Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

luận văn thạc sĩ quan hệ quốc tế công tác thông tin đối ngoại của việt nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.55 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG
công tác thông tin đối ngoại
của việt nam trong thời kỳ đổi mới
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ
HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
1
NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG
Công tác thông tin đối ngoại
của việt nam trong thời kỳ đổi mới
Chuyên ngành : Quan hệ quốc tế
Mã số : 60 31 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ
Người hướng dẫn khoa học: GS. Vũ Dương Ninh
HÀ NỘI - 2009
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại thông tin, bùng nổ thông tin, xa lộ thông tin, đó là những
khái niệm còn khá mới nhưng chứng tỏ sức mạnh của thông tin trong đời sống
xã hội quốc gia và quốc tế hiện nay. Xã hội càng phát triển, yêu cầu thông tin
càng đa dạng, phong phú và ngược lại, sự phát triển của thông tin thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Trong thời đại hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, khu
vực hóa mỗi quốc gia muốn phát triển phải khai thác được các quan hệ giao
lưu quốc tế. Thông tin chính là chiếc cầu nối trong sự giao lưu giữa các quốc
gia, là phương tiện giúp cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng, là
nguồn lực để phát triển đất nước. Theo đó, thông tin đối ngoại đã trở thành một
trong những công cụ quan trọng, phổ biến được sử dụng trong quan hệ quốc


tế và có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đối ngoại của mọi quốc gia trên thế
giới. Thành công hay thất bại trong việc thực hiện chính sách đối ngoại một
phần tùy thuộc vào khả năng chiếm được lợi thế thông tin hay không.
Thông tin đối ngoại là một mảng công việc rất quan trọng trong công
tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đó là cầu nối, phương tiện mở rộng
giao lưu, hiểu biết giữa Việt Nam với các nước. Làm tốt công tác thông tin
tuyên truyền đối ngoại sẽ giúp các bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình một cách
chính xác, giúp họ hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Qua đó, phục
vụ chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ và hội
nhập kinh tế quốc tế của ta, thu hút các nguồn lực bên ngoài như vốn, công
nghệ, du lịch… phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần
vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, sẽ làm hạn
chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu "diễn
biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa và các hoạt động phá hoại an
ninh quốc gia của các phần tử chống đối.
3
Ngay từ những năm đầu thập niên 90, công tác thông tin đối ngoại đã
được triển khai tích cực và đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên vẫn
còn những hạn chế. Những năm gần đây và thời gian tới, tình hình thế giới và
trong nước chuyển biến sâu sắc, toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng phát
triển mạnh mẽ, thông tin đối ngoại có nhiều thuận lợi nhưng cũng bộc lộ nhiều
thách thức. Trước tình hình ấy, làm thế nào để góp phần thực hiện nhiệm vụ
của Đảng đặt ra cho lĩnh vực đối ngoại là "tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh
tư tưởng, phát triển nền văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa thế giới khi mở rộng giao lưu quốc tế - đó là yêu cầu và
nhiệm vụ mới đối với công tác thông tin đối ngoại.
Chính vì vậy, việc đánh giá, tổng kết công tác thông tin đối ngoại thời
gian qua là rất cần thiết. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng
thông tin đối ngoại, nghiên cứu và xây dựng chiến lược triển khai có hiệu quả

công tác thông tin đối ngoại. Với suy nghĩ đó, tôi chọn đề tài: "Công tác
thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới" làm luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài và nguồn tài liệu
Ở nước ta những năm gần đây, công tác thông tin đối ngoại đã được
giới học giả, các cấp, các ngành quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Tại các buổi
hội thảo, hội nghị tổng kết, đánh giá về hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà
nước, công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại đã được đưa ra bàn luận và
phân tích sâu ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, đây là chủ đề còn khá
mới đối với các sinh viên, học viên cao học ngành quan hệ quốc tế.
Về các công trình đã công bố, có thể kể đến tác phẩm Báo chí và
ngoại giao (Dương Văn Quảng) là cuốn sách bàn trực tiếp đến vai trò của
truyền thông đối với công tác đối ngoại. Một số cuốn sách khác như Cơ sở lý
luận báo chí, truyền thông đại chúng (Tạ Ngọc Tấn), Quản lý và phát triển
4
báo chí, Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa -xã hội (Lê Thanh Bình),
Báo chí với sự nghiệp đổi mới ngày nay (Ngọc Đán) phân tích vai trò và
nghiệp vụ báo chí là tài liệu tham khảo rất quan trọng khi nghiên cứu sâu vào
lĩnh vực thông tin.
Các cuốn sách nước ngoài đã dịch như Bùng nổ thông tin (Breton
Philipe, Serge Proul), Sức mạnh của truyền thông (Michael Schudson) hoặc
cuốn The Press and Foreign policy (Cohen) đã đề cập đến vấn đề cơ bản của
thông tin và thông tin trong ngoại giao.
Luận văn tham khảo và khai thác một số nguồn tài liệu chủ yếu sau:
- Các văn kiện Đại hội Đảng.
- Các văn bản pháp quy như Hiến pháp, Luật báo chí.
- Thông tư, nghị định, chỉ thị của Trung ương Đảng và Chính phủ.
- Các bài diễn văn, báo cáo tổng kết, tài liệu của các Bộ, Ban, ngành
tham gia làm công tác thông tin đối ngoại như Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa,

