Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em luận văn ths pháp luật và quyền con người 002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

PH¸P LUậT QUốC Tế Và PHáP LUậT VIệT NAM
Về NGĂN NGừA Và XóA Bỏ LAO ĐộNG TRẻ EM
Chuyờn ngnh: Phỏp lut về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Vân Anh



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA NGĂN NGỪA VÀ
XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ............................................................ 7
1.1.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM QUAN TRỌNG .................................................. 7

1.1.1.

Trẻ em ........................................................................................................... 7

1.1.2.

Quyền trẻ em ................................................................................................ 9

1.1.3.

Lao động trẻ em ......................................................................................... 11

1.1.4.


Ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ..................................................... 21

1.2.

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG TIÊU
CỰC CỦA LAO ĐỘNG TRẺ EM TRÊN THẾ GIỚI .......................... 22

1.2.1.

Thực trạng ................................................................................................... 22

1.2.2.

Nguyên nhân .............................................................................................. 26

1.2.3.

Tác động tiêu cực ....................................................................................... 28

1.3.

MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGĂN NGỪA VÀ XÓA
BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ....................................................................... 30

1.3.1.

Mục đích ..................................................................................................... 30

1.3.2.


Ý nghĩa ........................................................................................................ 32

Kết luận Chƣơng 1..................................................................................................... 34
Chƣơng 2: KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO
ĐỘNG TRẺ EM ...................................................................................... 35


2.1.

KHN KHỔ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ NGĂN NGỪA
VÀ XĨA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ..................................................... 35

2.1.1.

Khái quát các văn bản pháp luật quốc tế về ngăn ngừa và xóa bỏ
lao động trẻ em ........................................................................................... 35

2.1.2.

Pháp luật quốc tế về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ................... 45

2.2.

KHN KHỔ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGĂN NGỪA
VÀ XĨA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ..................................................... 58

2.2.1.

Khái quát các văn bản pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa

bỏ lao động trẻ em ...................................................................................... 58

2.2.2.

Pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em .............. 63

2.3.

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TƢƠNG THÍCH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ NGĂN NGỪA
VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ..................................................... 79

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VÀ
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO
ĐỘNG TRẺ EM Ở VIỆT NAM ........................................................... 81
3.1.

THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM .......................... 81

3.1.1.

Khái quát thực trạng, nguyên nhân và tác động tiêu cực của lao
động trẻ em ở Việt Nam ............................................................................ 81

3.1.2.

Thực trạng thực thi pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động
trẻ em ở Việt Nam ...................................................................................... 84


3.2.

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO
ĐỘNG TRẺ EM ........................................................................................ 92

3.2.1.

Sự cần thiết phải hồn thiện khn khổ pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ...................................................... 92


3.2.2.

Quan điểm về hồn thiện khn khổ pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ...................................................... 94

3.2.3.

Những giải pháp cụ thể về hồn thiện khn khổ pháp luật Việt
Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ........................................ 96

3.2.4.

Một số biện pháp hỗ trợ khác .................................................................102

Kết luận Chƣơng 3 ..................................................................................................104
KẾT LUẬN ..............................................................................................................105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................107



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Công ƣớc số 138

Công ƣớc số 138 của ILO về tuổi lao động tối thiểu
(Minimum Age Convention), 1973

Công ƣớc số 182

Công ƣớc số 182 của ILO về cấm và hành động ngay lập
tức nhằm xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất (Worst Forms of Child Labour Convention), 1999

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế (the International Labour
Organization)

IPEC

Chƣơng trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của
ILO (International Programme on the Elimination of
Child Labour)

Khuyến nghị số 146

Khuyến nghị số 146 của ILO về tuổi lao động tối thiểu
(Minimum Age Recommendation), 1973


Khuyến nghị số 190

Khuyến nghị số 190 của ILO về cấm và hành động ngay
lập tức nhằm xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em
tồi

tệ

nhất

(Worst

Forms

of

Child

Labour

Recommendation), 1999
SIMPOC

Chƣơng trình Thông tin thống kê và giám sát lao động trẻ
em (Statistical Information and Monitoring Programme on
Child Labour)

UNICEF


Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (United Nations Children’s
Fund)


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1: Phân loại lao động trẻ em dựa theo tính chất nguy hại

17

Bảng 1.2: Phân loại lao động trẻ em theo tình trạng công việc

19

Bảng 1.3: Phân loại lao động trẻ em theo lĩnh vực ngành nghề

21

Bảng 1.4: Thống kê tỷ lệ lao động trẻ em trong nhóm tuổi từ 5-17,
năm 2000-2012

24

Bảng 2.1: Mức tuổi lao động tối thiểu xác lập theo Công ƣớc số 138
của ILO

Bảng 2.2: Độ tuổi lao động tối thiểu theo pháp luật Việt Nam
Bảng 2.3

45
64

Bảng đối chiếu giữa những hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất theo Cơng ƣớc số 182 và các tội có liên quan trong Bộ
luật Hình sự Việt Nam

76


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trên thế giới, tình trạng lao động trẻ em vẫn là một hiện
tƣợng phổ biến, trong đó, nhiều trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều
kiện độc hại, nguy hiểm và bị khai thác triệt để. Những mối nguy hại đe dọa
từ lao động trẻ em thay đổi tùy thuộc vào loại hình lao động, điều kiện lao
động và để lại những hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển bình thƣờng của
trẻ. Không những thế, lao động trẻ em gia tăng còn gây ra những tác động tiêu
cực tới cộng đồng, xã hội, tăng trƣởng kinh tế và sự phát triển lâu dài của mỗi
quốc gia. Vì vậy, ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em là mục tiêu chung mà
cộng đồng quốc tế đang hƣớng tới.
Ở Việt Nam, số lƣợng trẻ em lao động vẫn còn ở mức cao, trong đó có
nhiều em đang rơi vào những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đƣợc quy
định trong Công ƣớc số 182 của ILO về cấm và hành động ngay lập tức để
xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Thực tế đó đặt ra những
yêu cầu cấp bách cho Chính phủ và tồn xã hội Việt Nam trong việc ngăn
ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.

