Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 152 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM GIA CHƯƠNG

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC
NGOÀI VỀ NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VÌ
MỤC ĐÍCH HỒ BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM GIA CHƯƠNG

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
NƯỚC NGOÀI VỀ NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ
VÌ MỤC ĐÍCH HỊA BÌNH

Chun ngành : Luật Quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÁ DIẾN



Hà Nội - 2010


mục lục
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
mở đầu

6

Ch-ơng 1: TNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ
PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI VỀ NĂNG LƢỢNG
NGUN TỬ VÌ MỤC ĐÍCH HỒ BÌNH

9

1.1.
1.1.1

Khái niệm năng lượng nguyên tử
Định nghĩa

9
9

1.1.2.
1.1.3.


Lược sử phát triển năng lượng nguyên tử trên thế giới
Vai trò năng lượng nguyên tử trên thế giới

11
12

1.1.3.1.
1.1.3.2.

Khu vực Tây Âu
Khu vực Đông Âu và Liên xô cũ

13
14

1.1.3.3.
1.1.3.4.
1.1.3.5.

Khu vực Bắc Mỹ
Khu vực Châu á
Khu vực Đông Nam Á

15
16
19

Lịch sử phát triển năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Vai trò năng lượng nguyên tử ở Việt Nam

Hợp tác quốc tế
Cơ sở pháp lý trong hoạt động sử dụng năng lượng ngun tử vì
mục đích hồ bình
1.2.1.
Q trình hình thành pháp luật quốc tế về năng lượng nguyên tử
1.2.1.1.
Pháp luật quốc tế về năng lượng nguyên tử
1.2.1.1.1. Các nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp quốc về năng lượng
nguyên tử
1.2.1.1.2. Các điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử
1.1.4.
1.1.5.
1.1.6.
1.2.

1.2.1.2.
1.2.1.2.1.
1.2.1.2.2.
1.2.1.2.3.

Pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử
Hoa Kỳ
Pháp
Nhật Bản

1

22
24
27

27
27
29
29
31
37
37
37
38


1.2.1.2.4.

Hàn Quốc

41

1.2.1.2.5.

Trung Quốc

42

1.2.1.2.6.

Nga

44

1.2.1.2.7.

1.2.1.2.8.

Australia
Indonesia
Ch-¬ng 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

45
45
46

2.1.

VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI VỀ NĂNG
LƢỢNG NGUYÊN TỬ VÌ MỤC ĐÍCH HỊA
BÌNH
Các quy định của pháp luật quốc tế về năng lượng nguyên tử

46

2.1.1.
2.1.1.1.
2.1.1.2.
2.1.1.3.
2.1.1.4.

Quy định điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử
Khái quát chung
Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT)
Cơng ước An tồn hạt nhân
Hiệp định định bảo đảm Thanh sát (SA) (hay còn gọi là Hiệp định


46
46
47
51
59

2.1.1.5.

Safeguards)
Nghị định Thư bổ sung cho Hiệp định Thanh sát (AP) hay gọi là
Hiệp định bảo đảm hạt nhân

63

2.1.1.6.

Hiệp định Hợp tác và tài trợ kỹ thuật của IAEA đối với Việt Nam
(RSA)

65

2.1.1.7.
2.1.1.8.

66
66

2.1.1.11.
2.1.2.


Hiệp định Hợp tác hạt nhân vùng Châu Á (RCA)
Công ước thông báo nhanh sự cố hạt nhân (hay công ước về cảnh
báo sớm tai nạn hạt nhân)
Công ước trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc tai nạn
phóng xạ
Hiệp ước khơng vũ khí hạt nhân khu vực Đơng Nam châu Á (Hiệp
ước Bangkok - SEANWFZ)
Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT)
Quy định của cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA

2.1.2.1.
2.1.2.2.
2.1.2.2.1.

Luật mẫu của IAEA về xây dựng luật năng lượng nguyên tử
Sách hướng dẫn của IAEA về xây dựng luật năng lượng nguyên tử
Giới thiệu chung

74
78
78

2.1.1.9.
2.1.1.10.

2

69
71

72
74


2.1.2.2.2.

Nội dung chính của Sách hướng dẫn

79

2.1.3.

Hệ thống tiêu chuẩn của IAEA

81

2.1.3.1.

Khái quát chung

81

2.1.3.2.

Các tiêu chuẩn an toàn của IAEA
a. Tiêu chuẩn về hạ tầng pháp quy và quản lý nhà nước về an toàn hạt
nhân, bức xạ, vận chuyển và chất thải phóng xạ (GS-R-1)

82
82


b. Tiêu chuẩn về hướng dẫn xem xét và đánh giá cơ sở hạt nhân cho
cơ quan quản lý nhà nước (GS-G-1.2)
c. Tiêu chuẩn về hoạt động thanh tra cơ sở hạt nhân và cưỡng chế thi

83
83

hành của cơ quan quản lý nhà nước (GS-G-1.3)
d. Tiêu chuẩn về thẩm định và đánh giá nhà máy điện hạt nhân (NSG-1.2)
đ. Tiêu chuẩn về cấu trúc và Nội dung của Báo cáo phân tích an tồn
nhà máy điện nguyên tử (GS-G-4.1)
e. Tiêu chuẩn về lựa chọn địa điểm cho cơ sở hạt nhân (NS-R-3)
f. Tiêu chuẩn về hướng dẫn an toàn tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân

84
84
84
84

và lò phản ứng nghiên cứu (WS-G-2.1)
g. Tiêu chuẩn về hướng dẫn an tồn tháo dỡ cơ sở chu trình nhiên
liệu hạt nhân (WS-G-2.4)

85

h. Tiêu chuẩn về vận hành nhà máy điện hạt nhân (NS-R-2)

86


2.2.
2.2.1.
2.2.1.1.
2.2.1.2.
2.2.1.3.
2.2.2.
2.2.2.1.
2.2.2.1.1.
2.2.2.1.2.

Các quy định của pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử
Quy định của một số nước chưa phát triển điện hạt nhân
Australia
Indonesia
Malaysia
Quy định của một số nước đã phát triển điện hạt nhân
Hệ thống Luật Năng lượng nguyên tử Nhật Bản
Khái quát chung
Luật Năng lượng nguyên tử cơ bản

87
87
87
89
90
92
92
92
94


2.2.2.1.3.
a.
b.
c.

