Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại dịch vụ pháp lý việt nam trong tương quan với quy định của tổ chức thương mại thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 105 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

tăng thị thúy

pháp luật điều chỉnh quan hệ th-ơng mại dịch vụ pháp lý
việt nam trong t-ơng quan với quy định
của tổ chức th-ơng mại thế giới

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2008

1


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

tăng thị thúy

pháp luật điều chỉnh quan hệ th-ơng mại dịch vụ pháp lý
việt nam trong t-ơng quan với quy định
của tổ chức th-ơng mại thế giới
Chuyên ngành

: Luật quốc tế

MÃ số

: 60 38 60



luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Lan Nguyên

Hà nội - 2008

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƢƠNG MẠI
DỊCH VỤ VÀ DỊCH VỤ PHÁP LÝ

8

1.1.

Lý luận chung và quy định của wto về dịch vụ và thương
mại dịch vụ


8

1.1.1.

Khái niệm dịch vụ và phân loại dịch vụ

8

1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ

8

1.1.1.2. Vai trò của dịch vụ trong sự phát triển kinh tế

11

1.1.1.3. Phân ngành dịch vụ

14

Thương mại dịch vụ

16

1.1.2.1. Khái niệm thương mại dịch vụ

16

1.1.2.2. Vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ


18

1.1.2.

1.1.3.

Các quy định của WTO áp dụng với thương mại dịch vụ

21

1.1.3.1. Quy định chung

21

1.1.3.2. Các nguyên tắc áp dụng

23

1.2.

Lý luận và quy định của WTO vệ dịch vụ pháp lý

26

1.2.1.

Đặc điểm của dịch vụ pháp lý với tư cách là một loại hình
dịch vụ và những đặc điểm đặc biệt của dịch vụ pháp lý so
với các ngành dịch vụ khác


26

1.2.2.

Quy định của GATS về phân loại dịch vụ pháp lý

28

1


1.2.3.

Chế độ pháp lý cơ bản áp dụng đối với dịch vụ pháp lý

29

1.3.

Thực tiễn một số nước thành viên WTO về cam kết và thực
thi cam kết mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý

42

1.3.1.

Đặc điểm chính các cam kết của một số nước thành viên
WTO về dịch vụ pháp lý


42

1.3.2.

Tham khảo quy định và thực tiễn của một số nước thành
viên WTO

45

1.3.3.

Các bài học đối với Việt Nam

46

1.4.

Quan hệ giữa các quy định của WTO với pháp luật quốc gia

47

1.4.1.

Quan hệ giữa các thành viên của WTO với nhau và quan hệ
giữa các thành viên WTO với các nước/ vùng lãnh thổ
không là thành viên WTO

47

1.4.2.


Quan hệ giữa các quy định của WTO và pháp luật quốc gia

48

Chương 2: PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
DỊCH VỤ PHÁP LÝ VIỆT NAM TRONG
TƢƠNG QUAN VỚI QUY ĐỊNH CỦA TỔ
CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚi

50

2.1.

Tổng quan pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động dịch vụ
pháp lý

50

2.1.1.

Sơ lược các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động thương
mại dịch vụ pháp lý ở Việt Nam

50

2.1.2.

Các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam điều chỉnh
quan hệ thương mại dịch vụ pháp lý


55

2.1.3.

Quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ thương
mại dịch vụ pháp lý trong tương quan với quy định của WTO

61

2.2.

Đánh giá thực trạng pháp luật về dịch vụ pháp lý Việt Nam

64

2.2.1.

Những thành tựu

64

2.2.2.

Những hạn chế

65

2.3.


Thực tiễn Việt Nam về thực hiện dịch vụ pháp lý

66

2


2.3.1.

Nhận xét chung về dịch vụ pháp lý Việt Nam

66

2.3.2.

Thực trạng hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ
pháp lý

67

2.3.2.1. Những ưu điểm

67

2.3.2.2. Những hạn chế

68

Đánh giá thực trạng và khả năng trong việc hợp tác quốc tế


69

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT DỊCH VỤ PHÁP LÝ
VIỆT NAM TRƢỚC YÊU CẦU HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ

71

3.1.

Cơ hội và những trở ngại cho sự phát triển của ngành dịch
vụ pháp lý Việt Nam

71

3.1.1.

Cơ hội của ngành dịch vụ pháp lý Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập

71

3.1.2.

Những trở ngại cho việc phát triển của ngành dịch vụ pháp lý

73

3.2.


Quan điểm và định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật dịch
vụ pháp lý đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

79

3.2.1.

Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại dịch
vụ pháp lý gắn với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế

80

3.2.2.

Xây dựng hành lang pháp lý cho các quan hệ dịch vụ pháp
lý, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và sự phù hợp giữa
pháp luật dịch vụ pháp lý với pháp luật thương mại, pháp
luật tố tụng và với hệ thống pháp luật nói chung

81

3.2.3.

Xây dựng hệ thống pháp luật về dịch vụ pháp lý đảm bảo sự
tương thích của pháp luật điều chỉnh dịch vụ pháp lý với các
chuẩn mực pháp lý thương mại quốc tế

82


3.3.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ pháp lý Việt Nam
đáp ứng yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thành viên WTO và hội
nhập kinh tế quốc tế

83

3.3.1.

Giải pháp về lập pháp, chính sách, cơ chế

83

2.3.3.

3


3.3.2.