Nhà nƣớc Việt Nam đã rất tích cực trong vấn đề đảm bảo thực hiện quyền
trẻ em. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê
chuẩn Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Việt Nam cũng đã phê
chuẩn và gia nhập cả hai điều ƣớc chủ chốt của ILO về lao động trẻ em, bao gồm
Công ƣớc số 182 và Công ƣớc số 138 về tuổi lao động tối thiểu. Đây là những
bằng chứng cho thấy cam kết mạnh mẽ của nhà nƣớc Việt Nam trong việc bảo
vệ quyền trẻ em nói chung và ngăn ngừa, xóa bỏ lao động trẻ em nói riêng.
Mặc dù vậy, Việt Nam hiện vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn
trong việc giải quyết vấn đề lao động trẻ em. Các nguyên nhân cơ bản dẫn đến

1


tình trạng lao động trẻ em ở Việt Nam gồm có: do nghèo đói, do ngƣời sử
dụng lao động muốn tiết kiệm chi phí sản xuất đã sử dụng lao động trẻ em với
tiền công rẻ mạt, do sự thiếu hiểu biết của một bộ phận dân cƣ về điều kiện
làm việc, về nguy cơ tiềm ẩn khi trẻ em tham gia lao động… Tuy nhiên,
không thể kể đến nguyên nhân quan trọng là pháp luật về lao động trẻ em còn
bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định: quy định hiện hành liên quan trực
tiếp đến lao động trẻ em cịn ít, đặc biệt là chƣa xây dựng hoàn thiện khung
pháp lý quy định các vấn đề cơ bản về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em
cịn kém hiệu quả, công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật lao
động trẻ em vẫn hạn chế và bị coi nhẹ, việc tuyên truyền và phổ biến pháp
luật trong lĩnh vực này chƣa thƣờng xuyên và chƣa sâu rộng. Điều này đòi hỏi
một số quy định pháp luật lao động, pháp luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em cần đƣợc sửa đổi, bổ sung nhằm điều chỉnh và phù hợp với tình trạng
lao động trẻ em đang ngày một gia tăng và diễn biến phức tạp.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em” làm đề tài

luận văn thạc sĩ của mình, nhằm nghiên cứu pháp luật quốc tế và làm sáng
tỏ lý luận, thực tiễn pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ở
Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề lao động trẻ em đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế
và đƣợc tổ chức nghiên cứu ở nhiều phạm vi khác nhau. Có thể kể tới các báo
cáo thƣờng kỳ của Tổ chức Lao động quốc tế ILO nhƣ: Báo cáo về xu hướng
lao động trẻ em toàn cầu giai đoạn 2000-2004, 2004-2008, 2008-2012, Báo
cáo “Đánh dấu sự tiến bộ chống lại lao động trẻ em năm 2013”... Các báo

2


cáo này đã đƣa ra tình hình lao động trẻ em ở nhiều khu vực trên thế giới và
chỉ ra những nỗ lực của nhiều quốc gia trong việc ngăn chặn và loại bỏ các
hình thức lao động trẻ em tồi tệ. Báo cáo cũng khuyến nghị các quốc gia thực
hiện các chính sách kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo cần thiết nhằm loại
bỏ lao động trẻ em.
Ở Việt Nam, ngày càng có nhiều cơng trình khoa học, báo cáo thƣờng
kỳ, bài viết và các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề về lao động trẻ em, lao
động chƣa thành niên. Có thể kể đến một số cơng trình nhƣ:
“Vấn đề lao động trẻ em” của Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Hà Nội, năm 2000, phân tích vấn đề lao động trẻ em trên thế giới và
vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam hiện nay, đƣa ra các giải pháp nhằm giải
quyết vấn đề lao động trẻ em trong nền kinh tế thị trƣờng.
Bài viết “Quản lý và ngăn ngừa lao động trẻ em ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Nguyễn Bao Cƣờng đăng trên Bản tin số 23 - Viện Khoa học và
Lao động xã hội đƣa ra một số điểm cơ bản về tình trạng, nguyên nhân của
lao động trẻ em, một số hoạt động ƣu tiên nhằm giải quyết tình trạng lao động

trẻ em giai đoạn 2010-2015.
Bài viết “Giúp trẻ thốt khỏi các hình thức lao động tồi tệ: cần sự
chung tay của toàn xã hội” của tác giả Anh Nguyễn đăng trên Báo Giáo dục
và Thời đại số 22 ra ngày 30.5.2010; bài viết “Xóa bỏ lao động trẻ em - một
việc làm cấp bách” của tác giả Lan Hƣơng đăng trên Tạp chí Cộng sản số 844
ra ngày 01-4-2013; bài viết “Giải quyết vấn đề lao động trẻ em và trẻ em lang
thang trong Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” của tác giả
Quách Thị Quế đăng trên Tạp chí Cộng sản số 846 ra ngày 01-06-2013... và
một số bài báo, tạp chí khác. Tuy nhiên, các bài viết, cơng trình này chủ yếu
tập trung vào đối tƣợng trẻ em và lao động trẻ em mà không đi sâu vào nghiên
cứu vấn đề ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em hoặc nếu có đề cập tới vấn