Các luật khác liên quan đến hạt nhân
Luật về chính sách chung
Luật về lị phản ứng hạt nhân
Luật về các tiêu chuẩn để đánh giá thảm họa

94
94
95
96

3


d. Luật về chất thải hạt nhân và nhiên liệu đã qua sử dụng

97

đ. Luật về bồi thường thiệt hại hạt nhân

97

e. Luật về an ninh hạt nhân

98


f. Luật về công nghiệp điện
2.2.2.2.
Luật Năng lượng nguyên tử của Hoa kỳ
2.2.2.2.1. Khái quát chung

98
102
102

2.2.2.2.2.
2.2.2.2.3.
2.2.2.2.4.

Quy trình cấp phép theo hai bước (Phần 50 của 10 CFR)
Giấy phép kết hợp (Phần 52 của 10CFR)
Giấy phép địa điểm sớm

103
106
107

2.2.2.2.5.

Chứng nhận thiết kế

108

2.2.2.3.

Hệ thống pháp luật năng lượng nguyên tử của Pháp


109

2.2.2.3.1.
2.2.2.3.2.

Khái quát chung
Luật số 2006-686 về minh bạch và an ninh vật liệu hạt nhân (còn gọi
là Luật TSN)
Nghị định số 2007-1557 (Décret o2007-1557 )
Hệ thống pháp luật năng lượng nguyên tử của Nga

109
111

2.2.2.3.3.
2.2.2.4.

113
115

2.2.2.4.1. Khái quát chung
2.2.2.4.2. Luật về sử dụng năng lượng nguyên tử
2.2.2.5.
Hệ thống pháp luật năng lượng nguyên tử của Trung Quốc

115
116
117


2.2.2.5.1.

117

Khái quát chung

Quy phạm về quản lý an toàn các cơ sở hạt nhân dân sự
(HAF0500)
2.2.2.6.
Hệ thống pháp luật năng lượng nguyên tử Hàn Quốc
2.2.2.6.1. Khái quát chung
2.2.2.6.2. Hệ thống pháp luật năng lượng nguyên tử
a. Luật Năng lượng nguyên tử Hàn Quốc
b. Luật trách nhiệm pháp lý hạt nhân
c. Luật bảo vệ thực thể hạt nhân và tình huống khẩn cấp về phóng xạ
2.2.2.5.2.

Chương 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

3.1.

VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NĂNG LƢỢNG
NGUYÊN TỬ - KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về hoàn thiện pháp luật
năng lượng nguyên tử

4

118
120

120
121
121
124
124
125

125


3.2.

Những thành tựu và bất cập pháp luật Việt Nam về năng lượng

128

nguyên tử
3.2.1

Những thành tựu cơ bản và nổi bật

128

3.2.2.
3.3.

Tồn tại và bất cập
Kiến nghị, đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam và tham
gia điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử


129
130

3.3.1

Kiến nghị, đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về năng
lượng nguyên tử
Kiến nghị, đề xuất tham gia điều ước quốc tế về năng lượng

130

3.3.2.

137

nguyên tử
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHAO
PHỤ LỤC

5

141
144
147


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong vịng một thế kỷ qua, Khoa học và cơng nghệ hạt nhân trên thế

giới đã có những bước phát triển to lớn ngày càng được ứng dụng rộng rãi
vào mục đích hồ bình và mang lại nhiều lợi ích và hiệu quả to lớn cho sự
phát triển và phồn vinh của xã hội lồi người. Khoa học và cơng nghệ hạt
nhân không những giúp cho con người hiểu biết sâu hơn về cấu trúc hạt nhân
mà còn phát triển các công nghệ mới phục vụ cho các nhu cầu của đời sống
kinh tế - xã hội, tạo ra các cơng cụ hiệu quả như máy gia tốc, lị phản ứng
mang đến các khả năng to lớn cho con người trong nghiên cứu thế giới vật
chất, nghiên cứu vũ trụ, có những kiến thức mới trong vật lý và các khoa học
khác như khoa học sự sống, khoa học vật liệu, sinh học phân tử và tạo ra các
nguyên tố và vật liệu mới.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, những nguy cơ và hậu quả nghiêm
trọng của sử dụng năng lượng ngun tử vào các mục đích phi hồ bình, bao
gồm việc phổ biến vũ khí hạt nhân và khủng bố hạt nhân đang trở thành mối
quan tâm lo ngại của cộng đồng quốc tế.
Việc nghiên cứu xây dựng và thực thi pháp luật về năng lượng nguyên
tử ở các nước trên thế giới đang ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào sự
phát triển nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử ở mỗi nước. Theo
nghiên cứu của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) được đúc kết
trong Sách hướng dẫn xây dựng Luật hạt nhân thì tất cả các nước chưa có
điện hạt nhân, các nước phát triển điện hạt nhân và các cường quốc có vũ khí
hạt nhân đều có điểm chung trong xây dựng pháp luật là phải phù hợp với
hiến pháp và hệ thống chính trị, pháp luật của mỗi quốc gia, có xem xét đến
các điều ước quốc tế.

6


Đối với Việt Nam, trong những năm qua, khoa học và kỹ thuật hạt nhân
đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, góp phần vào
sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của

đất nước và chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, thực trạng yếu kém và thiếu thốn về hạ tầng kỹ thuật, tài
chính, nguồn nhân lực và đặc biệt là cơ sở pháp lý trong nước và việc tham
gia các điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử chưa đầy đủ đã khiến cho
việc nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử ở nước ta chưa tương
xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Các trang
thiết bị phục vụ cho nghiên cứu, ứng dụng và giảng dạy còn rất lạc hậu; thiết
bị mới và nguồn phóng xạ phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu. Ngân sách nhà
nước đầu tư cho ngành năng lượng nguyên tử còn quá hạn hẹp so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Đội ngũ cán bộ chuyên ngành hạt nhân
bước đầu được hình thành nhưng tuổi trung bình cao và chưa đáp ứng yêu cầu
về số lượng, trình độ và cơ cấu ngành nghề.
Để khắc phục các bất cập nêu trên và đáp ứng các yêu cầu thúc đẩy
mạnh mẽ việc xây dựng và phát triển năng lượng nguyên tử phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế thì việc nghiên cứu pháp luật
quốc tế và pháp luật nước ngồi về năng lượng ngun tử vì mục đích hịa
bình nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước và tham gia các điều ước
quốc tế về năng lượng nguyên tử là hết sức cần thiết.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Vấn đề năng lượng ngun tử vì mục đích hịa bình ở Việt Nam là một
vấn đề mới mẻ so với các nước trên thế giới. Hiện nay ở nước ta chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách tồn diện và sâu sắc về xây dựng và hoàn thiện
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực năng lượng nguyên tử,