Du lịch và Thể thao
- Các tham luận hội nghị, tạp chí, bài báo, trang thông tin điện tử có
liên quan đến đề tài…
Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tìm hiểu, tiếp cận, nắm bắt và
sử dụng công cụ thông tin trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Mục đích của đề tài là phác họa tình hình và bước đầu đánh giá về
công tác thông tin đối ngoại, nêu bật vai trò của công tác thông tin đối ngoại
như là một kênh quan trọng, một công cụ đắc lực trong các hoạt động đối
ngoại của Đảng và Nhà nước, qua đó nêu lên một vài giải pháp để phát huy
hơn nữa vai trò của công tác thông tin đối ngoại.
5
* Nhiệm vụ
Để thực hiện nhiệm vụ trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận về công tác thông tin đối ngoại.
- Thông qua việc phác họa những hoạt động chính trong công tác
thông tin đối ngoại của ta trong thời kỳ đổi mới, nêu lên những thành tựu và
hạn chế.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thông tin
đối ngoại trước yêu cầu của tình hình mới.
Kết quả nghiên cứu công tác thông tin đối ngoại sẽ góp phần thiết
thực vào việc triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm
giới thiệu hình ảnh của Việt Nam ra bên ngoài cũng như đấu tranh dư luận
chống lại những luận điệu của các thế lực phản động, phát huy ảnh hưởng của
Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần thành công trên mặt trận đối ngoại
nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thông tin đối ngoại

của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thông qua việc triển khai và hoạt động
của các ban Đảng, các cơ quan nhà nước và toàn xã hội: các lực lượng chuyên
trách chỉ đạo, lực lượng thực hiện, lực lượng hỗ trợ…
* Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của mình, luận văn tập trung phân tích công tác thông
tin đối ngoại trong những năm đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế từ 1986 đến nay. Để có cái nhìn xuyên
suốt, luận văn có nhắc khái quát công tác thông tin đối ngoại thời kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn được dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về công tác thông tin đối ngoại.
Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu quốc tế, nghiên cứu khoa
học xã hội, kết hợp tổng kết thực tiến, phân tích, thống kê…
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước cùng những hoạt động của các lực lượng tham gia công
tác thông tin đối ngoại từ năm 1986 đến nay, luận văn cố gắng làm rõ thành
tựu và hạn chế trong công tác thông tin đối ngoại của ta thời kỳ đổi mới, từ đó
nêu một vài giải pháp để phát huy công tác này trong thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hệ thống hóa hoạt động thông tin đối
ngoại của nước ta để từ đó rút ra một số kinh nghiệm phục vụ thiết thực
đường lối đối ngoại rộng mở và hội nhập quốc tế.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ
làm công tác thông tin đối ngoại, cho sinh viên, học viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Nhận thức chung về công tác thông tin đối ngoại và hoạt
động thông tin đối ngoại ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.
Chương 2: Công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối
ngoại trong tình hình mới.
7
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
VÀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI Ở NƯỚC TA
TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
1.1.1. Khái niệm về công tác thông tin đối ngoại
Thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội. Sự ra
đời và phát triển của thông tin gắn liền với quá trình phát triển của đời sống
xã hội nhân loại. Xã hội càng phát triển, yêu cầu thông tin càng đa dạng,
phong phú và ngược lại, sự phát triển của thông tin thúc đẩy sự phát triển của
xã hội. Do nhu cầu giao tiếp ngày càng rộng rãi mà thông tin ngày càng phát
triển về mọi mặt từ hình thức, nội dung đến phạm vi thông tin. Đồng thời,
thông tin cũng luôn chịu sự tác động chi phối của nhiều yếu tố trên nhiều lĩnh
vực thuộc đời sống con người qua các thời kỳ lịch sử. Bản chất thông tin là
phản ánh các vấn đề của đời sống xã hội, chịu sự tác động của ý thức hệ nên
thông tin trở thành một công cụ đắc lực của cuộc đấu tranh giai cấp.
Trên cơ sở thực tiễn đời sống, xã hội từ trước đến nay nói chung, xã
hội hiện đại nói riêng, thế giới thông tin được hình thành hết sức đa dạng, đa
chiều với vô số kênh, tuyến phức tạp đan xen. Trong đó liên quan đến vấn đề
được đề cập ở đây, luồng thông tin có định hướng rõ nét nhất, chiếm vị trí chủ
đạo hàng đầu chính là những thông tin được truyền đi từ các cơ quan hoạch
định chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, tổ chức đến quần
chúng nhân dân nói chung cũng như đến từng giai cấp, tầng lớp, nhóm, thành

viên, nhằm thực hiện các chức năng, yêu cầu và nhiệm vụ được định trước.
Nội dung của thông tin chính là những sự kiện, vấn đề thường xuyên
nảy sinh và đổi mới trong mọi mặt đời sống con người, xã hội. Còn hình thức
8
của thông tin có quan hệ chặt chẽ với những giác quan chính (nghe, nhìn)
tương đối ổn định của con người. Thông tin có biểu hiện trực tiếp, trực cảm,
tương ứng để con người có thể tiếp nhận, sử dụng và trao đổi được là dạng
chữ viết, hình ảnh và âm thanh nói chung. Chỉ có những phương tiện thể hiện
và trao đổi thông tin (phát thanh, chuyển tải, khuếch đại và thu nhận) là luôn
thay đổi nhanh chóng và rõ rệt hơn, gắn với sự phát triển ngày càng cao hơn
của khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Khi nắm bắt và tác động vào riêng hình
thức của thông tin, những phương tiện truyền thông góp phần quyết định
trong việc tích cực hóa và hợp lý hóa cả về mặt số lượng lẫn về mặt chất
lượng quá trình chuyển giao và trao đổi thông tin.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Thông tin: là truyền tin, được tin, báo cho
nhau biết, tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh" [37, tr. 1587].
Loài người đã phát triển từ những hình thức thông tin đơn giản, chủ yếu
dùng tiếng nói và các tín hiệu, đến sự ra đời của chữ viết, báo chí, đài phát thanh,
vô tuyến truyền hình và làm cho thông tin phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn
cầu. Thông tin hiện đại đang góp phần rất lớn vào sự tiến bộ của nhân loại. Sự
bùng nổ thông tin mang tính chất toàn cầu đã thúc đẩy sự phát triển của giao lưu
kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật giữa các quốc gia dân tộc. Nhu
cầu giữ và tiếp nhận thông tin cùng tăng lên gấp nhiều lần. Thế giới như được
thu hẹp lại, trong đó những nguồn tin của mỗi cộng đồng, mỗi địa phương được
khai thác nhanh chóng và dựa vào dòng thác thông tin để trở thành sự hiểu biết
chung của nhân loại.
Đối với mỗi quốc gia, thông tin được xác định ở hai hướng chính:
thông tin đối nội và thông tin đối ngoại.
Thông tin đối ngoại là hoạt động truyền - nhận tin tức, xử lý và giải
thích các thông tin trong quan hệ giữa các nước với nhau.