3


đề xóa bỏ lao động trẻ em thì mới chỉ đƣợc thực hiện dƣới góc độ kinh tế, xã
hội mà chƣa đề cập nhiều dƣới góc độ luật học.
Tóm lại, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu dƣới các dạng khác nhau
về vấn đề lao động trẻ em nhƣng các cơng trình nghiên cứu này hầu nhƣ chƣa đề
cập tới ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em - mục tiêu chung mà cộng đồng
quốc tế đang hƣớng tới cũng nhƣ chƣa đƣa ra đƣợc những bất cập của thực trạng
pháp luật về vấn đề này. Cho nên, có thể nói đề tài “Pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em là cơng trình đầu tiên
nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện và cập nhật về pháp luật quốc tế và
thực tiễn pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến việc ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, đồng thời đƣa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.

Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn
đề cụ thể sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của việc cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
- Nghiên cứu, phân tích nội dung các Cơng ƣớc quốc tế liên quan đến
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em
ở Việt Nam.
- Tổng kết lý luận và đánh giá thực tiễn, luận văn đề xuất phƣơng
hƣớng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ
em ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Lao động trẻ em là vấn đề phức tạp, liên quan tới cả các lĩnh vực kinh
tế, xã hội. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định cơ bản

4


của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động
trẻ em; phân tích, đánh giá việc thực thi pháp luật về vấn đề trên tại Việt Nam
và từ đó nêu ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luâ ̣n văn đƣơ ̣c tiế p câ ̣n nghiên cƣ́u trên cơ sở kế thƣ̀a các công trin
̀ h
nghiên cƣ́u trƣớc đây cùng cơ sở lý luâ ̣n và pháp luâ ̣t thƣ̣c đinh
̣ quố c tế và của
Viê ̣t Nam về lao động trẻ em nói chung và ngăn ngừa , xóa bỏ lao động trẻ em
nói riêng.
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở áp dụng các phƣơng pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh, các quan điểm, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam về pháp
luật và xây dựng pháp luật.
Trong Chƣơng 1, để làm sáng tỏ vấn đề lý luận về lao động trẻ em, luâ ̣n
văn sƣ̉ du ̣ng phƣơng pháp hê ̣ thố ng , phân tić h, so sánh để làm rõ khái niê ̣m
“trẻ em”, “lao động trẻ em”, “ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em”. Phƣơng
pháp phân tích cũng đƣợc vận dụng để đề cập tới nguyên nhân, tác động tiêu
cực, mục đích và ý nghĩa của ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Tại Chƣơng 2 của luận văn, các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sƣ̉ du ̣ng
là thống kê , so sánh, phân tić h để làm rõ mƣ́c đô ̣ tƣơng thić h giƣ̃a pháp luâ ̣t
quố c tế và pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Với Chƣơng 3, phƣơng pháp thống kê , phân tích , tổ ng hơ ̣p đƣơ ̣c sƣ̉
dụng để nghiên cứu thực trạng lao động trẻ em tại Việt Nam

, tính cấp thiết

của việc hồn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa , xóa bỏ lao
động trẻ em và đƣa ra các giải pháp nhằ m hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam về
vấn đề này.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Lao động trẻ em là một thực tế đã có từ rất lâu. Vấn đề bảo vệ lao động
trẻ em cũng đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm. Các nghiên cứu và nhận
thức từ trƣớc tới nay luôn cho rằng, lao động trẻ em vẫn cần đƣợc duy trì để

5


đáp ứng nhu cầu của xã hội và của chính bản thân, gia đình các em. Tuy
nhiên, nhìn nhận dƣới góc độ quyền con ngƣời, lao động trẻ em cần phải đƣợc
ngăn ngừa và xóa bỏ, đặc biệt là các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Yêu cầu này cũng đặt ra việc xác định một cách rõ ràng khái niệm “lao động

trẻ em”, phân biệt với một số loại hình khác gần giống nhƣng dễ gây nhầm
lẫn, đó là trẻ em làm việc, trẻ em tham gia hoạt động kinh tế…
Luận văn là cơng trình đầu tiên đi sâu vào phân tích một cách tồn diện
và cập nhật hệ thống các quy định quốc tế và quy định pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật
về vấn đề này ở Việt Nam. Từ đó đóng góp một số giải pháp hồn thiện pháp
luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn làm rõ một số nội dung cơ bản về lao động trẻ em và ngăn
ngừa, xóa bỏ lao động trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Đánh giá mức độ tƣơng thích của pháp luật Việt Nam với các công ƣớc quốc
tế mà Việt Nam là thành viên và thực trạng thực thi pháp luật Việt Nam, nêu
ra một số vấn đề tồn tại cần sửa đổi, bổ sung trong pháp luật Việt Nam hiện
hành nhằm hồn thiện khn khổ pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa, xóa bỏ
lao động trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của việc ngăn ngừa và xóa bỏ lao
động trẻ em
Chương 2: Khn khổ pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em
Chương 3: Thực trạng thực thi pháp luật và phƣơng hƣớng, giải pháp
hoàn thiện pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ
em ở Việt Nam.