7


chúng ta cũng chỉ có một số bài báo, bài viết đơn lẻ. Chưa đặt vấn đề xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung trong lĩnh vực năng lượng

nguyên tử. Vì vậy Đề tài này nhằm mục tiêu nghiên cứu đề xuất hướng hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử vì
mục đích hịa bình ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử là một
vấn đề rộng, do đó đề tài chỉ tập trung các vấn đề về:
1. Nghiên cứu pháp luật quốc tế về năng lượng nguyên tử
2. Nghiên cứu các văn bản pháp luật của một số nước trên thế giới và
các điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử mà Việt Nam đã tham gia
3. Nghiên cứu chính sách pháp luật năng lượng nguyên tử của Việt
Nam trong quá trình thực hiện các điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử
và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
năng lượng nguyên tử và đề xuất tham gia các điều ước quốc tế về năng lượng
nguyên tử mà việt nam chưa gia nhập.
3. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền,
các quan điểm về xây dựng và thực thi pháp luật, về đường lối đổi mới và
chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước được thể hiện
trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam và các văn bản pháp luật
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp
chủ yếu trong nghiên cứu khoa học nói chung, khoa học pháp lý nói riêng
như: phương pháp phân tích; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp

8


thống kê; phương pháp tổng hợp và các phương pháp khác, kết hợp lý luận và
thực tiễn để giải quyết các vấn đề đặt ra.

4. Ý nghĩa thực tiễn và những đóng góp của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, người viết không đặt ra quá nhiều tham
vọng mà trước hết là trang bị thêm kiến thức chuyên sâu cho bản thân; đồng
thời, góp một phần nhỏ bé của mình vào tiếng nói chung của giới luật học
nhằm hồn thiện pháp luật về năng lượng nguyên tử của Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I. Trình bày tổng quan về pháp luật Quốc tế và pháp luật nước
ngồi về năng lượng ngun tử vì mục đích hồ bình
Chương II. Các quy định của Pháp luật Quốc tế và pháp luật nước
ngồi về năng lượng ngun tử vì mục đích hịa bình
Chương III. Một số kiến nghị, đề xuất và bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam về hồn thiện chính sách pháp luật năng lượng ngun tử của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC
NGOÀI VỀ NĂNG LƢỢNG NGUN TỬ VÌ MỤC ĐÍCH HỒ BÌNH
1.1. KHÁI NIỆM NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ

1.1.1. Định nghĩa
Thuật ngữ “Năng lượng nguyên tử” là một khái niệm rộng và hiện nay
trên thế giới chưa có sự thống nhất về tên gọi giữa các quốc gia, cũng như
chưa có tài liệu tham khảo nào khác của các quốc gia về khái niệm “Năng

9


lượng nguyên tử” hay “Năng lượng hạt nhân” và ngay cả Cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế (IAEA) cũng chưa giải thích thống nhất về tên gọi cụ thể

của thuật ngữ này.
Trên cơ sở tham khảo một số đạo luật về năng lượng nguyên tử của
một số quốc gia trên thế giới về tên gọi thuật ngữ “Năng lượng ngun tử” thì
mỗi quốc gia lại có một cách tiếp cận khác nhau về tên gọi của thuật ngữ này.
Chẳng hạn: Theo Luật năng lượng nguyên tử Hàn Quốc thì thuật ngữ “Năng
lượng nguyên tử” được gọi là “Năng lượng hạt nhân”. Còn theo quy định của
Luật về lò phản ứng và vật liệu hạt nhân của Nhật Bản, đây là một đạo luật cơ
bản nhất trong hệ thống pháp lý hạt nhân của Nhật Bản, thì thuật ngữ “Năng
lượng nguyên tử” lại gọi là “Năng lượng nguyên tử”.
Theo học giả người Nhật bản, ông IWAKOSHI YONESUKE, Chuyên
gia trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử có khái niệm về năng lượng nguyên
tử như sau: “Năng lượng nguyên tử là năng lượng sinh ra khi có sự phân
hạch hạt nhân hoặc tổng hợp hạt nhân”[1]
Như vậy, các thuật ngữ chính xác về mặt khoa học được những người
làm việc trong lĩnh vực nguyên tử sử dụng lại có thể khó hiểu đối với đại bộ
phận dân chúng.
Để hài hoà giữa các thuật ngữ “Năng lượng nguyên tử” chính xác cả
về khoa học và dễ hiểu đối với người dân thì theo quy định của Luật Năng
lượng nguyên tử Việt Nam năm 2008, thuật ngữ “Năng lượng nguyên tử”
được định nghĩa là: “Năng lượng được giải phóng trong q trình biến đổi
hạt nhân bao gồm năng lượng phân hạch, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng
do phân rã chất phóng xạ; là năng lượng sóng điện từ có khả năng ion hố
vật chất và năng lượng các hạt được gia tốc”.

10


1.1.2. Lƣợc sử phát triển năng lƣợng nguyên tử trên thế giới
Việc phát minh ra năng lượng nguyên tử là một thành tựu vĩ đại của
nhân loại trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, trước năm 1950 việc nghiên cứu và