Giải pháp tăng năng lực hoạt động nghiệp vụ cho ngành
dịch vụ pháp lý

83

KẾT LUẬN

89


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

PHỤ LỤC

99

4


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, cùng với tiến trình mở cửa của đất nước và sự
phát triển của kinh tế thị trường, nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng gia
tăng. Đội ngũ luật sư Việt Nam từng bước tăng nhanh về số lượng, nâng cao
dần về chất lượng hành nghề. Phạm vi các dịch vụ mà luật sư cung cấp ngày
càng phong phú và đa dạng. Nhiều văn phịng luật sư, cơng ty tư vấn pháp
luật đã ra đời đang góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt
Nam vào nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang xây dựng một nhà nước pháp quyền và một nền kinh
tế thị trường, việc điều hành xã hội bằng pháp luật là vô cùng quan trọng. Xã
hội ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội và hệ thống pháp luật điều chỉnh
nó cũng trở nên phức tạp. Sự tham gia, hỗ trợ của các luật sư sẽ góp phần tạo
nên sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế - xã hội đất nước.
Thời gian qua, kể từ sau khi Việt Nam ký Hiệp định Thương mại song
phương với Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (BTA) và nhất là từ khi gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta đã chứng kiến những thay đổi
lớn của dịch vụ pháp lý Việt Nam. Nhà nước ta đã quan tâm hơn đến việc

phát triển dịch vụ pháp lý, đến việc tạo hành lang pháp lý cho ngành dịch vụ
này phát triển tương xứng với vị trí và vai trị của nó.
Tuy nhiên, với những kết quả đạt được còn quá khiêm tốn, trong thời
gian tới, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO với hàng loạt
cam kết trong việc mở cửa thị trường, trong đó có thị trường dịch vụ pháp lý,
chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển ngành dịch vụ này. Bởi vì trở
thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội rất lớn trong việc hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển đất nước. Song, cùng với đó sẽ là hàng loạt thách
thức đòi hỏi chúng ta phải vượt qua, nhất là trong những năm đầu gia nhập.

5


Là một ngành dịch vụ có vai trị và vị trí quan trọng, dịch vụ pháp lý cũng
chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những cam kết của Chính phủ Việt Nam khi gia
nhập WTO.
Hành nghề dịch vụ pháp lý là lĩnh vực hoạt động đặc thù so với các loại
dịch vụ thơng thường, bởi nó gắn với việc thực thi pháp luật, có tác động và ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của những người sử dụng dịch vụ cũng như hiệu
quả quản lý nhà nước. Việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp, tổ chức
nước ngoài càng địi hỏi người luật sư phải có trình độ chun môn cao, gắn với
trách nhiệm trước pháp luật và trước khách hàng nước ngoài. Thời gian qua, đội
ngũ luật sư và các Văn phòng luật sư Việt Nam làm dịch vụ pháp lý liên quan
đến kinh tế thương mại quốc tế đã trở thành chỗ dựa pháp lý đáng tin cậy của
nhiều doanh nghiệp nước ngồi, giữ vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy các
doanh nghiệp nước ngoài làm ăn tại Việt Nam thông qua việc quảng bá nền kinh
tế và pháp luật trong nước. Mặc dù vậy, vẫn thiếu rất nhiều các Văn phòng luật
sư Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, làm dịch vụ pháp lý
liên quan đến kinh tế, thương mại quốc tế có uy tín, đáp ứng được nhu cầu địi
hỏi của thực tiễn.

Trong bối cảnh gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
sẽ bùng phát những giao lưu thương mại. Đây sẽ là cơ hội rất lớn đòi hỏi Việt
Nam phải tăng cường đội ngũ luật sư cả về chất và lượng. Giới luật sư Việt
Nam cần chuẩn bị đón đầu thử thách và cơ hội này, đây là vấn đề cấp bách
phục vụ trực tiếp về mặt chính trị. Nếu xảy ra tranh chấp kinh tế thương mại
quốc tế mà các luật sư chưa sẵn sàng, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng sẽ làm giảm sút niềm tin của đối tác, không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của
giới luật sư Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư và sự phát triển
của nền kinh tế. Bởi lẽ các doanh nghiệp của nước ngồi đến Việt Nam rất cần
có một mơi trường pháp lý ổn định, cần có người tư vấn hỗ trợ pháp lý tin cậy.
Do đó, nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống và tương đối tồn
diện từ cả góc độ lý luận và luật thực định đối với các quy định của pháp luật

6


Việt Nam và của WTO cũng như của một số nước thành viên của WTO trong
lĩnh vực dịch vụ pháp lý và liên hệ với kinh nghiệm của một số nước thành viên
WTO là việc làm thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
Vì những lẽ trên, tác giả luận văn quyết định chọn đề tài "Pháp luật
điều chỉnh quan hệ thương mại dịch vụ pháp lý Việt Nam trong tương
quan với quy định của Tổ chức thương mại thế giới" làm luận văn thạc sĩ
với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc hồn thiện pháp luật điều
chỉnh dịch vụ pháp lý Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay, ở Việt Nam đã có một số dự án, cơng trình nghiên cứu về
vấn đề pháp luật điều chỉnh dịch vụ pháp lý. Đó là Đề tài nghiên cứu của
PGS.TS. Hoàng Phước Hiệp và đề tài của TS. Nguyễn Văn Tuân thuộc Bộ Tư
pháp. Đây là hai Đề tài nghiên cứu chuyên biệt về lĩnh vực pháp luật điều
chỉnh dịch vụ pháp lý của Việt Nam và các quy định của Tổ chức Thương mại