6


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA
NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM QUAN TRỌNG
1.1.1. Trẻ em
Về phƣơng diện khoa học, trẻ em đƣợc định nghĩa tùy theo góc độ tiếp
cận của từng khoa học cụ thể. Trong triết học, trẻ em đƣợc xem xét trong mối
quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội nên ở mọi thời đại, tƣơng lai của
quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Đối với chuyên ngành xã hội học, trẻ em đƣợc xác định là ngƣời có vị thế, vai
trị xã hội khác với ngƣời lớn, vì vậy, cần đƣợc xã hội quan tâm, tạo điều kiện
sinh trƣởng, ni dƣỡng, bảo vệ, chăm sóc phát triển. Trong tâm lý học, khái
niệm trẻ em đƣợc dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý, nhân
cách con ngƣời. Dƣới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em thƣờng đƣợc tiếp
cận theo độ tuổi.
Trẻ em có những đặc điểm tâm sinh lý khá đặc thù do chƣa phát triển
đầy đủ về thể chất và trí tuệ, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn và đặc biệt
là dễ bị tổn thƣơng. Chính vì vậy, việc xác định trẻ em theo độ tuổi là điều
cần thiết nhằm bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất khỏi những nguy cơ từ xã hội
ảnh hƣởng tới sự phát triển của trẻ.
Theo Điều 1 Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em: “Trẻ em là
những người dưới 18 tuổi” [18]. Đây là một quy định mở, trong đó mức trần
18 tuổi đƣợc coi là mức tiêu chuẩn nhƣng không phải là cố định, bắt buộc đối
với mọi quốc gia, nói cách khác, điều này cho phép các quốc gia thành viên xác
định độ tuổi đƣợc coi là trẻ em thấp hơn so với quy định kể trên. Công ƣớc số
182 cũng quy định “Trong phạm vi Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” được áp

7


dụng để chỉ tất cả những người dưới 18 tuổi” [33, Điều 1] và không quy định

ngoại lệ. Điều này là do mục đích của Cơng ƣớc 182, độ tuổi 18 đƣợc xác định
là độ tuổi trƣởng thành của một con ngƣời mà từ khi đó họ mới có khả năng
đảm nhiệm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Nhƣ vậy, nếu cho
phép các quốc gia thành viên có ngoại lệ quy định độ tuổi thấp hơn đƣợc cơng
nhận là trẻ em, sẽ có nguy cơ nhiều trẻ em trên thế giới phải làm các công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm khi các em chƣa đủ trƣởng thành.
Cũng theo định nghĩa kể trên, Công ƣớc về quyền trẻ em không quy
định từ khi nào đƣợc coi là trẻ em, nhƣng theo Lời nói đầu thì “… trẻ em cần
phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt
pháp lý từ trước cũng như khi chào đời” [18]. Quy định này hàm nghĩa rằng
việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em cần phải đƣợc thực hiện ngay từ giai đoạn bào
thai chứ không đợi đến lúc trẻ chào đời.
Trong pháp luật Việt Nam, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004 quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” [25, Điều 1].
Nhƣ vậy trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em
đƣợc pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những công dân dƣới 16 tuổi. Mặc dù
quy định độ tuổi thấp hơn so với Công ƣớc quốc tế, nhƣng quy định của Việt
Nam vẫn đƣợc coi là phù hợp bởi quy định mở của Công ƣớc.
Bên cạnh văn bản luật chuyên ngành, trong hệ thống pháp luật Việt
Nam cịn có nhiều ngành luật khác cũng đề cập tới vấn đề trẻ em nhƣ Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Thanh niên, Luật Quốc tịch, Luật Giáo dục, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học…
Tuy nhiên trong mỗi ngành luật đều tiếp cận khái niệm trẻ em ở một khía
cạnh khác nhau. Đặc biệt, một số văn bản luật đã có các chế định cụ thể quy
định quyền tự định đoạt của trẻ em đối với các vấn đề liên quan trực tiếp tới
mình nhƣ: trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng

8



hoặc nhờ cha mẹ quản lý (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sửa đổi, bổ
sung năm 2014); trẻ em từ đủ 15 tuổi đến chƣa đủ 18 tuổi đƣợc lấy ý kiến
bằng văn bản khi thay đổi quốc tịch (Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008)…
Ngoài khái niệm trẻ em, luật pháp Việt Nam cịn có nhiều quy định đề
cập đến nhóm ngƣời trong độ tuổi từ 16 đến dƣới 18 (hay còn gọi là ngƣời
chƣa thành niên). Theo Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Người đủ
mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên” [26]. Điều 161 Bộ luật Lao động 2012 cũng quy
định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [29].
Nhƣ vậy, chúng ta đang sử dụng đồng thời hai thuật ngữ “trẻ em” và
“ngƣời chƣa thành niên”. Điều này gây khá nhiều rắc rối trong việc áp dụng
cũng nhƣ nghiên cứu luật.
1.1.2. Quyền trẻ em
Từ lâu trẻ em ln đƣợc coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn
thƣơng nhất và đƣợc các nhà nƣớc, các cộng đồng quan tâm bảo vệ. Mặc dù
vậy, trong các thời kỳ trƣớc đây, ở tất cả các xã hội, việc bảo vệ trẻ em cơ bản
xuất phát từ góc độ tình thƣơng, lịng nhân đạo, sự che chở chứ khơng phải
dƣới góc độ nghĩa vụ bảo vệ quyền. Do vậy, việc bảo vệ trẻ em ở thời kỳ
trƣớc về cơ bản chƣa mang tính phổ biến, thống nhất, quy chuẩn và ràng buộc
về nghĩa vụ với mọi đối tƣợng trong xã hội.
Đến đầu thế kỷ XX, thuật ngữ pháp lý “quyền trẻ em” mới đƣợc đề cập
sau một loạt biến cố quốc tế lớn, nhất là cuộc Chiến tranh thế giới I (19141918). Cuộc chiến tranh này đã khiến rất nhiều trẻ em ở châu Âu bị rơi vào
hồn cảnh đặc biệt khó khăn nhƣ mồ cơi khơng nơi nƣơng tựa, đói khát, bệnh
tật và thƣơng tích… Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc thành lập hai tổ chức cứu
trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919. Vào năm
1923, bà Eglantyne - ngƣời sáng lập Quỹ cứu trợ trẻ của nƣớc Anh năm 1919