ứng dụng năng lượng nguyên tử chủ yếu phục vụ cho mục đích quân sự. Từ
sau năm 1950, sử dụng năng lượng nguyên tử để giải quyết nhu cầu năng
lượng đã trở thành một xu thế mới trên thế giới. Năm 1954, nhà máy điện hạt
nhân đầu tiên trên thế giới được đưa vào vận hành ở Liên Xô, đánh dấu giai
đoạn mới trong việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hồ bình và
đưa nền khoa học cơng nghệ Xô - Viết lên tầm cao mới.
Lịch sử phát triển điện hạt nhân trên thế giới đã trải qua 3 giai đoạn
đáng chú ý sau:
- Giai đoạn thập niên 1960-1970. Đây là giai đoạn khởi đầu khi công
nghệ chưa được thương mại hoá, phát triển điện hạt nhân chủ yếu nhằm mục
tiêu phát triển khoa học công nghệ và xây dựng tiềm lực hạt nhân bảo đảm an
ninh quốc gia.
- Giai đoạn thập niên 1970-1980, khi công nghệ đã được thương mại
hoá cao và do khủng hoảng dầu mỏ, nên nhiều quốc gia đẩy nhanh tốc độ phát
triển điện hạt nhân, đưa tỉ trọng điện hạt nhân toàn thế giới tăng gần 2 lần từ
9% lên 17%.
- Giai đoạn thập niên 1980-1990, sau sự cố Chernobyl, sự chấp nhận
của cơng chúng, các yếu tố chính trị và sự cạnh tranh yếu về kinh tế do việc
tăng cao các yêu cầu về an toàn đã làm cho tốc độ xây dựng điện hạt nhân
giảm mạn, một số nước cịn có chủ trương loại bỏ điện hạt nhân như: Đức,
Thuỵ Điển. Tuy nhiên ngay từ đầu thế kỷ này khi mà yếu tố mơi trường tồn
cầu và an ninh năng lượng trở lên có ý nghĩa quyết định và cơng nghệ điện
hạt nhân ngày càng được nâng cao thì xu hướng phát triển điện hạt nhân đã có
những thay đổi tích cực, hứa hẹn một tương lai rất tốt đẹp trên phạm vi toàn

11


cầu. Trên cơ sở đó, chính những nước có ý định từ bỏ điện hạt nhân cũng phải
xem xét lại và có kế hoạch điều chỉnh của quốc gia mình.

Hiện nay, trên thế giới cơng nghệ lị phát triển rất phong phú và đa
dạng. Hiện có trên 10 loại lị đang được sử dụng và nghiên cứu phát triển.
Việc mỗi quốc gia sử dụng và phát triển loại lò nào phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trước hết là ý đồ chiến lược của mỗi quốc gia, sau đó là trình độ khoa học
và công nghệ và khả năng tham gia của cơng nghiệp nội địa. Mặc dù số loại lị
nhiều như vậy nhưng đa số hoặc đã bị loại bỏ khỏi xu hướng phát triển hoặc
đang ở trạng thái thử nghiệm. Cho đến nay thực chất mới chỉ có ba loại công
nghệ nhà máy điện hạt nhân chủ yếu đựoc công nhận là những công nghệ đã
được kiểm chứng và được phát triển nhiều nhất, đó là:
+ Cơng nghệ lị nước áp lực - PWR (chiếm 60 %)
+ Công nghệ lị nước sơi - BWR (chiếm 21 %)
+ Cơng nghệ lò nước nặng - PHWR (CANDU) (chiếm 8 %).
Phần còn lại là các loại lò khác.
1.1.3. Vai trò năng lượng nguyên tử trên thế giới
Theo tổng kết của Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế, đến ngày
31/12/2003, trên toàn thế giới có 441 lị phản ứng năng lượng hạt nhân đang
hoạt động ở 32 nước. Hiện nay, các nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) có tổng
cơng suất 363.135 MW với sản lượng điện năm 2002 là 2.574 tỷ kWh, chiếm
16% tổng sản lượng điện toàn cầu. Tỷ lệ này được giữ ổn định trong suốt 20
năm qua, điều đó có nghĩa là mức tăng trưởng của nguồn ĐHN có cùng nhịp
độ với mức tăng trưởng tổng các nguồn điện khác.
Theo thống kê của Hiệp hội hạt nhân thế giới ((World Nuelear
Association - WNA), tính đến ngày 1/9/2009 trên thế giới có 446 lị phản ứng
hạt nhân với tổng cơng suất điện là 372.533 MW đang hoạt động tại 32 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Năm 2008, các nhà máy điện hạt nhân đã sản xuất được

12


hơn 2.600 tỷ kWh điện, chiếm 15% sản lượng điện năng toàn cầu. Năm nước

đứng đầu thế giới về điện hạt nhân hiện nay theo thứ tự về sản lượng điện là
Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Nga và Hàn Quốc.
Phát triển ĐHN tập trung chủ yếu ở các nước phát triển. Hơn 50% số lò
tập trung ở Bắc Mỹ và Tây Âu, chỉ có chưa đầy 10% số lị tập trung ở các
nước đang phát triển, nơi mà nhu cầu năng lượng sẽ gia tăng mạnh mẽ trong
thế kỷ này. Hiện có 5 quốc gia dẫn đầu về sản lượng ĐHN, đó là: Mỹ - 780
tỷ kWh; Pháp - 415 tỷ kWh; Nhật - 313 tỷ kWh; Đức - 162 tỷ kWh và Nga 130 tỷ kWh, và một số quốc gia có tỷ trọng ĐHN đặc biệt cao như Lithunia 80%; Pháp - 78%, Slovakia - 65% và Bỉ - 57%. Tổng số lò -năm kinh nghiệm
vận hành của thế giới tích luỹ được đến nay đạt trên 11.000 lò - năm.
Cũng theo Hiệp hội hạt nhân thế giới (WNA), hiện nay trên thế giới có
hơn 30 nước đang xem xét nghiêm túc việc phát triển điện hạt nhân, trong đó
có cả những nước dồi dào dầu mỏ như Cô-oét, Qatar, Tiểu vương quốc Ả-Rập
thống nhất (UAE),… Cùng với khoảng 50 lị phản ứng đang được xây dựng,
tính đến ngày 1/9/2009 đang có 137 lị phản ứng cơng suất đã được đặt hàng
hoặc có kế hoạch xây dựng và 295 lò khác được dự kiến xây dựng. Hiện tại,
các nhà xuất khẩu công nghệ điện hạt nhân - đứng đầu là Pháp và Nga - đang
rất bận rộn với những hợp đồng xây dựng, chuyển giao với các đối tác từ Hoa
Kỳ, qua châu Âu, Nam Á đến Trung Quốc.
Xét về nhu cầu và nhịp độ xây dựng mới các nhà máy ĐHN thì có sự
khác nhau ở các khu vực trên thế giới. Nếu nhu cầu và nhịp độ đó bị ngưng lại
ở khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ thì nó lại tiến triển mạnh ở vực Đông Âu mà
đặc biệt là khu vực Châu á - Thái Bình Dương.
1.1.3.1. Khu vực Tây Âu
Hiện nay, Tây Âu đang vận hành và khai thác 140 lò năng lượng hạt
nhân với tổng công suất 122.480 MW và sản lượng điện 855 tỷ kWh, chiếm

13


35% tổng nhu cầu điện năng. ĐHN chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu nguồn
điện, tiếp theo là nhiệt điện than 29% và nhiệt điện khí 15%.