thế giới. Những đề tài nghiên cứu nói trên, bên cạnh ý nghĩa là một cơng trình
nghiên cứu khoa học, cịn chủ yếu phục vụ mục đích nâng cao năng lực và
hiệu quả quản lý nhà nước về nghề dịch vụ pháp lý của Việt Nam trước thềm
hội nhập.
Luận văn này nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam điều
chỉnh các hoạt động thương mại dịch vụ pháp lý trong tương quan so sánh với
các quy định của WTO và một số nước trên thế giới. Qua việc sưu tầm, khảo
cứu và phân tích các quy định đó, cũng như thực tiễn hành nghề luật sư của
Việt Nam và thế giới, từ đó rút ra những bài học thực tiễn và những kinh
nghiệm để phát triển nghề dịch vụ pháp lý của Việt Nam, không chỉ trong lĩnh
vực quản lý nhà nước, mà trong tất cả các lĩnh vực, từ lập pháp, lập quy, các
chính sách và quan điểm chỉ đạo của Nhà nước đến việc tuyên truyền phổ
biến để nâng cao chất lượng và vị thế của giới luật sư nói riêng, những người
hành nghề dịch vụ pháp lý nói chung.

7


3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Việc nghiên cứu đề tài luận văn này nhằm các mục đích sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về thương mại
dịch vụ, về dịch vụ pháp lý cũng như lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế;
Thứ hai, làm sáng tỏ về thực trạng của dịch vụ pháp lý Việt Nam, nhất
là trong bối cảnh hội nhập WTO hiện nay;
Thứ ba, nắm được những quy định cụ thể của WTO điều chỉnh lĩnh
vực dịch vụ pháp lý và những tác động của các quy định đó đến các thành
viên của WTO;
Thứ tư, tổng kết thực trạng pháp luật dịch vụ pháp lý Việt Nam, phân
tích rõ và đánh giá một cách khoa học về nguyên nhân của những thành tựu

cũng như những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động dịch vụ pháp lý
của Việt Nam;
Thứ năm, đưa ra những đánh giá mang tính khoa học và tồn diện về
pháp luật về dịch vụ pháp lý Việt Nam trong tương quan với các quy định của
WTO cũng như của một số quốc gia trên thế giới;
Thứ sáu, đưa ra những dự báo và phương hướng hoàn thiện pháp luật
về dịch vụ pháp lý của Việt Nam trong thời gian tới;
Thứ bảy, đề xuất các biện pháp tổng thể và chi tiết để phát triển dịch
vụ pháp lý trên cơ sở lý luận khoa học, thực tiễn ở nước ta và kinh nghiệm
của một số nước trên thế giới đối với vấn đề hoàn thiện pháp luật về dịch vụ
pháp lý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải
quyết các vấn đề sau:

8


- Khái quát những vấn đề lý luận chung về WTO, về thương mại dịch
vụ và về dịch vụ pháp lý;
- Phân tích các quy định của WTO điều chỉnh quan hệ thương mại
dịch vụ trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý;
- Phân tích thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh
dịch vụ pháp lý và thực trạng ngành dịch vụ pháp lý của Việt Nam hiện nay;
- Phân tích và so sánh sự tương đồng của pháp luật về dịch vụ pháp lý
Việt Nam với quy định của WTO và một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu và kiến nghị các biện pháp hoàn thiện và thực thi có
hiệu quả pháp luật về dịch vụ pháp lý Việt Nam.
4. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các quy định và
thông lệ của WTO cũng như các nước trên thế giới và Việt Nam điều chỉnh
quan hệ thương mại dịch vụ nói chung, dịch vụ pháp lý nói riêng.
* Phạm vi nghiên cứu:
Để làm sáng tỏ nội dung của đề tài, tác giả luận văn tập trung nghiên
cứu các vấn đề sau:
- Các quy định của WTO về thương mại dịch vụ và dịch vụ pháp lý;
- Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến dịch vụ
pháp lý;
- Quy định của WTO về dịch vụ pháp lý;
- Pháp luật của một số nước thành viên WTO về dịch vụ pháp lý.
- Pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý;
- Thực trạng ngành dịch vụ pháp lý Việt Nam;

9


- Đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực
của ngành dịch vụ pháp lý Việt Nam, đáp ứng các yêu cầu về nghĩa vụ thành
viên WTO và định hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp được sử dụng để nghiên cứu luận văn là phép biện
chứng khoa học kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, thống kê dựa trên các văn bản pháp luật trong nước và quốc tế cũng
như các nguồn tư liệu, sách báo, bài viết, các giáo trình của các học giả và nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến lĩnh vực thương mại dịch vụ
pháp lý.
5. Ý nghĩa của luận văn
* Ý nghĩa lý luận:
Luận văn là cơng trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối

toàn diện về vấn đề pháp luật điều chỉnh hoạt động dịch vụ pháp lý. Qua đây, tác
giả muốn đưa ra cách tiếp cận vấn đề một cách lơgíc, tồn diện và khoa học,
đồng thời tìm kiếm, phát hiện những điểm còn hạn chế, bất cập trong các quy
định của pháp luật Việt Nam cũng như những quy định, ràng buộc của WTO đối
với Việt Nam, mạnh dạn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về dịch
vụ pháp lý cũng như giải pháp nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của
ngành dịch vụ pháp lý Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới.
Ý nghĩa thực tiễn:
Việc nghiên cứu luận văn khơng chỉ có ý nghĩa lý luận mà cịn có ý
nghĩa thực tiễn, đó là:
- Giúp hiểu biết toàn diện, sâu sắc hơn đối với những quy định của
WTO về lĩnh vực dịch vụ pháp lý;
- Đưa ra những kinh nghiệm điển hình về hội nhập kinh tế quốc tế
trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý của các nước;