9



- đã soạn thảo một bản Tuyên bố gồm 7 điểm, trong đó kêu gọi bảo vệ và thừa
nhận các “quyền của trẻ em”. Vào năm 1924, Tuyên bố này đƣợc Hội Quốc
liên thông qua (đƣợc gọi là Tuyên ngôn Geneva về quyền trẻ em). Sự kiện
này có thể coi là mốc đánh dấu thời điểm thuật ngữ “quyền trẻ em” lần đầu
tiên đƣợc nêu chính thức trong pháp luật quốc tế, đồng thời cũng là mốc đánh
dấu một bƣớc ngoặt trong nhận thức và hành động bảo vệ trẻ em trên thế giới.
Vì khi trẻ em đƣợc coi là một chủ thể của quyền, các hành động liên quan đến
trẻ em sẽ khơng chỉ cịn đặt trên nền tảng tình thƣơng, lịng nhân đạo hay sự
che chở nữa, mà cịn là nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan, kể cả cha mẹ.
Sau khi đƣợc thành lập, Liên hợp quốc đã đƣa vấn đề quyền trẻ em phát
triển lên một bƣớc ngoặt mới. Với mệnh đề mở đầu phổ biến trong Tun
ngơn tồn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948 và hai công ƣớc về các
quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 là
“mọi ngƣời có quyền” hoặc “bất cứ ngƣời nào đều có quyền”… thì trẻ em
đƣợc thừa nhận là chủ thể bình đẳng với ngƣời lớn trong việc hƣởng tất cả các
quyền và tự do cơ bản đƣợc ghi nhận trong luật quốc tế về quyền con ngƣời.
Tuy nhiên, do đặc trƣng của trẻ em là còn non nớt cả về thể chất và tinh
thần, nên ngay trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Cơng ƣớc
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ƣớc quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 và Cơng ƣớc quốc tế về quyền trẻ
em, trẻ em đã đƣợc ghi nhận những quyền đặc thù, đó là quyền đƣợc chăm
sóc, giáo dƣỡng và đƣợc bảo vệ đặc biệt.
Nhƣ vậy, quyền trẻ em là những đặc quyền tự nhiên mà trẻ em đƣợc
hƣởng, đƣợc làm, đƣợc tôn trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống còn,
tham gia và phát triển tồn diện.
Cơng ƣớc về quyền trẻ em là luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em bao
gồm 54 điều khoản đƣợc Liên hợp quốc thông qua năm 1989. Công ƣớc đề ra
các quyền cơ bản của con ngƣời mà trẻ em trên toàn thế giới đều đƣợc hƣởng.

10



Bốn nhóm quyền trẻ em theo Cơng ƣớc quốc tế gồm:
- Nhóm quyền đƣợc sống: nhằm đảm bảo quyền đƣợc sống và đáp ứng
các nhu cầu cơ bản để tồn tại;
- Nhóm quyền đƣợc bảo vệ: nhằm bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bị
bỏ rơi và bị lạm dụng và bóc lột hay phân biệt đối xử;
- Nhóm quyền đƣợc phát triển: nhằm đảm bảo nhu cầu cải thiện chất
lƣợng cuộc sống để trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần, gồm
các quyền đƣợc học tập, nghỉ ngơi và giải trí, tham gia hoạt động văn hóa…;
- Nhóm quyền đƣợc tham gia: là những quyền cho phép trẻ em tham dự
vào những công việc ảnh hƣởng đến cuộc sống của chúng, nhƣ quyền đƣợc
bày tỏ quan điểm riêng, quyền tiếp cận thông tin…
1.1.3. Lao động trẻ em
1.1.3.1. Khái niệm lao động trẻ em
Cho tới nay, trên phạm vi quốc tế vẫn chƣa có một định nghĩa thống
nhất về lao động trẻ em.
Không phải mọi công việc hàng ngày mà trẻ em làm đều đƣợc coi là
lao động trẻ em. Cần xác định rõ khái niệm lao động trẻ em và lấy đó là căn
cứ để thực hiện ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Khác với khái niệm trẻ em, khái niệm về “lao động trẻ em” địi hỏi
ngồi góc độ độ tuổi cịn phải tiếp cận ở góc độ tính chất cơng việc mà chủ
thể phải làm.
Về độ tuổi, sau khi Công ƣớc về quyền trẻ em và Công ƣớc số 182 về
cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất của ILO đƣợc ban hành, trong đó đƣa ra định nghĩa trẻ em là những
ngƣời dƣới 18 tuổi thì độ tuổi này đƣợc cộng đồng quốc tế coi là mốc chuẩn
để xác định phạm vi chủ thể của khái niệm lao động trẻ em.
Về tính chất cơng việc, lao động trẻ em bao gồm những cơng việc có