Khu vực Tây Âu là một trong những khu vực phát triển nhất thế giới,
đã đạt đến độ chín muồi và hồn thiện, do đó mức tăng trưởng nhu cầu điện
năng hàng năm rất thấp, trong 25 năm tới là 1,3%/năm. Để giải quyết vấn đề
năng lượng, các nước Tây Âu hiện nay thực hiện chính sách mở cửa thị
trường điện và đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió.
Đến cuối năm 2000, Anh có 33 lị phản ứng hạt nhân với tổng công
suất 13.000 MW. Tỷ lệ phát điện năng lượng nguyên tử là 22%.
Pháp hiện có 58 lị phản ứng (PWR) phát điện với tổng cơng suất thiết
bị là 63.000 MW, cung cấp 430 tỷ Kwh/năm tức là vào khoảng 78% trong
tổng sản lượng điện của quốc gia chiếm vị trí thứ hai trên thế giới, sau Mỹ.
Đức với tổng công suất thiết bị khoảng 22.000 MW của 19 lò phản ứng
phát điện đang vận hành, cơ cấu nguồn điện năng năm 2000 của Đức là 33%
điện hạt nhân.
Nhiều nhà quan sát cho rằng, ĐHN sẽ lại nổi lên thành phương án cạnh
tranh khi những lo ngại về thay đổi khí hậu và sự khơng chắc chắn của các
nguồn cung cấp năng lượng ngày càng tăng và vấn đề chỉ còn là thời gian để
mọi người nhận ra rằng, năng lượng tái tạo sẽ chẳng bao giờ thay thế được
các nguồn điện công nghiệp lớn, loại mà đang thúc đẩy kinh tế châu Âu phát
triển trong thời gian dài và có hiệu quả.
1.1.3.2. Khu vực Đơng Âu và Liên xô cũ
Những năm gần đây, nền kinh tế của khu vực này phục hồi trở lại và
ĐHN vẫn được tiếp tục chú ý phát triển, đặc biệt tại Liên bang Nga, Ucraina,
Hungari, Bungari và Séc.
CHLB Nga kế thừa lịch sử phát triển tiên phong hàng đầu của Liên
Bang Xô viết trong lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử và điện hạt nhân

14


trên thế giới. Nhà máy điện hạt nhân Obnhinscơ, khánh thành năm 1954 là

nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Đến nay nước Nga đã có hơn 50
năm lịch sử phát triển điện hạt nhân với 43 tổ máy, trong đó có 30 tổ máy
đang vận hành, 4 tổ máy đang trong quá trình xây dựng, 5 tổ máy đã lập kế
hoạch xây mới và 4 tổ máy đã đóng cửa. Theo Kỷ yếu quốc gia về điện hạt
nhân do IAEA xuất bản năm 2003, sản lượng điện hạt nhân của Nga là 150 tỉ
KWh, công suất 22,2 GW(e), chiếm 16,4% tổng công suất điện quốc gia.
Tại thời điểm cuối năm 2000, Nga có 29 lị phản ứng phát điện đang
vận hành với tổng công suất thiết bị là 21.000 MW, đứng vị trí thứ 5 trên thế
giới, dự kiến, công suất này sẽ tăng lên tới 25.000 MW vào năm 2010 và
32.000 MW vào năm 2020. Để nâng cao độ an toàn và hiệu quả kinh tế, chủ
yếu Nga sẽ dùng các tổ máy hạt nhân thế hệ thứ ba. Ucraina sẽ tiếp tục hoàn
thành 2 lị đang xây dựng dở dang, khơng cần đến sự hỗ trợ tài chính của
Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu. Hungari sẽ kéo dài sử dụng 4 tổ
máy hiện tại lên 40 năm thay vì 30 năm dự kiến ban đầu. Bungari sẽ sẽ xây
dựng thêm 2 lò mới loại 1.000 MW để bù lại các lò cũ phải đóng cửa.
CHLB Nga có Bộ Năng lượng nguyên tử (MINATOM) trước đây và
nay là Cơ quan năng lượng nguyên tử ROSATOM) là cơ quan ngang bộ chịu
trách nhiệm quản lý nhà nước về NLNT. Cơ quan này quản lý các nhà máy
điện hạt nhân, các cơ sở sản xuất nhiên liệu, tái chế, xử lý thải phóng xạ và
chế tạo vũ khí hạt nhân và tàu nguyên tử. Cơ quan Liên bang về An toàn hạt
nhân và bức xạ (Gosatomnadzor) đặt trụ sở tại Matxcơva và có 7 văn phịng
khu vực trong tồn quốc.
1.1.3.3. Khu vực Bắc Mỹ
Cũng như Tây Âu, Bắc Mỹ là khu vực phát triển đỉnh cao. Trong 25
năm tới, mức tăng trưởng nhu cầu điện năng trung bình hàng năm của Mỹ
trong 25 năm tới là 1,8%/năm và Canada là 1,6 %/năm.