10


- Tổng kết những thành tựu cũng như hạn chế của pháp luật điều
chỉnh hoạt động dịch vụ pháp lý của Việt Nam;
- Dự báo sự phát triển của pháp luật về dịch vụ pháp lý Việt Nam
trong thời gian tới;
- Đưa ra các giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật dịch vụ pháp lý
Việt Nam và nâng cao năng lực hiệu quả hoạt động của ngành dịch vụ pháp lý
Việt Nam trong môi trường mới - môi trường hội nhập WTO.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thương mại dịch vụ và dịch vụ pháp lý
Chương 2: Pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại dịch vụ pháp lý

Việt Nam trong tương quan với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật dịch vụ
pháp lý, phát triển nghề dịch vụ pháp lý Việt Nam trước yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế.

11


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ
VÀ DỊCH VỤ PHÁP LÝ
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ DỊCH VỤ VÀ
THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ

1.1.1. Khái niệm dịch vụ và phân loại dịch vụ
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ
Cho đến nay, thế giới chưa có một khái niệm chung về dịch vụ. Có
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm "dịch vụ". Dịch vụ được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dựa trên tính hữu hình của hàng hóa và tính vơ hình của dịch vụ, có
nhiều ý kiến xem xét dịch vụ là đối tượng của các quan hệ xã hội mà pháp
luật cần điều chỉnh trong sự tương quan so sánh với hàng hóa. Theo đó, dịch
vụ được định nghĩa là "bất cứ thứ gì mà khi bán nó khơng thể rơi vào chân
bạn được".
Theo các tổ chức kinh tế quốc tế lớn, trong đó có Tổ chức thương mại
thế giới (WTO), "Dịch vụ là các sản phẩm đầu ra được tạo ra theo đặt hàng và
chúng không thể được mua bán, tách biệt khỏi quá trình tạo ra chúng; các
quyền sở hữu khơng thể được thiết lập trên các dịch vụ, và vào thời điểm q
trình tạo ra chúng được hồn thành, dịch vụ được cung cấp ngay cho khách
hàng tiêu dùng".

Cũng theo các tổ chức trên, có một số ngoại lệ so với các nội dung
trong định nghĩa về dịch vụ nêu trên. Đó là sự tồn tại của một số ngành được
phân loại chung là các ngành dịch vụ mà một số sản phẩm đầu ra của các
ngành này có các tính chất tương tự hàng hóa, như các ngành lưu trữ kho bãi,
thơng tin và truyền tin, tư vấn và giải trí theo nghĩa rộng.

12


Tại Việt Nam, các học giả và nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra một số
định nghĩa về dịch vụ. Trong bài viết "Thương mại dịch vụ - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn", GS.TS. Hồ Văn Vĩnh - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, tập hợp trong cuốn "Thời cơ và thách thức khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới WTO" có đưa ra định nghĩa: "Dịch vụ là toàn bộ các
hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó
tồn tại dưới hình thái phi vật thể" [49, tr. 557]
Các nhà nghiên cứu đã tổng hợp và đưa ra các đặc trưng cơ bản của
dịch vụ như sau:
Thứ nhất, dịch vụ là các sản phẩm vơ hình. Điểm đặc trưng này có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác lập giao dịch cả dân sự và kinh tế khi dịch vụ
là đối tượng mua - bán. Vì là vơ hình nên sẽ khơng xác lập được quyền sở
hữu trên dịch vụ, khơng có quyền định đoạt dịch vụ nhưng lại có quyền sử
dụng dịch vụ. Đây cũng là các đặc trưng mà các nhà khoa học pháp lý cũng
như các nhà làm luật và hoạch định chính sách phải xem xét kỹ trước khi đưa
ra các quan điểm của mình. Nó cũng địi hỏi cách tiếp cận và điều chỉnh riêng
khi đề cập đến các quan hệ dân sự, kinh tế thương mại mà đối tượng của quan
hệ đó là dịch vụ.
Thứ hai, dịch vụ có tính khơng đồng nhất, khơng tiêu chuẩn hóa được.
Quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động cung ứng dịch vụ sẽ có các đặc
trưng riêng biệt, khi chúng ta xem xét dưới góc độ các quyền và nghĩa vụ

pháp lý của các chủ thể trong mối quan hệ này. Đó là việc một bên thỏa thuận
với bên kia để thực hiện một cơng việc nào đó cho mình, Bên cung ứng dịch
vụ thực hiện công việc thỏa thuận và nhận tiền. Thước đo để đánh giá quan hệ
cung ứng dịch vụ hồn thành hay khơng phụ thuộc vào mức độ hài lòng của
bên cung ứng dịch vụ và q trình thực hiện cơng việc của bên cung ứng dịch
vụ. Điều này cũng đòi hỏi một sự điều chỉnh thích hợp của pháp luật đối với
các giao dịch dịch vụ, các biện pháp chế tài liên quan cũng như các biện pháp

