ban hành Hiến pháp năm 1946- bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. Bản Hiến pháp là văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất đã ghi nhận những quyền cơ bản của con người
như quyền tự do dân chủ, bình đẳng nam nữ, ghi nhận những nguyên tắc về
hơn nhân tiến bộ, dần xóa bỏ những quan điểm, tư tưởng hôn nhân thời kỳ
phong kiến lạc hậu. Đi cùng với sự ra đời của bản Hiến pháp là sự ra đời của

Sắc lệnh số 90- SL cho phép áp dụng những quy định trong pháp luật cũ một
cách có chọn lọc sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tới năm 1950, Nhà
nước ta ban hành Sắc lệnh số 97- SL ngày 22/05/1950 đã sửa đổi một số quy
định của dân luật theo hướng tiến bộ hơn. Trong đó yếu tố tự nguyện trong
hơn nhân được tơn trọng và ghi nhận một cách mạnh mẽ hơn; hai bên nam nữ
đã thành niên khơng bắt buộc phải có sự đồng ý của cha mẹ mới được tiến
hành kết hơn. Cùng với đó, Sắc lệnh số 97 cũng xóa bỏ một số những quy
định lạc hậu của thời kỳ trước như xóa bỏ việc cấm kết hơn trong thời kỳ tang
chế hay cấm kết hơn khi chưa có sự đồng ý của gia đình. Sắc lệnh số 97 đã có
những tiến bộ rõ rệt, đặc biệt quan niệm về hơn nhân trái pháp luật cũng có
những chuyển biến nhất định. Tuy nhiên bên cạnh đó thì Sắc lệnh số 97 cũng
có những điểm bất cập, hạn chế như khơng quy định về độ tuổi kết hôn, quy

18


định còn sơ xài, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Bởi vậy, Luật hơn
nhân và gia đình năm 1959 đã ra đời nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu
của thực tiễn cuộc sống. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 là Luật hơn
nhân gia đình đầu tiên của nước ta,văn bản này gồm 6 chương, 35 điều. Có
thể nói rằng, so với những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
hôn nhân và gia đình thời kỳ trước thì Luật hơn nhân và gia đình năm 1959 đã
có những bước tiến bộ rõ rệt. Đầu tiên phải kể đến là việc tập trung những
quy định lại thành chế định cụ thể. Thứ hai là việc xóa bỏ những quy định cịn
lạc hậu như cấm phụ nữ góa chồng tái giá trong một khoảng thời gian nhất
định, cấm kết hôn trong thời gian để tang..... Thứ ba, Luật hơn nhân và gia
đình năm 1959 cũng quy định rõ hình thức kết hơn. Từ những điểm tiến bộ đó
có thể khẳng định rằng Luật hơn nhân và gia đình năm 1959 đã đáp ứng được
một cách cơ bản yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, giải phóng con người đặc
biệt là người phụ nữ, thực hiện hơn nhân tự nguyện, xóa bỏ những quan niệm

về hơn nhân và gia đình cổ hủ, lạc hậu của thời kỳ phong kiến, xây dựng hôn
nhân tiến bộ một vợ một chồng.
Ở miền Nam, bị đế quốc Mỹ xâm lược và chịu sự quản lý của chế độ
Ngụy quyền Sài Gịn nên quan hệ hơn nhân và gia đình cũng được sự điều
chỉnh của một số văn bản quy phạm pháp luật như Luật Gia đình ngày
02/01/1959; Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 của chính quyền Ngụy quyền Sài
Gịn, Sắc luật 15/64. Trong đó vấn đề hơn nhân trái pháp luật cũng được ghi
nhận thông qua những quy định về độ tuổi kết hơn con gái trịn 16 tuổi, con
trai trịn 18 tuổi có đủ sức khỏe thì được phép kết hôn (điều 10, Sắc luật
15/64; điều 104, Bộ dân luật năm 1972). Bên cạnh đó thì cuộc hơn nhân chỉ
được coi là có giá trị pháp lý khi có sự tự nguyện của hai bên nam nữ và gia
đình (điều 9, Luật Gia đình; điều 1, Sắc lệnh 15/64; điều 105 Bộ Dân luật
năm 1972). Thêm vào đó, pháp luật của chính quyền Sài Gịn cũng có quy
19


×