15



Chính sách của Mỹ là tiếp tục ủng hộ mở rộng năng lượng hạt nhân.
Các nhà máy điện hạt nhân của Mỹ có 103 lị phản ứng với tổng cơng suất
thiết bị là 101.000 MW, chiếm vị trí thứ nhất trên thế giới. Trong 5 năm qua,
19 lò đã được cấp phép kéo dài thời gian sử dụng thêm 20 năm nữa. Dự báo,
công suất ĐHN của Mỹ vào năm 2025 là 102.600 MW.
Chính sách của Canada là tiếp tục mở rộng cơng suất ĐHN của mình,
trước hết là tái khởi động lại các nhà máy tạm thời bị đóng cửa. Hiện tại,
Canada có 17 lị đang hoạt động và đã lên kế hoạch đến 2007 sẽ đưa thêm 4 lị
nữa có cơng suất 2.060 MW vào khai thác. Dự báo, công suất ĐHN của
Canada vào năm 2025 là 12.350 MW.
1.1.3.4. Khu vực Châu á
Châu á là khu vực có nền kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng rất
cao, bình quân 5-7%/năm, riêng Trung Quốc đạt gần 10%/năm, do đó, nhu
cầu về năng lượng rất lớn. Hơn nữa, hai nước Trung Quốc và ấn Độ phải đối
mặt với hai phần năm dân số thế giới, còn hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc
đều thiếu tài nguyên năng lượng. Để đảm bảo an ninh năng lượng, các nước
này đều đã lựa chọn giải pháp phát triển ĐHN. Hai nước có sản lượng ĐHN
lớn nhất khu vực là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nhật Bản đang vận hành 54 tổ máy và đang xây dựng thêm 3 tổ máy.
Mặc dù gần đây, có một số vấn đề trong ngành cơng nghiệp hạt nhân, nhưng
Nhật Bản vẫn lên kế hoạch xây thêm 13 tổ máy mới tổng công suất 13.000
MW trước năm 2010. Tổng công suất ĐHN của Nhật sẽ tăng lên tới 56.880
MW vào năm 2020 và sẽ giảm xuống còn 54.280 vào năm 2025 do một số tổ
máy cũ hết hạn sử dụng.
Hàn Quốc là một quốc gia có bề dày trong phát triển điện hạt nhân và
được IAEA đánh giá cao trong việc bảo đảm an toàn bức xạ và hạt nhân.

16



So với Nhật Bản thì Hàn Quốc cũng là một trong số các quốc gia Châu
á có cơng nghiệp điện hạt nhân phát triển. Từ nước phải nhập khẩu đến 97%
nhu cầu năng lượng điện, đến khi bắt đầu vận hành thương mại tổ máy điện
hạt nhân đầu tiên của mình (tổ máy Kori 1) vào tháng 4 năm 1978, đến nay 20
lị phản ứng với tổng cơng suất gần 18 GW đang cung cấp 40% sản lượng
điện của Hàn Quốc. Giá điện hạt nhân của Hàn Quốc khá rẻ: 39 won/kWh
(khoảng 3 xu Mỹ) và đến năm 2015 có thêm 6 tổ máy mới. Hàn Quốc đang
phát triển thế hệ lị mới cơng suất lên tới 1400 MW mang tên APR -1400 trên
cơ sở thế hệ lò hạt nhân tiêu chuẩn Hàn Quốc hiện nay. Theo dự kiến, những
lò APR đầu tiên sẽ vận hành thương mại vào khoảng đầu những năm 2010.
Năng lượng hạt nhân được ưu tiên trong chiến lược phát triển năng
lượng của Hàn Quốc với mục tiêu đến năm 2020 tổng công suất các nhà máy
điện hạt nhân sẽ đạt 27,3 GW và tỷ trọng điện hạt nhân sẽ tăng lên 56%. Hàn
Quốc đang nỗ lực trở thành nước xuất khẩu công nghệ hạt nhân. Công ty Điện
lực Hàn Quốc (KEPCO) vừa ký thỏa thuận giúp Công ty Điện lực Indonesia
(PNL) làm đề án nghiên cứu khả thi cho nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của
nước này ở đảo Java; dự kiến sử dụng 4 lị OPR-1000 cơng suất mỗi lị 1.000
MW do Hàn Quốc tự thiết kế và chế tạo.
Hàn Quốc có chính sách năng lượng hạt nhân đúng hướng, nhất quán,
và đó là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của chương trình hạt nhân
của quốc gia này.
Tại cuộc họp mới đây của các Bộ trưởng Năng lượng ASEAN+3 tại
Myanmar, Hàn Quốc đã đề nghị hỗ trợ ASEAN đào tạo nhân lực trong lĩnh
vực hạt nhân, sẵn sàng cung cấp những kiến thức kỹ thuật về nhà máy điện
hạt nhân nhằm giúp các nước ASEAN giảm việc sử dụng năng lượng hóa
thạch, giúp bảo vệ mơi trường. Theo chương trình đào tạo kéo dài 3 năm từ

17



2009-2011, Hàn Quốc sẽ đào tạo tổng cộng 150 kỹ thuật viên và quan chức
cấp cao cho các nước thành viên ASEAN.
Trung Quốc, tháng 11 năm 1981 dự án nhà máy ĐHN đầu tiên được
đề xuất và bắt đầu khởi công xây dựng vào tháng 6 năm 1983. Tháng 11 năm
1991 nhà máy điện hạt nhân nước nhẹ Qinshan với công suất 310MW, nhà
máy ĐHN đầu tiên mở ra kỉ nguyên ĐHN tại Trung Quốc bắt đầu hoà vào
lưới điện. Tới năm 2002 có 5 nhà máy ĐHN với 7 tổ máy đang hoạt động với
tổng công suất 4,5 GW, đạt sản lượng 26 tỉ KWh điện và chiếm 1,6% tổng
sản lượng điện năng. Thực tế tới thời điểm hiện nay, 4 tổ máy mới đã được
hoàn thành và đưa vào sử dụng là Qinshan -2B (2003 – 650MW), Qinshan-3B
(2003 -728MW), Tianwan-1 (2004 – 1060MW) và Tianwan -2 (2005 –
1060MW)
Mặc dù đi sau, nhưng hiện nay Trung Quốc đã trở thành một quốc gia
có cơng nghiệp điện hạt nhân phát triển nhanh và mạnh trong khuôn khổ một
chiến lược quốc gia dài hạn, có tầm nhìn xa và đầy tham vọng. Trung Quốc
hiện có 11 lị phản ứng với tổng cơng suất hơn 8,5 GW đang hoạt động, 12 lị
đang xây dựng và trong năm 2009 sẽ khởi công xây dựng ít nhất 12 lị khác.
Trung Quốc đặt kế hoạch sẽ nâng tổng công suất các nhà máy điện hạt nhân
lên 50-60 GW và năm 2020 và 120-160 GW vào năm 2030. Khơng chỉ nhập
khẩu cơng nghệ lị phản ứng của Pháp, Nga, Hoa Kỳ (gần đây nhất là hợp
đồng nhập 4 lò phản ứng AP-1000), Trung Quốc còn đẩy mạnh nghiên cứu và
phát triển công nghệ, hướng tới mục tiêu độc lập tự chủ trong toàn bộ các
khâu của chu trình điện hạt nhân, từ chế tạo thanh nhiên liệu đến cơng nghệ lị
phản ứng. Các lị CPR-1000 cơng suất 1.000 MW do Trung Quốc tự thiết kế,
chế tạo đang được xây dựng tại các nhà máy điện hạt nhân ở Quảng Đông,
Quảng Tây, Phúc Kiến và Liêu Ninh. Trung Quốc cũng đang xây dựng nhà
máy điện hạt nhân Đài Sơn (Quảng Đơng), sử dụng hai lị phản ứng EPR thế