13


để thực hiện đúng các cam kết của các bên trong các quan hệ dịch vụ. Điều
quan trọng nhất là xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong q trình
dịch vụ. Với tính chất này, các quy định về chất lượng hàng hóa, bảo quản
hàng hóa, quy cách sản phẩm trong thương mại hàng hóa khơng áp dụng được
trong thương mại dịch vụ.
Thứ ba, dịch vụ có tính khơng tách rời, tức là q trình cung cấp dịch
vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Đặc trưng này quyết định thời điểm
phát sinh, hoàn thành các giao dịch cung cấp - sử dụng dịch vụ. Nói cách
khác, quan hệ cung cấp dịch vụ là quan hệ liên tục từ khi phát sinh yêu cầu
đến khi kết thúc quan hệ. Nó cũng quyết định tính chất của các giao dịch đặc
thù mà chỉ riêng lĩnh vực dịch vụ mới có và qua đó địi hỏi pháp luật phải có
cách nhìn nhận riêng, quy định riêng đối với các quan hệ xã hội lấy dịch vụ
làm đối tượng. Dưới góc độ pháp lý, đặc trưng trên quyết định một loạt các
vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình dịch vụ, đó là: quyết định thời điểm
phát sinh và kết thúc quan hệ; quyết định hình thức của các giao dịch; quyết
định các quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể; quyết định các phương thức
giao dịch và kinh doanh dịch vụ.
Thứ tư, dịch vụ không lưu kho bãi được. Xét dưới góc độ pháp lý, dịch
vụ không lưu kho bãi, không lưu trữ, không tồn kho, không thể mua đi bán lại

giống như đối với các hàng hóa hữu hình. Điều này quyết định sự khác biệt
trong quy định của pháp luật về quyền đối với tài sản.
Theo TS. Lê Thiền Hạ trong bài nghiên cứu "Bàn về khái niệm Dịch
vụ", trong cuốn "Thương mại Việt Nam 20 năm đổi mới" [34, tr. 277-278],
hoạt động dịch vụ có các đặc điểm sau:
- Dịch vụ là một ngành kinh tế;
- Dịch vụ có đối tượng và phạm vi hoạt động rất rộng;
- Sản xuất dịch vụ tạo ra dịch vụ là hàng hóa đặc biệt. Hàng hóa dịch
vụ có thể là vơ hình hoặc hữu hình, nhưng chủ yếu là vơ hình;

14


- Dịch vụ là hàng hóa nên có giá trị và giá trị sử dụng;
- Hàng hóa dịch vụ cũng tuân theo quy luật giá trị và quan hệ cung cầu;
- Hàng hóa dịch vụ có quan hệ mật thiết với hàng hóa thơng thường
(những hàng hóa do sản xuất nông nghiệp và sản xuất công nghiệp tạo ra);
Nếu dịch vụ là hàng hóa vơ hình thì có những đặc tính sau đây:
- Q trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời (được tiêu
thụ ngay tại nơi sản xuất);
- Cũng vì vậy, dịch vụ khơng được đưa ra mua bán, trao đổi, chuyển
nhượng hoặc đầu cơ được và cũng không thể lưu giữ được.
Trên thực tế chúng ta gặp rất nhiều dịch vụ vơ hình những rất hiếm
gặp các dịch vụ hữu hình.
Như vậy, dịch vụ là một loại hàng hóa đặc biệt, có tính khơng hiện
hữu; quá trình cung ứng và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, dịch vụ không
lưu kho bãi được.
Dưới góc độ pháp lý, dịch vụ là đối tượng của các quan hệ mua bán,
trao đổi, làm phát sinh các mối quan hệ dân sự và kinh tế giữa các chủ thể
tham gia. Do dịch vụ có các đặc thù riêng, vì vậy cần có chế định pháp lý

riêng điều chỉnh nhóm quan hệ cung cấp và tiêu dùng dịch vụ, khơng giống
như đối với hàng hóa.
1.1.1.2. Vai trị của dịch vụ trong sự phát triển kinh tế
Dịch vụ có vai trò quan trọng, và ngày càng gia tăng trong hoạt động
kinh tế của các quốc gia.
Mặc dù, do có sự khác biệt về trình độ phát triển, vị trí địa lý hay tiềm
năng tài nguyên, v.v.., giữa các nước có sự khác nhau về mơ hình sản xuất và
cơng ăn việc làm. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đã xác định được xu hướng
chung, đó là sự phát triển và gia tăng ngày càng mạnh mẽ của dịch vụ như là
một nguồn hoạt động kinh tế.

15


Có thể đưa ra một số ví dụ về sự gia tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong
nền kinh tế của một số nước, đó là Trung Quốc, từ 33% năm 2002 tăng lên
40% vào năm 2007. Ở các nước phát triển, tỷ trọng ngành dịch vụ luôn cao
hơn nhiều so với các ngành công nghiệp và nông nghiệp, và cao hơn nhiều so
với các nước đang và chậm phát triển.
Theo thống kê của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) tỷ trọng
ngành dịch vụ của một số nước năm 2007 như sau:
Bảng 1.1: Tỷ trọng ngành dịch vụ của một số nước năm 2007
STT

Quốc gia

Tỷ trọng ngành dịch vụ (%)

1


Australia

70,6

2

Pháp

77,2

3

Hoa Kỳ

4

Trung Quốc

40,1

5

Việt Nam

38,2

79

(Nguồn: Cục Tình báo trung ương Hoa Kỳ, 2008) [56].
Sự phát triển của ngành dịch vụ là do nhiều yếu tố. Một trong những

lý do là sự gia tăng về thu nhập làm kích thích cầu dịch vụ. Khi người dân
giàu hơn, nhu cầu tiêu thụ dịch vụ của họ cũng tăng, nhất là các ngành dịch vụ
chất lượng cao như du lịch, giáo dục và y tế. Đồng thời, việc tăng năng suất ở
nhiều ngành dịch vụ lại thấp hơn so với ngành công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại. Cùng với hàng loạt các vấn đề khác đưa đến thực tế là: thay thế vốn
cho lao động trong kinh doanh dịch vụ sẽ khó khăn hơn trong các ngành khác.
Đổi lại, điều này dẫn đến giá cả của nhiều dịch vụ truyền thống tăng tương
đối nhanh hơn giá cả hàng hóa [46, tr. 1].
Ở Việt Nam, dịch vụ chiếm trên 38% GDP, thấp hơn tỷ trọng trung
bình của các nước có thu nhập thấp (44%). Tuy nhiên, theo các số liệu của
Ngân hàng thế giới công bố, cho thấy GDP của khu vực dịch vụ là nhân tố
tăng trưởng nhanh nhất trong toàn GDP của các nền kinh tế có thu nhập thấp