Thông tin đối ngoại là hoạt động thông tin của một quốc gia nhằm vào
các đối tượng ở bên ngoài nhằm tạo ra sự hiểu biết về quốc gia đó, xây dựng
9
hình ảnh của quốc gia ở bên ngoài theo cách mà quốc gia đó mong muốn
nhằm phục vụ lợi ích của quốc gia đó. Thông tin đối ngoại có vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Thông tin đối ngoại ra đời từ rất sớm, tuy nhiên đến thời kỳ hiện đại,
khi trở thành một bộ phận quan trọng trên lĩnh vực tư tưởng - chính trị của các
nước, công tác thông tin đối ngoại ngày càng được cải tiến, bổ sung những
nội dung mới và phát triển mạnh mẽ, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện
chính sách đối ngoại của mỗi nước. Công tác thông tin đối ngoại không chỉ
dừng lại trong việc truyền và nhận tin tức một cách thụ động, mà còn bao hàm
cả việc phân tích, đánh giá, phát biểu quan điểm và định hướng xử lý về các
thông tin liên quan đến những sự kiện trong nước và quốc tế nhằm đạt tới
những mục đích cụ thể của đường lối đối nội và đối ngoại.
Công tác thông tin đối ngoại là một bộ phận trong chiến lược thông tin
để phục vụ cho lợi ích quốc gia. Ngày nay, trong quan hệ quốc tế hiện đại,
khái niệm "quyền lực mềm" và "ngoại giao công chúng" ngày càng trở nên
phổ biến. Theo đó, thông tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại được coi là công
cụ quan trọng mà các quốc gia đều ra sức triển khai nhằm ảnh hưởng tới dư
luận quốc tế phục vụ cho những mục tiêu chung hay cụ thể của chính sách đối
ngoại. Nhiều nước coi đó là bộ phận thiết yếu, không tách rời của chính sách
đối ngoại và cũng quan trọng như sức mạnh quân sự và kinh tế.
Xét về nội dung, thông tin tuyên truyền đối ngoại bao gồm nhiều lĩnh
vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… Nhưng tựu
chung lại, tuyên truyền đối ngoại tập trung vào một số nội dung chính sau:
- Tuyên truyền đường lối, chính sách, những chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước, đặc biệt trong các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và thành tựu
mọi mặt của Việt Nam. Đối với nước ta hiện nay, tuyên truyền đường lối và
chính sách là làm rõ chủ trương đổi mới toàn diện, chiến lược công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước và đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa
10
đa phương hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế
giới. Tuyên truyền đường lối đổi mới gắn liền với việc quảng bá những thành
tựu mọi mặt mà nước ta đã đạt được trong những năm qua và làm rõ quyết
tâm chính trị, mô hình phát triển của Việt Nam. Làm rõ đường lối, chính sách
sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và tài chính với các đối tác
nước ngoài.
- Tuyên truyền chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối
ngoại trong bối cảnh hiện nay là bao gồm cả kinh tế đối ngoại và trong đó có
cả hợp tác song phương lẫn đa phương. Trong tình hình hiện nay, ta cần tuyên
truyền những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với mọi
đối tác, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và theo nguyên tắc cùng có
lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tuyên truyền đi đôi với
việc phổ biến những văn bản liên quan đến đầu tư kinh tế đối ngoại như
những văn bản pháp lý, những quy định hành chính của ta về đầu tư, thuế,
xuất, nhập khẩu…
Thông tin tuyên truyền đối ngoại không chỉ làm rõ đường lối chính
sách đối ngoại mà còn hỗ trợ cho các hoạt động ngoại giao. Đó là: cung cấp
thông tin về các hoạt động ngoại giao cho báo chí và cho công chúng, chuẩn
bị dư luận, tránh những bất ngờ không cần thiết trong phản ứng của dư luận,
vận động dư luận ủng hộ quan điểm, chính sách của ta, đồng thời phản đối,
đấu tranh dư luận, chống lại những luận điệu sai trái thù địch, phản bác những
thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam nhất là về tình hình dân
chủ, nhân quyền, tôn giáo, biên giới lãnh thổ; ngăn chặn việc truyền bá vào
Việt Nam những quan điểm, tư tưởng, lối sống, văn hóa phản động, đồi trụy,
kích động bạo lực.
- Tuyên truyền về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa Việt Nam .
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là một trong những nội dung của quan hệ quốc
tế. Văn hóa giúp ta hiểu được cốt cách của một dân tộc và nền tảng chính sách

11
đối ngoại của một quốc gia. Đối với ta, nội dung văn hóa lại càng quan trọng
trong thông tin tuyên truyền đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã đề ra nhiệm vụ cho công tác thông tin văn hóa đối ngoại: "Làm tốt việc
giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có
chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến
những kinh nghiệm tốt trong xây dựng và phát triển văn hóa của các nước.
Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy. Giúp đỡ
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà, thu
nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước,
tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng
sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước". Thông tin tuyên
truyền đối ngoại với nội dung văn hóa là cầu nối giữa các dân tộc nhằm tạo ra
một hình ảnh đẹp và những đánh giá thuận lợi về đất nước ta trong các tầng
lớp nhân dân ở các nước.
- Thông tin tuyên truyền quốc tế ở trong nước. Thông tin tuyên truyền
đối ngoại diễn ra theo hai chiều từ trong nước ra bên ngoài và ngược lại.
Chiều ngược lại đôi khi ít được quan tâm do nhiều lý do khác nhau. Ngày nay
do có những tiến bộ về công nghệ thông tin và nhu cầu về thông tin của nhân
dân ngày càng phong phú và đa dạng, thông tin quốc tế không thể thiếu được.
Một mặt, người dân không muốn thụ động đối với chính sách đối ngoại mà
Chính phủ nước họ đề ra. Mặt khác, người dân không chỉ muốn biết những gì
diễn ra trong nước, mà còn muốn được thông tin về quốc tế. Nội dung của
thông tin quốc tế trong nước bao gồm:
+ Tuyên truyền đường lối quốc tế của Đảng và Nhà nước.
+ Nói rõ và giải thích quan điểm của Việt Nam về những vấn đề quốc
tế mà nhân dân ta đặc biệt quan tâm.
12
+ Cung cấp thông tin theo quan điểm của nước mình về tình hình quốc tế.