11


ảnh hƣởng tiêu cực đến sự phát triển toàn diện của trẻ em. Nói cách khác,
thuật ngữ này đề cập đến những công việc và điều kiện làm việc không thể
chấp nhận đƣợc đối với trẻ em.
Trên thực tế, nhận thức về cơng việc có ảnh hƣởng tiêu cực đến sự phát
triển tồn diện của trẻ em khơng đồng nhất do sự khác biệt về hoàn cảnh kinh
tế, xã hội, quan niệm truyền thống, phong tục tập quán của mỗi quốc gia. Do
đó, khó có thể đƣa ra một định nghĩa thống nhất về lao động trẻ em.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế ILO, nhìn chung, những cơng việc có
ảnh hƣởng tiêu cực tới sự phát triển tồn diện của trẻ là những công việc mà:
gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, đạo đức và xã
hội của trẻ; làm ảnh hƣởng đến việc học tập của trẻ (ví dụ, khiến cho trẻ
không đƣợc đến trƣờng, buộc trẻ phải nghỉ học sớm, buộc trẻ phải cố gắng để
vừa học vừa làm các cơng việc nặng nhọc hay mất nhiều thời gian).
Có những cơng việc có thể chấp nhận đƣợc với trẻ em. Đó là những
cơng việc khơng gây ảnh hƣởng đến sức khỏe và sự phát triển, không cản trở
việc học của trẻ và mang ý nghĩa tích cực. Ví dụ nhƣ việc trẻ em giúp đỡ cha
mẹ trong công việc nhà hoặc tham gia việc kinh doanh của gia đình ngồi giờ
học. Đây là những hoạt động góp phần vào sự phát triển của trẻ và cũng nâng
cao phúc lợi của gia đình, cung cấp cho trẻ những kỹ năng và kinh nghiệm có
ích cho việc hịa nhập xã hội khi trƣởng thành.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc UNICEF, lao động trẻ em là những
công việc mà:
(a) Làm việc ở độ tuổi quá sớm;
(b) Phải làm việc quá nhiều giờ, ảnh hƣởng đến việc học tập của
trẻ;
(c) Lao động trong những điều kiện xấu;
(d) Công việc hạ thấp danh dự nhân phẩm, lịng tự trọng của trẻ, có

hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ;

12


(e) Gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho trẻ em trên các
phƣơng diện thể chất, tinh thần, tâm lý và xã hội [49].
Ở Việt Nam, pháp luật cũng chƣa có định nghĩa nào về lao động trẻ em,
mặc dù thuật ngữ này đã đƣợc đề cập đến trong một số văn bản pháp luật. Ví
dụ, Khoản 7 Điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 quy định
các điều nghiêm cấm, trong đó có hành vi lạm dụng lao động trẻ em.
Bộ luật Lao động 2012 có quy định khái niệm lao động chƣa thành niên
và định nghĩa lao động chƣa thành niên là ngƣời lao động dƣới 18 tuổi và ít
nhất phải đủ 15 tuổi, trừ một số ngành nghề và công việc do Bộ Lao động thƣơng binh xã hội quy định có thể là ngƣời nhỏ hơn 15 tuổi. Cụ thể, theo
Điều 164 Bộ luật Lao động:
Ngƣời sử dụng lao động chỉ đƣợc sử dụng ngƣời từ đủ 13
tuổi đến dƣới 15 tuổi làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ
Lao động - Thƣơng binh và Xã hội quy định và không đƣợc sử
dụng lao động là ngƣời dƣới 13 tuổi làm việc trừ một số công việc
cụ thể do Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội quy định [29].
Điều 165 Bộ luật Lao động cũng quy định về các công việc và nơi làm
việc cấm sử dụng lao động là ngƣời chƣa thành niên.
Nhƣ vậy, khái niệm lao động chƣa thành niên trong pháp luật Việt
Nam chƣa hoàn toàn đồng nhất với khái niệm lao động trẻ em trong pháp
luật quốc tế. Lao động chƣa thành niên chỉ bị coi là lao động trẻ em khi làm
một số ngành nghề hoặc trong các điều kiện bị cấm theo quy định của pháp
luật. Trong khi đó, lao động trẻ em ln bị coi là bất hợp pháp, bao gồm: lao
động dƣới độ tuổi luật cho phép; lao động quá nhiều giờ; không đƣợc trả
công đầy đủ hoặc cản trở việc học hành của các em; lao động trong điều
kiện xấu, công việc hạ thấp danh dự nhân phẩm hay có hại đến sự phát triển

tâm lý, xã hội của trẻ.