16


và trung bình. Ngồi ra, một tỷ trọng đáng kể người lao động ở các nước đang
phát triển làm việc trong khu vực dịch vụ, trong đó ở Việt Nam là khoảng
25% [36, tr. 43].
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê và tính tốn của Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Bộ Kế hoạch và đầu tư đưa ra trong
Báo cáo Dự án VIE/02/009 về "Tăng cường phối hợp giữa các cơ quản quản
lý nhà nước đối với các ngành dịch vụ" [69, tr42], đóng góp của ngành dịch
vụ trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam và của từng ngành dịch vụ cụ thể
được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 1.2: Tăng trưởng giá trị tăng thêm và đóng góp của từng ngành
dịch vụ vào tăng trưởng của ngành dịch vụ 2001 - 2004 (%)
2001

2002


2003

2004

Tốc độ tăng trưởng GDP

6,89

7,08

7,34

7,69

Tốc độ tăng trưởng Dịch vụ

6,10

6,54

6,45

7,47

Đóng góp vào tăng trưởng GDP của khu vực dịch vụ

2,52

2,68


2,63

3,02

Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo tỷ lệ % của khu
vực dịch vụ

6,54

37,84

35,86

39,33

6,10
6,22
5,85
5,21

6,54
6,58
7,62
3,90

6,45
6,30
7,82
5,25


7,47
7,58
7,66
5,91

Tốc độ tăng trƣởng (giá năm 1994)
Khu vực dịch vụ
Dịch vụ kinh doanh có tính thị trường
Dịch vụ sự nghiệp
Dịch vụ quản lý hành chính cơng

Đóng góp vào tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ theo điểm phần trăm
Khu vực dịch vụ
Dịch vụ kinh doanh có tính thị trường
Dịch vụ sự nghiệp
Dịch vụ quản lý hành chính cơng

6,10
4,88
0,86
0,36

6,54
5,15
1,12
0,27

6,45
4,94

1,16
0,36

7,47
5,93
1,15
0,40

Đóng góp vào tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ theo tỷ lệ %
Khu vực dịch vụ
Dịch vụ kinh doanh có tính thị trường
Dịch vụ sự nghiệp
Dịch vụ quản lý hành chính cơng

100,00
79,84
14,10
6,06

100,00
78,73
17,07
4,20

100,00
76,49
17,93
5,58

100,00

79,28
15,36
5,36

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương.

17


Từ những phân tích trên cho thấy dịch vụ đóng một vai trò quan trọng
đáng kể và ngày càng tăng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia và
của nền kinh tế toàn cầu.
1.1.1.3. Phân ngành dịch vụ
Trước khi WTO được thành lập, các hệ thống phân loại phổ biến trên
thế giới chủ yếu tập trung vào đối tượng là các hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc các sản phẩm hàng hóa hữu hình. Theo đó, hai hệ thống phân loại cơ bản
nhất được các quốc gia và các tổ chức kinh tế quốc tế trên thế giới thừa nhận
và sử dụng là Hệ thống phân loại theo tiêu chuẩn công nghiệp quốc tế
(International Standard Industrial Classification - ISIC) và Phân loại các sản
phẩm chủ yếu (Central Product Classification - CPC) của Ủy ban thống kê
Liên hợp quốc. Hai hệ thống phân loại này đang được Liên hợp quốc tiếp tục
hoàn thiện để ngày càng phù hợp hơn với thực tiễn sinh động của hoạt động
kinh doanh thương mại quốc tế.
Năm 1995, cùng với sự ra đời và mở rộng phạm vi ảnh hưởng trên toàn
thế giới của Tổ chức thương mại thế giới WTO, các ngành dịch vụ được phân
loại dựa trên các quy định trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ - GATS.
Nhìn chung, cách phân loại các ngành dịch vụ của WTO cũng dựa theo
CPC, đó là căn cứ nguồn gốc ngành kinh tế. Theo đó, dịch vụ được phân thành
12 ngành, bao gồm tất cả các ngành dịch vụ được trao đổi nhằm mục đích
thương mại. Những ngành được cung cấp để phục vụ cho mục đích sử dụng của

Chính phủ không thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS hay của WTO. Mỗi
ngành dịch vụ lại được chia thành các phân ngành nhỏ, trong các phân ngành
có liệt kê các hoạt động dịch vụ cụ thể. Tổng số có 155 phân ngành như vậy.
Có một thực tế là trong khi tất cả các ngành dịch vụ này có thể đều
được đưa vào bảng cam kết của các thành viên của WTO thì chỉ những ngành
được các thành viên của WTO lựa chọn và đưa vào biểu cam kết khi gia nhập
WTO mới thực sự có giá trị ràng buộc đối với các thành viên đó.