+ Đánh giá xu thế phát triển của tình hình thế giới.
+ Cung cấp thông tin về các nước trên thế giới, về các vấn đề mà thế
giới cùng quan tâm giải quyết.
Tuyên truyền thông tin quốc tế trong nước nhằm:
+ Đáp ứng nhu cầu thông tin quốc tế về mọi mặt của nhân dân.
+ Phổ biến quan điểm chính thống của ta về các vấn đề quốc tế, như
vậy có thể tránh được những lệch lạc trong quan điểm và nhận thức có thể
xuất hiện trong một số người.
+ Củng cố tình hữu nghị và hợp tác của nhân dân ta với nhân dân các
nước trên thế giới.
1.1.2. Công tác thông tin đối ngoại là một nhiệm vụ của công tác
đối ngoại
Từ khi ra đời và phát triển cho đến nay, dù dưới bất kỳ hình thái kinh
tế - xã hội nào, mỗi nhà nước đều có hai chức năng cơ bản là: chức năng đối
nội và chức năng đối ngoại. Hai chức năng này có mối liên hệ mật thiết, hỗ
trợ, gắn bó với nhau phục vụ lợi ích quốc gia. Đối nội là cơ sở của đối ngoại.
Đối ngoại là sự tiếp tục, kéo dài của đối nội. Mặt trận đối ngoại tìm ra và khai
thác tốt nhất các nhân tố thuận lợi bên ngoài phục vụ cho các mục tiêu bên
trong, phát triển đất nước, phát hiện các nguy cơ, thách thức bên ngoài để tìm
cách hạn chế và khắc phục. Các quốc gia thông qua hoạt động đối ngoại nhằm
nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Đối ngoại là nhằm phục vụ mục
tiêu cách mạng trong nước nhưng phải phù hợp với xu hướng, quy luật vận
động của thế giới mới có thể phát huy hết nhiệm vụ, chức năng của mình.
Mục đích của thông tin tuyên truyền đối ngoại cũng là mục đích của
hoạt động đối ngoại. Một mặt là phải làm cho bạn bè cũng như các đối tác
13
trên thế giới hiểu rõ nước mình, mặt khác là góp phần thực hiện mục tiêu cách
mạng đề ra. Trong mọi thời kỳ, mục đích của chính sách đối ngoại, các hoạt
động đối ngoại đều nhằm phục vụ ba mục tiêu cơ bản là:
- Góp phần đảm bảo độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia và sự toàn

vẹn lãnh thổ (thường gọi là mục tiêu an ninh).
- Tranh thủ ngoại lực và tạo dựng điều kiện quốc tế thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội đất nước (hay mục tiêu phát triển).
- Góp phần nâng cao địa vị quốc gia, mở rộng tầm ảnh hưởng ra phạm
vi khu vực và thế giới (mục tiêu ảnh hưởng).
Chính sách đối ngoại chính là cách xử thế mối quan hệ với các nước
khác. Muốn vậy, các nước đều phải am hiểu và thu thập thông tin về các
nước, đồng thời phải tuyên truyền ra bên ngoài để thế giới hiểu được mình.
Làm rõ đường lối, chính sách cũng là một biện pháp hạn chế hành động của
những lực lượng thù địch, lợi dụng tình trạng thiếu thông tin để xuyên tạc gây
ra những bất lợi cho quốc gia.
Là một bộ phận của hoạt động đối ngoại, thông tin tuyên truyền đối
ngoại không thể nằm ngoài và độc lập với công tác đối ngoại và khi hoạch
định chính sách đối ngoại, các nước đều đề ra chủ trương, nếu không nói là
chiến lược tuyên truyền đối ngoại. Thông tin tuyên truyền đối ngoại có vai trò
to lớn và đóng góp thiết thực đối với việc hoàn thành các nhiệm vụ của công
tác đối ngoại trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Đối với các nước trên thế giới, Bộ Ngoại giao thường chịu trách
nhiệm về tuyên truyền đối ngoại. Ở Việt Nam cũng vậy, Bộ Ngoại giao "là cơ
quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công
tác ngoại giao", vừa trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này. Hiện nay, dù một nước
nhỏ đến đâu, khi tiến hành mở cơ quan đại diện ngoại giao, đều lập phòng
thông tin hoặc cử cán bộ phụ trách báo chí, văn hóa tuyên truyền đối ngoại.
14
Cơ quan đại diện ngoại giao có nhiệm vụ "tiến hành công tác thông tin, giới
thiệu về Việt Nam để chính quyền và nhân dân nước tiếp nhận hiểu biết về
Việt Nam" [33].
Bên cạnh đó, thông tin đối ngoại còn là một bộ phận của công tác tư
tưởng - văn hóa trên phạm vi quốc tế.
Công tác tư tưởng hình thành từ khi xã hội có giai cấp và phát triển