13


Báo cáo “Điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012: Các kết quả
chính” do Viện Khoa học Lao động và Xã hội thuộc Bộ Lao động - Thƣơng
binh và Xã hội thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật của ILO - IPEC/SIMPOC xuất
bản lần đầu năm 2014 đƣa ra khái niệm lao động trẻ em nhƣ sau:
(a) Trẻ em từ 5-11 tuổi: tham gia hoạt động kinh tế từ 1 giờ
trở lên vào bất kỳ ngày nào trong tuần tham chiếu hoặc từ 5 giờ trở
lên trong cả tuần tham chiếu.
(b) Trẻ em từ 12-14 tuổi: tham gia hoạt động kinh tế trên 4
giờ vào bất kỳ ngày nào trong tuần tham chiếu hoặc trên 24 giờ
trong cả tuần tham chiếu.
(c) Trẻ em từ 15-17 tuổi: tham gia hoạt động kinh tế trên 7
giờ vào bất kỳ ngày nào trong tuần tham chiếu hoặc trên 42 giờ
trong cả tuần tham chiếu.
(d) Trẻ em từ 5-17 tuổi, tham gia làm các công việc cấm sử
dụng lao động vị thành niên theo quy định của Thông tƣ số 09/TLLB ngày 13-4-1995 của liên Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội
- Y tế quy định chi tiết các điều kiện lao động có hại và các cơng
việc cấm sử dụng lao động vị thành niên (Đã đƣợc thay thế bằng
Thông tƣ số 10/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thƣơng binh và
xã hội về Ban hành danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử
dụng lao động là ngƣời chƣa thành niên) [4].
Tuy nhiên, đây chỉ là khái niệm sử dụng nhằm phục vụ cho điều tra của
Báo cáo này và mang tính chất tham khảo chứ chƣa phải định nghĩa chính thức.
Từ các góc độ tiếp cận kể trên và từ các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan
của ILO, có thể định nghĩa nhƣ sau:
Lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những ngƣời dƣới 18

tuổi) phải làm những công việc có ảnh hƣởng tiêu cực tới sự phát triển tồn diện

14


của trẻ nhƣ: gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, đạo
đức và xã hội của trẻ; hoặc thời gian làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ,
làm ảnh hƣởng đến thời gian học tập, vui chơi, giải trí của trẻ.
Để hiểu rõ khái niệm lao động trẻ em, cần phân biệt với một số khái
niệm khác có liên quan, cụ thể nhƣ sau:
Trẻ em lao động (child labourer): “Thuật ngữ này đi liền với thuật ngữ
lao động trẻ em (child labour), chỉ những trẻ em bị rơi vào vịng xốy của lao
động trẻ em, hay nói cách khác là nạn nhân của lao động trẻ em” [37].
Lao động chƣa thành niên (juvenile worker): Thuật ngữ này, nhƣ đã đề
cập ở trên, “thường để chỉ những lao động dưới 18 tuổi và khơng hồn tồn
đồng nghĩa với lao động trẻ em. Lao động chưa thành niên có là lao động trẻ
em hay khơng tùy thuộc vào tính chất cơng việc, đặc điểm môi trường làm
việc, độ tuổi và thời gian làm việc của trẻ” [37].
Trẻ em làm việc (child work) là thuật ngữ “đề cập đến việc trẻ em tham
gia làm các công việc khác nhau, thông thường là nhẹ nhàng, có thể chấp
nhận được, được đưa ra nhằm mục đích phân biệt với khái niệm lao động trẻ
em mà được coi là chỉ những công việc không thể chấp nhận được đối với trẻ
em” [37]. Cụ thể, theo nhóm cơng tác khu vực về lao động trẻ em thì trẻ em
tham gia làm việc bao gồm các hoạt động không làm hại tới, và có thể góp
phần vào sự phát triển lành mạnh của trẻ trong khi lao động trẻ em bao gồm
tất cả những loại công việc do trẻ em đến 18 tuổi thực hiện mà có hại cho sức
khỏe, tinh thần, trí tuệ hay sự phát triển về mặt xã hội và ảnh hƣởng tới việc
học tập của trẻ em. Trẻ em làm việc không gây những tác động tiêu cực cho
sự phát triển của trẻ vì đó là những việc làm tự nguyện, phi lợi nhuận hay các
cơng việc trong gia đình. Những cơng việc này cũng cho trẻ những kỹ năng,

kinh nghiệm trong cuộc sống. Trái lại, lao động trẻ em hƣớng tới lợi nhuận,
trẻ em phải làm việc liên tục trong những ngành công nghiệp làm ra hàng hóa.
Điều đó ảnh hƣởng lớn tới sức khỏe, cơ hội học tập và phát triển của trẻ.

15


Trẻ em tham gia hoạt động kinh tế (“economically active children”
hoặc “children at work in economic activity”) là thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ
biến trong công tác điều tra, thống kê về lao động việc làm nói chung và lao
động trẻ em nói riêng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một khái niệm
“chỉ các công việc sinh lợi do trẻ em thực hiện, bất kể các công việc đó có
hay khơng được trả lương, hợp pháp hay bất hợp pháp, thường xuyên hay
không thường xuyên, thời giờ làm việc ngắn hay trọn thời gian” [37]. Những
công việc vặt, không sinh lời mà trẻ em thƣờng làm trong gia đình hoặc ở
trƣờng khơng thuộc phạm trù này, mặc dù trên thực tế, một số trẻ em có thể
phải dành nhiều thời gian để làm những cơng việc đó, làm ảnh hƣởng đến thời
giờ học tập, vui chơi, giải trí. Để đƣợc xem là có tham gia các hoạt động kinh
tế, trẻ em phải làm các công việc sinh lời ít nhất trong một giờ vào bất kỳ
ngày nào trong tuần. Nhƣ vậy, trẻ em tham gia làm kinh tế có đƣợc coi là lao
động trẻ em hay khơng cũng tùy thuộc vào tính chất cơng việc, đặc điểm môi
trƣờng làm việc, độ tuổi và thời gian làm việc của trẻ. Bên cạnh đó, khơng
phải tất cả trẻ em tham gia hoạt động kinh tế đều trái với Công ƣớc số 138 của
ILO về tuổi lao động tối thiểu và Công ƣớc số 182 của ILO về cấm và hành
động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
1.1.3.2. Phân loại lao động trẻ em
Phân loại lao động trẻ em giúp làm rõ các đặc điểm của lao động trẻ em
và đƣa ra những giải pháp phù hợp để ngăn ngừa và xóa bỏ từng dạng lao
động trẻ em. Có nhiều tiêu chí để phân loại lao động trẻ em, trong đó các tiêu
chí thƣờng đƣợc sử dụng là: theo tính chất nguy hại, theo tình trạng cơng việc