18



hệ III, nhập cơng nghệ châu Âu, mỗi lị có công suất 1.700 MW. Để thỏa mãn
nhu cầu nhiên liệu tăng nhanh, Trung Quốc cũng đang ráo riết thu mua và tích
trữ quặng urani từ khắp nơi trên thế giới (Trung Á, châu Phi, Australia,...).
Đài loan phát triển ĐHN thành cơng một cách lặng lẽ. Đài loan chủ
yếu nhập lị về dùng sản xuất điện. Hiện có 6 lị đang hoạt động với tổng công
suất 4.884 MWW và sản lượng điện năm 2002 đat 33, 9 tỷ kWh, chiếm 21%
sản lượng điện trong nước. Đài loan đang xây dựng 2 lò loại ABWR -1350.
Ấn Độ đang vận hành 17 lò phản ứng, chủ yếu tự thiết kế, chế tạo và
xây lắp với tổng công suất điện 3.797 MW, đang xâu dựng thêm 06 lị phản
ứng, đã có kế hoạch 23 lò và dự kiến 15 lò khác và đạt mục tiêu tăng công
suất điện hạt nhân lên 20.000 MW vào năm 2020. Ấn Độ đã ký các thỏa thuận
chuyển giao cơng nghệ lị phản ứng với Nga và Hoa Kỳ
Pakistan hiện có 2 lị phản ứng trong đó 1 lị có cơng suất 100 MW
nhập cơng nghệ Canada và 1 lị cơng suất 300 MW do Trung Quốc chế tạo.
Iran đang chuẩn bị tham gia vào hàng ngũ các nước có điện hạt nhân.
Với sự giúp đỡ tích cực của Nga, lò phản ứng đầu tiên của nhà máy điện hạt
nhân Busher với công suất 915 MW sắp được vận hành. Iran đã có kế hoạch
xây dựng hai lị phản ứng khác với cơng suất mỗi lị 950 MW (cơng nghệ
Nga) và một lị cơng suất 300 MW (cơng nghệ Trung Quốc).
1.1.3.5. Khu vực Đông Nam Á
Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam là các nước Đơng Nam Á
đang tích cực chuẩn bị dự án điện hạt nhân. Cuối tháng 6 năm 2010, tại Diễn
đàn ASEAN+3 về an toàn hạt nhân tổ chức tại Thẩm Quyến, Trung Quốc.
Đoàn Thái Lan có tới hơn 10 người, do Bộ trưởng Năng lượng dẫn đầu, có sự
tham gia của quan chức Bộ Ngoại giao. Tại Diễn đàn, cả Trung Quốc, Hàn
Quốc và Nhật Bản đều tỏ ra sẵn sàng giúp các nước Đông Nam Á phát triển

19



điện hạt nhân, trước hết là hoàn thiện khung pháp luật và đào tạo nhân lực để
quản lý an toàn và hiệu quả nhà máy điện hạt nhân.
Nếu các dự án được thực hiện thành công, từ sau năm 2020, các nhà
máy điện hạt nhân sẽ lần lượt mọc lên ở Đông Nam Á, giúp khu vực này bảo
đảm an ninh năng lượng và bảo vệ mơi trường, trong đó có dịng sơng
Mêkơng đang đứng trước nguy cơ bị các dự án thủy điện hủy hoại.
Philippin tiến hành chương trình hạt nhân khá sớm từ 1970 và bắt đầu
xây nhà máy ĐHN từ 1976. Năm 1986, sau khi đã hoàn thành khoảng 90%
cơng việc thì dừng lại. Ngun nhân là do có sự tham nhũng, hối lộ làm cho
chất lượng cơng trình khơng đảm bảo. Nhà máy bị đóng cửa, khơng được
phép hoạt động.
Indonesia có tiềm năng lớn về dầu khí, than và thuỷ điện. Trước khủng
hoảng 1997, nhu cầu năng lượng nói chung và điện năng nói riêng tăng rất
nhanh đặc biệt ở vùng Java - Bali, mỗi năm tăng tới 15%. Để đảm bảo cung
cấp năng lượng cho vùng này, Quốc hội đã nhất trí cho phép bắt đầu thực hiện
chương trình hạt nhân. Nghiên cứu khả thi cho xây dựng nhà máy ĐHN đầu
tiên hầu như đã hoàn thành. Theo kế hoạch hiện nay, nhà máy ĐHN đầu tiên
sẽ được đưa vào vận hành vào năm 2016. Xét về các khía cạnh hạ tầng kỹ
thuật, hệ thống luật pháp hạt nhân và đội ngũ chuyên gia cho chương trình
điện hạt nhân thì Indonesia là nước phát triển nhất trong khu vực.
Thái Lan năm 1996 chính phủ đã thành lập Hội đồng nghiên cứu khả
thi và các phân hội đồng nghiên cứu các vấn đề cụ thể. Tháng 01 năm 1997
Hội đồng đã có báo cáo đề nghị xây dựng ĐHN ở Thái Lan. Nhưng do khủng
hoảng kinh tế tài chính, chương trình hạt nhân bị chững lại.
Tóm lại, dù đang phải đối mặt với nhiều thách thức, nhưng công nghệ
điện hạt nhân vẫn là một lựa chọn quan trọng của các quốc gia trên thế giới
trong thế kỷ 21.