trong quá trình lịch sử loài người. Mọi chính Đảng, Nhà nước đều tiến hành
công tác tư tưởng, coi đó là hoạt động quan trọng vào bậc nhất của mình, sử
dụng mọi tinh hoa văn hóa, mọi phát minh khoa học mới nhất kể cả những
thành tựu công nghệ tiên tiến nhất cho công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng
của Đảng ta là hoạt động đa dạng và có chủ đích nhằm xây dựng, xác lập,
phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá
trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho con người, thúc
đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng
và mục tiêu cách mạng của chủ nghĩa xã hội.
Nói đến công tác tư tưởng - văn hóa, mọi người thường chỉ liên tưởng
đến phạm vi quốc gia. Nhưng trên thực tế, thông tin tuyên truyền đối ngoại là
sự tiếp tục của công tác tư tưởng - văn hóa trên phạm vi quốc tế với đối tượng
khá phức tạp và đa dạng hơn. Nếu trong nước, thông tin tuyên truyền nhằm
làm cho mọi công dân quán triệt rồi triển khai thực hiện những chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước, thì trên phạm vi quốc tế, văn hóa - thông tin tuyên
truyền đối ngoại thực chất là nhằm tranh thủ dư luận thế giới, góp phần vào việc
thực hiện nhiệm vụ cách mạng được xác định cho một giai đoạn nhất định.
Hiện nay, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là tập trung phát triển
kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế. Để thực hiện nhiệm vụ này,
Việt Nam cần phát huy tối đa nội lực, đồng thời phải biết tận dụng mọi khả
năng hợp tác quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp. Nhiệm vụ của văn hóa,
15
thông tin tuyên truyền đối ngoại chính là làm cho thế giới hiểu rõ mục tiêu
trên và góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Thật vậy, văn hóa - thông tin đối ngoại được Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X năm 2006 nhấn mạnh nhiệm vụ: "Đẩy mạnh công tác văn hóa -
thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân
dân ta với nhân dân các nước" [15, tr. 115]. Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa
đối ngoại được xác định có vai trò quan trọng, là một trong ba trụ cột của

chính sách đối ngoại và nền ngoại giao hiện đại: Ngoại giao Chính trị - Ngoại
giao Kinh tế - Ngoại giao Văn hóa.
Ở nước ta, mặc dù cho tới những năm gần đây, khái niệm Ngoại giao
Văn hóa mới được sử dụng rộng rãi song trên thực tế, Ngoại giao Văn hóa đã
có lịch sử phát triển lâu đời xuất phát từ đặc trưng văn hóa hàng năm lịch sử
của dân tộc và từ nhu cầu xây dựng và phát triển quan hệ hòa bình, hữu nghị
với các quốc gia láng giềng. Tại Hội nghị Ngoại giao 26 diễn ra từ ngày 1/12
đến 10/12/2008 chọn năm 2009 là "Năm Ngoại giao Văn hóa". Trên tinh thần
đó, văn hóa đối ngoại sẽ được triển khai tập trung chủ yếu vào một số điểm
như tăng cường gắn kết chặt chẽ các hoạt động văn hóa đối ngoại với chính trị
đối ngoại và kinh tế đối ngoại phục vụ mục tiêu phát triển và hội nhập, tiếp
tục tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, đẩy mạnh
các hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế, quảng bá các giá trị văn hóa dân tộc,
di sản văn hóa lịch sử, triển khai tuyên truyền đối ngoại các đề án, chương
trình nhân dịp các ngày lễ lớn của ta. Văn hóa đối ngoại là một kênh quan
trọng tăng cường sự hiểu biết và phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt với các
nước. Nó bổ trợ rất hữu hiệu cho các trụ cột khác, tạo thành một chỉnh thể
chính sách đối ngoại phát huy tốt nhất sức mạnh dân tộc và kết hợp hiệu quả
với sức mạnh thời đại
Nội dung văn hóa - tuyên truyền đối ngoại cũng bao hàm những lĩnh
vực được xác định cho công tác tư tưởng - văn hóa ở trong nước. Nếu có khác
16
chính là ở chỗ tuyên truyền đối ngoại cần nhấn mạnh đến quyết tâm chính trị
trong việc thực hiện đường lối đã chọn cũng như khả năng và tiềm năng hợp
tác quốc tế của nhà nước mình. Cụ thể trong giai đoạn hiện nay tuyên truyền
đối ngoại cần làm rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đường lối
chính trị đổi mới toàn diện và những chính sách, biện pháp cụ thể do chính
phủ Việt Nam đưa ra nhằm cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam và xây dựng quan hệ đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới.
1.1.3. Đối tượng của thông tin đối ngoại

Thông tin tuyên truyền đối ngoại đa dạng về hình thức, phong phú về nội
dung. Nhưng đối tượng tuyên truyền khá đặc biệt - chủ yếu là người nước ngoài.
Đối tượng thông tin đối ngoại khác cơ bản với thông tin đối nội. Đối
tượng của thông tin đối nội là cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân
trong nước. Tuyệt đại đa số đối tượng này tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, nhất trí với đường lối, chính sách của Nhà nước. Người làm công tác
tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền cùng có điểm chung về văn hóa,
truyền thống và cách suy nghĩ. Ngược lại, trong tuyên truyền đối ngoại, giữa
người làm tuyên truyền và đối tượng cần tuyên truyền có sự khác nhau thậm
chí đôi khi là đối lập về cách tư duy, cách suy nghĩ, văn hóa, truyền thống,
phong tục tập quán…
Đối tượng của thông tin tuyên truyền đối ngoại gồm nhiều tầng lớp,
giai cấp, thành phần xã hội với trình độ nhận thức, hiểu biết và có mối quan
tâm khác nhau đến Việt Nam. Có thể phân chia ra hai loại đối tượng: đối
tượng bên ngoài ở tại các nước (bao gồm cả người nước ngoài và Việt kiều)
và đối tượng bên trong (gồm người nước ngoài ở Việt Nam).
* Đối tượng bên ngoài ở các nước
Chính giới: Gồm các nghị sĩ Quốc hội, quan chức chính phủ, các chính
khách, các nhà hoạt động chính trị ở các cấp. Đây là nhóm đối tượng có vai
17
trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối nội và đối ngoại. Họ là
nhóm đối tượng đặc biệt và nếu ta có quan hệ chặt chẽ và làm tốt việc cung
cấp thông tin cho đối tượng này, tác động đến họ, thì họ sẽ có thể là lực lượng
hậu thuẫn cho nhũng chính sách của nước đó với ta. Thông tin mà ta cần cung
cấp cho những đối tượng này là các chủ trương chính sách lớn của đất nước ta
và những vấn đề có liên hệ trực tiếp tới quan hệ song phương hoặc những
thông tin mà từng nhóm đối tượng cần đến liên quan đến một hoặc nhiều lĩnh
vực nào đó ở Việt Nam.
Giới kinh doanh: Là các công ty, các nhà đầu tư, kinh tế, tài chính.
Đây là một lực lượng có vai trò rất quan trọng trong việc thực thi các chiến