và theo lĩnh vực ngành nghề mà trẻ em làm việc.
* Phân loại theo tính chất nguy hại là cách thức đƣợc thực hiện trong
các Công ƣớc số 138 và 182 của ILO, trong đó lao động trẻ em đƣợc chia
thành các cấp độ tùy theo ảnh hƣởng tiêu cực của công việc với sự phát triển
của trẻ. Theo cách phân chia này, lao động trẻ em bao gồm: công việc nhẹ

16


nhàng, công việc thông thƣờng, công việc nguy hại và những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất [37].
Bảng dƣới đây khái qt những tình huống có thể coi là lao động trẻ em
dựa trên sự phân loại theo tính chất nguy hại từ các quy định có liên quan
trong các Công ƣớc 138 và 182 của ILO.
Bảng 1.1: Phân loại lao động trẻ em dựa theo tính chất nguy hại
Độ tuổi

Dạng công việc
Các công việc không nguy hại
(trong các ngành nghề khơng nguy
hại, thời giờ làm việc ít hơn 43
giờ/tuần)

Những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất

Cơng việc
nhẹ nhàng
(làm việc ít hơn


Cơng việc
thơng thƣờng
(làm việc nhiều

Cơng việc
nguy hại
(trong các

14 giờ/tuần)

hơn 14 giờ/tuần
nhƣng chƣa đến
43 giờ/tuần)

Những hình
thức lao động
trẻ em tồi tệ

ngành nghề
nhất bị cấm
đƣợc coi nguy
tuyệt đối
hại, hoặc trong
(buôn bán trẻ
các ngành nghề
em; lao động
khác không
cƣỡng bức và
nguy hại nhƣng gán nợ, sử dụng
với thời giờ làm

trẻ em trong
việc nhiều hơn
xung đột vũ
43 tiếng/tuần)
trang, các hoạt
động khiêu dâm
và bất hợp pháp)

5-11
12-14
15-17

Nguồn: Bộ tài liệu tập huấn về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em,
(Trong bảng này, phần được coi là lao động trẻ em được đánh dấu đậm)

17


Điều 7 Công ƣớc số 138 của ILO quy định cơng việc nhẹ là cơng việc:
(a) Khơng có khả năng gây tổn hại đến sức khỏe hoặc sự phát
triển của các em;
(b) Không ảnh hƣởng đến việc học tập, việc tham gia vào
những chƣơng trình hƣớng nghiệp hay đào tạo nghề đã đƣợc các
nhà chức trách có thẩm quyền chấp thuận, hoặc những chƣơng trình
mà các em có khả năng tiếp thu [31].
Theo ILO, “công việc nhẹ của trẻ em từ 12 đến 14 là công việc mà
không phải là gây nguy hại và không vượt quá 14 giờ mỗi tuần” [41]. Định
nghĩa này đƣợc ILO đƣa ra dựa trên kết quả nghiên cứu về tác động của lao
động trẻ em đối với việc học tập và phát triển của trẻ.
Cả hai Công ƣớc số 138 và 182 của ILO xác định cơng việc nguy hại là

những cơng việc có khả năng gây nguy hiểm hoặc tổn hại đến sức khỏe, an
toàn và đạo đức của trẻ em và danh sách các công việc này phải đƣợc xác
định ở cấp quốc gia. Đây là công việc trong các ngành nghề đƣợc coi nguy
hại, hoặc trong các ngành nghề khác không nguy hại nhƣng với thời giờ làm
việc nhiều hơn 43 tiếng/tuần. Việc phân loại này dựa trên các quy định nêu
trong Khuyến nghị số 190 kèm theo Công ƣớc số 182 và quy định về công
việc nguy hiểm trong luật pháp quốc gia.
Hình thức cực đoan nhất của lao động trẻ em là trẻ em bị bắt làm nô lệ,
bị tách ra khỏi gia đình, tiếp xúc với các mối nguy hiểm nghiêm trọng và bệnh
tật hoặc phải tự lo cho bản thân trên các đƣờng phố của các thành phố lớn,
thƣờng là vào độ tuổi rất sớm.
* Phân loại theo tình trạng cơng việc dựa trên các khía cạnh nhƣ: trẻ
em làm việc công khai hay bị che giấu, làm việc một mình hay theo nhóm, tập
trung hay phân tán… Cách phân loại này thể hiện cụ thể tại Bảng 1.2 - Phân
loại lao động trẻ em theo tình trạng công việc.

18


×