20



Với tầm nhìn 2050, cơng suất ĐHN sẽ tăng tơ 363.000 MW hiện nay
lên 1.000.000 MW, sản lượng ĐHN sẽ chiếm 19% tổng sản lượng điện toàn
cầu. Tỷ lệ ĐHN tương ứng ở một số nước sẽ là: Mỹ - 50%; Pháp - 85%; Nhật
Bản - 60%; Hàn Quốc - 70%; Trung Quốc - 30%; Inđônesia - 40% và Thái
Lan, Philipines, Malaysia - 20%.
Việc cung cấp năng lượng, đặc biệt là điện năng, một cách đầy đủ và
tin cậy không chỉ cần thiết cho sự phát triển kinh tế mà như ngày càng được
thấy rõ, còn cần thiết cho sự ổn định chính trị và xã hội. Sự thiếu hụt năng
lượng trầm trọng, cả hiện tại lẫn trong tương lai, thường dẫn tới những bất ổn
và mâu thuẫn tiềm tàng trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia.
Với tổng thời gian vận hành của tất cả các lò năng lượng trên thế giới
khoảng 10.000 năm, ngành công nghiệp điện hạt nhân đã tích luỹ được nhiều
kinh nghiệm quý giá. Việc nghiên cứu phát triển công nghệ nhà máy điện hạt
nhân được đầu tư trung bình tồn thế giới khoảng 2 tỷ USD/năm và tập trung
theo 4 hướng sau:
- Hoàn thiện công nghệ các nhà máy điện hạt nhân hiện hành. Các lị
nước nhẹ cơng suất lớn đang được thiết kế nâng cấp thành nước lị cải tiến vói
cơng suất lớn hơn và từng bước ấp dụng nguyên lý an tồn thụ động.
- Nghiên cứu phát triển các lị có cơng suất nhỏ và trung bình
- Phát triển các thiết kế mới kiểu ghép nối các mô – đun độc lập theo
hướng sử dụng chất tải nhiệt là khí nhiệt độ cao và dùng hơi quá nhiệt để quay
tuốc - bin, sap dụng triệt để nguyên lý an toàn thụ động.
- Phát triển những loại lị thế hệ mới có nhiều ưu điểm vượt trội để đáp
ứng các mục tiêu: an tồn hơn, kinh tế hơn, ít chất thải phóng xạ hơn và giảm
nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân.

21



1.1.4. Lịch sử phát triển năng lượng nguyên tử ở Việt Nam
Từ những năm 50 của thế kỷ trước, mặc dù cuộc kháng chiến đang
trong giai đoạn ác liệt, nhưng đảng, nhà nước và Hồ Chủ tịch đã rất quan tâm
đến việc phát triển khoa học kỹ thuật hạt nhân và chuẩn bị tiềm lực cho việc
xây dựng và phát triển năng lượng nguyên tử ở Việt Nam. Trong thời gian
này, một số cán bộ ưu tú được cử đi đào tạo tại Liên Xô, Trung Quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu về khoa học kỹ thuật hạt nhân. Nhiều cán bộ
khoa học Việt Nam đã tham gia nghiên cứu tại Viện Liên hợp nghiên cứu hạt
nhân Dubna (Liên Xô).
Trong nước, các tổ bộ môn vật lý hạt nhân và hố phóng xạ tại một số
trường đại học và các cơ sở nghiên cứu ứng dụng đã được thành lập trong
những năm 1960 -1970 như Phịng Phóng xạ thuộc Uỷ ban Khoa học và Kỹ
thuật Nhà nước, Trung tâm bức xạ thuộc Viện Vật lý, các liên đồn địa chất,
v.v...
Ở miền Nam, lị phản ứng hạt nhân Đà Lạt có cơng suất 250 KW đã
được xây dựng và chính thức hoạt động từ tháng 3 năm 1963. Tháng 4 năm
1975, trước khi tháo chạy khỏi Việt Nam, Mỹ đã cử chuyên gia sang tháo hết
hệ điều khiển và tồn bộ thanh nhiên liệu của lị phản ứng. Vì vậy, khi ta tiếp
quản thì lị phản ứng hồn tồn tê liệt, khơng hoạt động được. Bộ Quốc phịng
tiếp quản lị phản ứng và thành lập đồn A1 để quản lý cơ sở này.
Ngày 26/4/1976, Chính phủ đã quyết định thành lập Viện nghiên cứu
hạt nhân (Đà Lạt) trực thuộc Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Năm
1978, Việt Nam tham gia trở lại IAEA, trên cơ sở tiếp quản ghế thành viên
của Chính quyền cũ ở Miền Nam.
Ngày 23/02/1979 Chính phủ ban hành Nghị định số 59-CP đã nâng cấp
Viện Nghiên cứu hạt nhân lên tầm của Viện quốc gia để quản lý các hoạt
động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử trong cả nước.

22



Năm 1982, cơng trình khơi phục và mở rộng lị phản ứng hạt nhân Đà
Lạt được bắt đầu như một cơng trình trọng điểm quốc gia.
Ngày 20/3/1984, lị phản ứng hạt nhân Đà Lạt chính thức đi vào hoạt
động.
Ngày 11/6/1984, Chính phủ ban hành Nghị định số 87-HĐBT đổi tên
Viện Nghiên cứu hạt nhân thành Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia. Đội
ngũ cán bộ của Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia lúc cao nhất vào khoảng
750 người.
Ngày 13/9/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 59-CP chuyên Viện
Năng lượng nguyên tử Quốc gia về trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường và đổi tên thành Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và cơ
quan quản lý an toàn với tên là Ban An toàn bức xạ và hạt nhân tách khỏi
Viện. trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trườngđể giúp Lãnh đạo Bộ
quản lý nhà nước về an tồn và kiểm sốt bức xạ.
Ngày 19/5/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2003/NĐ-CP
trong đó khẳng định Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan quản lý nhà nước
về năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân. Theo Nghị
định này thì trong Bộ Khoa học và Cơng nghệ có Cục Kiểm sốt và An tồn
bức xạ, hạt nhân để giúp lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân.
Theo thống kê năm 2000, tại 36 tỉnh, thành phố trên cả nước cơ 714 cơ
sở bức xạ với 2.306 nhân viên bức xạ, 1.189 máy phát tia X, 799 nguồn
phóng xạ, 8 cơ sở xạ trị, 13 máy xạ trị từ xa dùng nguồn Co-60, 09 máy xạ trị
áp sát và 01 máy LINAC. Mạng lưới quản lý nhà nướcvề an toàn bức xạ đã
hình thành đến các địa phương và các bộ, ngành. Các Bộ Y tế, Quốc phịng,
Cơng nghiệp đã có những bộ phậnchuyên tráchvề quản lý an toàn bức xạ. Các
hội nghề nghiệp trọng lĩnh vực năng lượng nguyên tử như Hội Kiểm tra


23


×