lược kinh tế của nước họ ở nước ngoài.
Trong bối cảnh chúng ta kêu gọi đầu tư, tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, để có thể tranh thủ được nhóm này, cần tích cực cung cấp cho
họ thông tin về chính sách kinh tế, các biện pháp khuyến khích đầu tư, các lợi
ích kinh tế cụ thể mà họ có thể thu hoạch được khi làm ăn với Việt Nam. Khi
mối quan tâm về lợi ích kinh tế của các công ty đối với ta đủ lớn, thì họ sẽ
vận động Chính phủ nước họ có những quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam để
qua đó tạo thuận lợi hơn nữa cho việc làm ăn kinh doanh của họ.
Giới học giả: Là các nhà nghiên cứu, các giáo sư giảng dạy tại các
trường đại học hoặc các trung tâm nghiên cứu. Tại các nước, nhóm đối tượng
này có vai trò tư vấn trong việc tham gia hoạch định hoặc thẩm định chính
sách đối nội và đối ngoại. Là những nhà nghiên cứu, họ cần thông tin "đầu
tay" để có được sự đánh giá, nhận xét chính xác về tình hình chung cũng như
trong một lĩnh vực cụ thể của một quốc gia. Do đó, tùy theo khả năng, ta nên
tranh thủ đối tượng này qua việc cung cấp thông tin, trao đổi, tiếp xúc, tổ
chức hội htảo, hội nghị tạo điều kiện cho họ tiếp cận các cấp lãnh đạo của ta.
Quần chúng nhân dân các nước: Đây là nhóm đối tượng đông đảo
nhất và nếu được vận động, họ sẽ trở thành một lực lượng hậu thuẫn hùng
18
hậu. Sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với Việt Nam trong thời gian chiến
tranh là một minh chứng. Đối với nhóm đối tượng này, hình thức thông tin cần
đa dạng phong phú, chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, làm ăn hoặc định cư ở
nước ngoài: Với hơn 3 triệu người Việt sống rải rác trên khắp thế giới, cộng
đồng người Việt đóng vai trò cầu nối văn hóa và phần nào là cầu nối kinh tế
thương mại giữa Việt Nam và các nước nơi họ sinh sống. Dù ra đi vì lý do
nào, những người Việt Nam đều tự hào về các giá trị truyền thống và tìm cách
gìn giữ và phát huy các giá trị đó và là đại diện và hiện thân của nền văn hóa
và con người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, những người Việt Nam ở nước
ngoài vừa là một đối tượng đặc biệt của thông tin đối ngoại, vừa là lực lượng

tham gia thực hiện công tác này một cách tự nhiên.
Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước chú trọng tới việc đáp ứng các nhu cầu
thông tin và tình cảm của người Việt ở nước ngoài. Từ chương trình phát
thanh "Dành cho đồng bào Việt Nam xa Tổ quốc" của Đài Tiếng nói Việt Nam
được phát vào đêm thứ Sáu hàng tuần trong những năm 80, ngày nay chúng ta
đã có VTV4 phát 24/24 được phủ sóng vệ tinh tới tất cả các khu vực trên thế giới
có người Việt Nam sinh sống, chúng ta đã có hàng ngàn trang web của các báo,
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, và nhiều ấn phẩm đa truyền thông phục vụ
riêng cho đối tượng này, giúp cho đồng bào có nguồn thông tin đa dạng về Tổ
quốc. Để gây được tác động tốt đến họ, cần phải có không chỉ chính sách tốt
mà còn cả sự thực hiện nghiêm chỉnh chính sách đó ở các cấp, tránh gây phiền
nhiễu cho họ và tạo điều kiện tốt cho họ trở về làm ăn, sinh sống tại quê nhà.
* Đối tượng ở trong nước
Cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam: Các cán bộ, nhân viên
thuộc các cơ quan đại diện ngoại giao, đoàn ngoại giao; các đại diện, nhân
viên các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ; các nhà đầu tư, kinh
doanh, chuyên gia các lĩnh vực, các đoàn khách đến thăm viếng, khách du
19
lịch, đặc biệt chú ý tới đội ngũ phóng viên báo chí nước ngoài đang hoạt động
báo chí tại Việt Nam (bao gồm phóng viên thường trú và phóng viên nước
ngoài đến Việt Nam tác nghiệp trong thời gian ngắn), sinh viên trí thức. Đây
là những đối tượng trực tiếp chứng kiến tình hình chính trị xã hội, kinh tế, văn
hóa của đất nước ta. Ngoài việc hợp tác với các cơ quan chính phủ và địa
phương trong việc hỗ trợ phát triển, theo dõi tình hình về nhân quyền, tôn
giáo, tự do báo chí…, nhóm đối tượng này thường ra các báo cáo hàng năm
về tình hình mọi mặt của Việt Nam, trực tiếp kiến nghị và thực hiện các chính
sách quan hệ với đất nước ta và họ có thể tạo ra dư luận thuận hoặc bất lợi
cho ta. Do đó mục đích của công tác thông tin đối ngoại là đem lại cho họ
những ấn tượng tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam.
Riêng phóng viên nước ngoài, đây là kênh thông tin quan trọng, tin

tức của họ về Việt Nam được đông đảo dư luận thế giới quan tâm theo dõi.
Thông qua hệ thống phân phối, bán tin của các hãng truyền thông đại chúng
nước ngoài, bức tranh về Việt Nam do các phóng viên nước ngoài thực hiện
đến được với mạng lưới lớn người xem. Về mặt này, ta dù có phương tiện hiện
đại và nguồn lực lớn cũng không thể làm được. Trừ những phóng viên và các
hãng thông tấn cố tình tập trung vào những vấn đề nhạy cảm mà ta không có nhu
cầu tuyên truyền, đa số các hãng thông tấn báo chí nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam đang gián tiếp giúp chúng ta thực hiện thông tin đối ngoại. Nhờ họ mà
hình ảnh về Việt Nam ở nước ngoài đang thay đổi. Việt Nam đang được biết
đến không phải là cuộc chiến tranh mà là một đất nước đang vươn mình đứng
dậy, có nền kinh tế tăng trưởng cao và hấp dẫn du khách và các nhà đầu tư,
kinh doanh. Vô hình chung, phóng viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam vừa
là chủ thể làm thông tin đối ngoại vừa là đối tượng của thông tin đối ngoại.
Đông đảo nhân dân cũng là một đối tượng đặc biệt của thông tin đối
ngoại bên cạnh người nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay, trình độ dân trí ngày
càng tăng và nhân dân ngày càng có những nhận thức sâu sắc hơn về tình
20
hình trong nước và quốc tế. Trong bối cảnh các lực lượng thù địch ra sức
tuyên truyền cho các giá trị phương Tây, bôi xấu, xuyên tạc các chính sách
của Đảng và Nhà nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại, công tác thông
tin đối ngoại cần được tăng cường nhằm đem lại cho nhân dân nhận thức
đúng đắn nhất về chính sách của Đảng và Nhà nước, phản bác lại các luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trong giai đoạn hiện nay so với thời kỳ ta tiến hành cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, cả hai loại đối tượng nêu trên đều đã có sự phân hóa sâu
sắc về thành phần cũng như tâm tư, tình cảm của họ đối với Việt Nam. Nếu
trước đây, cơ sở để vận động dư luận và tập hợp lực lượng tạo ra mặt trận
quốc tế đoàn kết với Việt Nam là tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân ta và tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh
xâm lược do đế quốc tiến hành chống lại nhân dân Việt Nam, thì ngày nay cơ

sở đó, mặc dù vẫn còn yếu tố tình cảm, cơ bản là khả năng hợp tác của Việt
Nam và quyền lợi của các bên.
Hơn thế nữa, đối tượng tuyên truyền không những chỉ nhận thông tin mà
còn thu thập xử lý thông tin về tất cả các lĩnh vực của Việt Nam để cung cấp ra
bên ngoài theo quan điểm của họ. Những người này không chỉ là phóng viên mà
cả các đối tượng khác như giới kinh doanh, viên chức ngoại giao, khách đến thăm.
1.1.4. Lực lượng tham gia công tác thông tin đối ngoại
Hiện nay, ở nước ta, tham gia vào công tác thông tin đối ngoài bao gồm
các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan truyền thông đại chúng, đoàn thể quần
chúng và cơ quan đại diện của ta tại nước ngoài. Bên cạnh đó còn có sự tham
gia của Việt kiều và những cá nhân, tổ chức nước ngoài có thiện chí với ta.
* Lực lượng trực tiếp làm công tác thông tin đối ngoại
Lực lượng quan trọng, đứng tuyến đầu trong công tác thông tin đối ngoại
là các cơ quan truyền thông đại chúng. Theo Cục Báo chí, Bộ Thông tin và
21
Truyền thông, tính đến tháng 12 năm 2007, cả nước có 633 cơ quan báo chí in
với 813 ấn phẩm, gồm có 174 báo (Trung ương 73, địa phương 101), 459 tạp chí
(Trung ương 353, địa phương 106) và hơn 1.000 bản tin của các cơ quan, tổ
chức ở Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hàng năm
số lượng bản báo được phát hành ở Việt Nam khoảng 600 triệu bản, bình quân
có 8 bản báo/người/năm. Nhiều cơ quan bộ, ngành đã lập các trang web riêng
Thông tấn xã Việt Nam có 9 đơn vị làm công tác thông tin đối ngoại.
Bản tin đối ngoại hàng ngày bằng 4 thứ tiếng (Việt, Anh, Pháp, Tây Ban
Nha), có 25 phân xã ngoài nước, quan hệ với 40 hãng thông tấn quốc gia và
quốc tế. Đài Tiếng nói Việt Nam có 4 loại hình, đơn vị chủ yếu tham gia công
tác thông tin đối ngoại, đã mở 6 cơ quan thường trú ở Nga, Trung Quốc, Thái
Lan, Pháp, Ai Cập, Nhật Bản. Đài đưa lên mạng internet 4 hệ phát thanh là
VOV1, VOV2, VOV3, VOV6, riêng chương trình đối ngoại tầm xa (VOV6)
với 12 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Tây Ban Nha, Nhật, Trung, Lào,
Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Việt Nam). Đài Truyền hình Việt Nam phát 5

bản tin tiếng Anh và Pháp với thời lượng 75phút/ngày. Ban Biên tập đối ngoại
được thành lập từ tháng 5/2002, sản xuất biên tập chương trình VTV4 phủ
sóng các khu vực quan trọng trên thế giới, hầu hết những nơi có đông Việt
kiều sinh sống, sắp tới là VTV8 chuyên phát đối ngoại qua vệ tinh.
Với những tiến bộ vượt bậc của kỹ thuật truyền thông, thông tin đã
được trở nên "không biên giới", khó có sự phân định rạch ròi giữa thông tin
đối nội và đối ngoại. Do vậy, mọi phương tiện truyền thông đại chúng đều
được sử dụng cho cả thông tin đối nội và thông tin đối ngoại. Tuy nhiên,
thông tin đối ngoại còn sử dụng những phương tiện riêng có tính chất đặc thù,
đặc biệt là sử dụng những phương tiện truyền thông của nước ngoài để thông
tin về nước mình.
Ngoài việc sử dụng các hình thức tuyên truyền có tính truyền thống
thông qua các phương tiện truyền thông quốc gia và quốc tế như ấn phẩm,
22
báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử, thông tin tuyên truyền đối ngoại có
thể được tiến hành qua các kênh khác. Đó là trao đổi các hoạt động ngoại
giao, đoàn thăm viếng, học tập, hội thảo, du lịch, sáng tác, trao đổi thương mại,
biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao, tổ chức các ngày và tuần lễ văn hóa dân
tộc, triển lãm ảnh, liên hoan phim, tổ chức các hội chợ Việt Nam… Những
hoạt động này ngày càng có vai trò quan trọng trong xã hội toàn cầu hóa hiện
nay.
* Lực lượng làm gián tiếp làm công tác thông tin đối ngoại
- Như đã đề cập ở trên, phóng viên nước ngoài vào Việt Nam hoạt
động (cả thường trú và ngắn hạn) vừa là đối tượng vừa là lực lượng tham gia
làm công tác thông tin đối ngoại của ta. Thật vậy, số lượng phóng viên nước
ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng. Ngày càng có nhiều hãng truyền
thông muốn hợp tác với Việt Nam trong công tác quảng bá hình ảnh vì nắm
bắt được nhu cầu thông tin về Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay có 26 văn
phòng báo chí nước ngoài thường trú tại Việt Nam và hàng năm ta đón
khoảng 1.000 phóng viên từ các châu lục vào ta hoạt động ngắn ngày.

- Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều người Việt Nam ra
nước ngoài học tập, công tác, sinh sống. Họ ra nước ngoài mang theo và đại
diện cho hình ảnh của một đất nước cởi mở đang phát triển năng động thay
thế hình ảnh Việt Nam tận cùng của đói nghèo và chia rẽ do những "thuyền
nhân" thập kỷ 70 và 80 mang ra.
- Các tập đoàn, công ty nước ngoài, các tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam ngày càng nhiều, lợi ích của họ gắn bó với Việt Nam. Bản thân sự hiện
diện và hoạt động có hiệu quả của các công ty lớn như Ford, Nike, Intel,
Microsoft… tại Việt Nam đã có giá trị quảng bá rất lớn cho Việt Nam. Các
công ty nước ngoài cũng có kênh thông tin và mạng lưới quan hệ riêng, rất
rộng rãi và hiệu quả. Bản thân các doanh nghiệp nước ngoài làm ăn tại Việt
nam cũng có nhu cầu quảng bá cho hoạt động của mình để nâng cao uy tín và
23
tăng doanh thu, giá trị cổ phiếu trên thị trường chứng khoán…
1.2. HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.2.1. Hoạt động thông tin đối ngoại trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp từ 1945 - 1954
Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đã đánh đổ ách thống trị
của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đập tan chế độ phong kiến, thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi vĩ đại này là kết quả của cuộc
đấu tranh lâu dài của nhân dân các dân tộc Việt Nam, nhất là từ khi có sự lãnh
đạo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ
lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập", khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, khẳng định thắng lợi to lớn của cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam, đứng về phe Đồng minh chống phát xít, giành lại độc lập,
tự do cho Tổ quốc và tuyên bố với thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy" [24, tr. 4].

Ngày 15 tháng 9, bản Tuyên ngôn Độc lập đã được phát đi trên làn
sóng điện của đài phát sóng Bạch Mai (Hà Nội) bằng hai thứ tiếng nước ngoài
là tiếng Anh và tiếng Pháp. Vì vậy ngày 15 tháng 9 năm 1945 được coi là
ngày ra đời của Thông tấn xã và thông tin đối ngoại Việt Nam.
Trong những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám và trong suốt thời
kỳ kháng chiến chống Pháp, hầu hết thông tin trên báo chí của chế độ cũ trong
nước và các hãng thông tấn quốc tế về cuộc kháng chiến đều bị thực dân Pháp
bưng bít hoặc thao túng, bóp méo. Lúc này, thông tin đối ngoại của nước ta
chủ yếu thể hiện qua bản tin đối ngoại phát sóng của Thông tấn xã Việt Nam
và Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Nhiệm vụ của công tác thông tin đối
24
ngoại lúc này là phục vụ mục tiêu của cách mạng kêu gọi sự ủng hộ của nhân
dân, dư luận quốc tế, đoàn kết quốc tế nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của thực dân. Chính vì vậy, ta đã chủ động công tác thông tin đối ngoại
thông qua các bản tin phát sóng và các ấn phẩm. Qua đó thông tin những sự
kiện quan trọng, tuyên truyền những chủ trương, đường lối của Nhà nước Việt
Nam, đánh dấu những mốc quan trọng trong quá trình đấu tranh giải phóng
của nhân dân ta.
Trong giai đoạn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã trực tiếp tích cực tham gia và đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động tuyên truyền đối ngoại. Bác Hồ là người đi đầu trong việc dành nhiều
thời gian trả lời phỏng vấn phóng viên trong nước và nước ngoài. Bác khẳng
định: Việt Nam muốn "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù
oán với một ai" [21]. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi sự ủng hộ của
nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam tạo nên sức mạnh tổng hợp
để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân.
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập các quan hệ với một số nước ở Đông Nam Á,
tuyên truyền quốc tế, phát triển ngoại giao nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của
các lực lượng tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chống thực dân

xâm lược. Bước đầu Chính phủ ta đã mở Phái viên quán ở Bangkok (Thái
Lan) tháng 7/1946, ra các bản tin tiếng Việt, Thái và Anh để gửi cho Việt
kiều, Đại sứ quán các nước và các tổ chức quốc tế. Cơ quan Phái viên chuyển
về Việt Bắc các phỏng vấn của các nhà báo quốc tế và chuyển các câu trả lời
từ trong nước bằng tiếng Anh cho các nhà báo. Bangkok đã trở thành đầu mối
quốc tế để mở rộng hoạt động của Việt Nam tại hải ngoại. Tiếp đó, tháng
2/1948 ta lập phòng thông tin ở Răng-gun (Myanmar) và sau đó là phòng
thông tin tại New Delhi (Ấn Độ) năm 1951. Khi chuẩn bị về nước sau chuyến
thăm Pháp với danh nghĩa là thượng khách của Chính phủ Pháp, tháng
25

×