18


WTO phân chia dịch vụ thành 12 ngành như sau:
- Các dịch vụ kinh doanh (bao gồm Các dịch vụ chuyên ngành; Các
dịch vụ liên quan đến máy tính; Các dịch vụ nghiên cứu và triển khai);
- Các dịch vụ bất động sản;
- Các dịch vụ cho thuê không qua môi giới;
- Các dịch vụ kinh doanh khác;
- Các dịch vụ truyền thông (Các dịch vụ bưu điện; Các dịch vụ đưa thư;
Các dịch vụ viễn thông; Các dịch vụ nghe nhìn; Các dịch vụ truyền thơng khác);
- Các dịch vụ xây dựng và kỹ sư cơng trình (Tổng cơng trình xây
dựng nhà cao ốc, Tổng cơng trình xây dựng cho các cơng trình dân sự, Cơng
việc lắp đặt và lắp ráp, Cơng việc hồn thiện và kết thúc xây dựng, Các dịch
vụ xây dựng và kỹ sư cơng trình khác);
- Các dịch vụ phân phối (Các dịch vụ của đại lý hoa hồng, Các dịch
vụ thương mại bán buôn, Dịch vụ bán lẻ, Dịch vụ nhượng quyền kinh doanh,
Các dịch vụ phân phối khác);
- Các dịch vụ giáo dục (Dịch vụ giáo dục tiểu học, Dịch vụ giáo dục
trung học, Dịch vụ giáo dục đại học, Dịch vụ giáo dục người lớn, Các dịch vụ
giáo dục khác);
- Các dịch vụ mơi trường (Dịch vụ thốt nước, Dịch vụ thu gom rác,

Dịch vụ vệ sinh, Các dịch vụ môi trường khác);
- Dịch vụ tài chính (tất cả các dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo
hiểm, Các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (khơng kể bảo hiểm),
Các dịch vụ tài chính khác);
- Các dịch vụ xã hội và liên quan đến sức khỏe (Các dịch vụ bệnh
viện, Các dịch vụ y tế khác, Các dịch vụ xã hội, Các dịch vụ khác);
- Các dịch vụ du lịch và lữ hành (khách sạn và nhà hàng, các đại lý lữ
hành và các dịch vụ hướng dẫn tour, các dịch vụ hướng dẫn du lịch, các dịch
vụ du lịch và lữ hành khác);

19


- Các dịch vụ văn hóa và giải trí (các dịch vụ giải trí, các dịch vụ bán
báo, thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các dịch vụ văn hóa khác, thể thao và các
dịch vụ giải trí khác, các dịch vụ văn hóa và giải trí khác);
- Các dịch vụ vận tải (các dịch vụ vận tải biển, vận tải đường thủy nội
địa, các dịch vụ vận tải đường hàng không, vận tải vũ trụ, các dịch vụ vận tải
đường sắt, các dịch vụ vận tải đường bộ, vận tải theo đường ống dẫn, các dịch
vụ phụ trợ cho tất các loại vận tải, các dịch vụ vận tải khác).
- Các dịch vụ khác khơng có tên ở trên.
Theo quy định của WTO, trong mỗi nhóm ngành đều có mục "các
dịch vụ khác", đặc biệt trong nhóm ngành thứ 12, là "các dịch vụ khác khơng
có tên ở trên". Việc liệt kê tất cả các loại hình dịch vụ có khả năng tham gia
vào thương mại quốc tế là điều rất khó bởi sự đa dạng, phong phú và tính chất
phức tạp của dịch vụ. Việc quy định như trên giúp cho việc sắp xếp, phân loại
dịch vụ vào các ngành và phân ngành được dễ dàng đồng thời tạo tính mở cho
danh mục. Bất kỳ dịch vụ nào đang tồn tại hoặc các dịch vụ mới sẽ xuất hiện
trong tương lại, dù không được liệt kê trong danh mục của WTO cũng sẽ
thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS nếu những dịch vụ này được cung cấp

trên cơ sở thương mại, cạnh tranh và theo một trong bốn phương thức được
quy định tại Điều 1 của GATS.
1.1.2. Thƣơng mại dịch vụ
1.1.2.1. Khái niệm Thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong
lĩnh vực dịch vụ. Khái niệm về dịch vụ nhấn mạnh khía cạnh thương mại
trong lĩnh vực dịch vụ. Với cách hiểu này, người ta thường phân biệt thương
mại dịch vụ với thương mại hàng hóa. Nếu như đối tượng mua bán trong
thương mại hàng hóa là hàng hóa - các sản phẩm hữu hình thì trong Thương
mại dịch vụ, đối tượng mua bán lại là dịch vụ - các sản phẩm vơ hình.

20


Dưới góc độ kinh tế, thương mại dịch vụ được hiểu là việc sản xuất,
phân phối tiếp thị, cung ứng, mua bán, tiêu dùng và đầu tư vào các hoạt động
dịch vụ. Nói cách khác, thương mại dịch vụ là tất cả các hoạt động liên quan
đến việc đầu tư, tạo ra dịch vụ. Việc phân phối, trao đổi, mua bán, kinh doanh
dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận đều được coi là hoạt động thương mại
dịch vụ.
Đến nay, khái niệm thương mại dịch vụ đã trở nên rất phổ biến trong
thương mại quốc tế, trong các hiệp định song phương và đa phương. Tuy
nhiên, do chưa có định nghĩa thống nhất về dịch vụ, vì vậy có thể định nghĩa
một cách tương đối như sau:
Thương mại dịch vụ bao gồm những hoạt động để đầu tư, tạo ra dịch
vụ, các hoạt động đưa dịch vụ vào lưu thông, mang dịch vụ đến người tiêu
dùng nhằm mục đích thu lợi nhuận của phía thương nhân là nhà cung cấp dịch
vụ. TMDV cũng bao gồm các hoạt động tiêu dùng dịch vụ của bên khách
hàng, các hành vi nêu yêu cầu và cách thức thụ hưởng dịch vụ. Đồng thời nó
cũng bao hàm các hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo duy trì mối quan hệ

giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng, trong mối tương quan chung với nhà
nước và các thiết chế xã hội trong một trật tự pháp luật nhất định phù hợp với
thông lệ quốc tế, tức là nó cũng sẽ bao gồm các hoạt động xây dựng, ban hành
các luật, quy định về TMDV để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động thương
mại dịch vụ; việc thực hiện các quy định đó và cả cơ chế đảm bảo thực hiện.
Ở Việt Nam, tại Luật thương mại năm 2005 có quy định: "Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác" [19, Điều 3]. Luật thương mại năm 2005 đưa ra một định
nghĩa rộng về Thương mại dịch vụ song lại chưa quy định một cách rõ ràng,
cụ thể "Thương mại dịch vụ" là gì. Hành vi "cung ứng dịch vụ" chỉ là một
trong những hành vi thương mại cơ bản trong thương mại dịch vụ.

21


Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cho đến nay mới chỉ có các quy
định liên quan đến việc điều chỉnh các dịch vụ thương mại, được nêu trong Bộ
luật dân sự, Luật thương mại. Các luật chuyên ngành chỉ đề cập đến lĩnh vực
dịch vụ riêng của ngành đó mà chưa có văn bản nào quy định về khái niệm
thương mại dịch vụ. Trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
trong đó nổi bật là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ (BTA) và các
Biểu cam kết dịch vụ giữa Việt Nam và các nước thành viên WTO có các quy
định cụ thể về thương mại dịch vụ trên cơ sở tuân thủ các quy định của WTO.
1.1.2.2. Vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ
* Khái niệm tự do hóa thương mại dịch vụ
Cho đến nay, chưa có một khái niệm chuẩn xác và thống nhất về tự do
hóa thương mại nói chung cũng như tự do hóa thương mại dịch vụ. Tuy nhiên,
khi nói đến cụm từ "tự do hóa thương mại", ai cũng hiểu rằng đó là việc dỡ bỏ
các rào cản của việc lưu thông thương mại hàng hóa cũng như dịch vụ giữa các

nước, các vùng lãnh thổ với nhau.
Theo định nghĩa được nêu ra trong Bách khoa tồn thư mở wikipedia.org,
tự do hóa thương mại được định nghĩa là "một hệ thống trong đó thương mại
hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia hoặc trong một quốc gia được lưu thông
không bị cản trở bởi các chính sách hạn chế của chính phủ" ("Free trade is a
system in which the trade of goods and services between or within countries
flows unhindered by government-imposed restrictions") [73].
Như vậy, có thể nói "tự do hóa thương mại dịch vụ" chính là việc dỡ bỏ
các chính sách hạn chế của chính phủ hay nhà cầm quyền đối với việc lưu thông
của thương mại dịch vụ giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ.
* Địi hỏi của việc tự do hóa thương mại dịch vụ
Xuất phát từ thực tế dịch vụ dịch chuyển tự do từ nước này sang nước
khác, dẫn đến sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và diễn ra trên phạm vi

22


tồn thế giới. Thực tế đó ảnh hưởng đến chính sách thương mại và đầu tư của
các quốc gia. Vấn đề đặt ra cho các quốc gia là sẽ tham gia vào hay đứng ngồi
q trình tồn cầu hóa. Và các quốc gia đều thừa nhận một thực tế chung là:
tham gia vào tồn cầu hóa tuy thách thức rất lớn, song cơ hội cũng rất nhiều.
Không tham gia vào tiến trình ấy sẽ bị phân biệt đối xử trong tiếp cận thị trường,
sẽ rất khó khăn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa.
Mặt khác, quốc gia nào khơng tham gia vào q trình tồn cầu hóa sẽ khơng có
địa vị bình đẳng trong việc bàn thảo và xây dựng định chế của nền thương mại
thế giới, khơng có điều kiện để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình.
Thực tế đó buộc các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới tham gia
vào thị trường thương mại phải tính đến vấn đề mở cửa thị trường, trong đó
có việc mở cửa thị trường dịch vụ.
Số liệu thống kê cho thấy có một mối liên hệ khơng thể phủ nhận giữa tự

do hóa thương mại và tăng trưởng kinh tế. Tất cả các nước, kể cả các nước
nghèo đều có những nguồn lực như nhân lực, cơng nghiệp, tài ngun thiên
nhiên, tài chính mà họ có thể khai thác để sản xuất hàng hóa và dịch vụ phục vụ
thị trường nội địa hoặc nước ngoài. Nguyên tắc "lợi thế so sánh" chỉ ra rằng các
nước làm giàu trước tiên bằng cách tận dụng các nguồn lực sẵn có để tập trung
sức lực vào những lĩnh vực mà họ có điều kiện sản xuất tốt nhất, tiếp đến bằng
cách trao đổi những sản phẩm này lấy những sản phẩm mà những nước khác có
thể sản xuất với những điều kiện tốt nhất.
Nói cách khác, chính sách thương mại tự do hay chính sách đảm bảo cho
hàng hóa và dịch vụ tự do lưu thơng là làm gia tăng cạnh tranh, khuyến khích
khả năng sáng tạo và tạo ra thành cơng. Chính sách thương mại tự do này giúp
người ta thu được thêm nhiều lợi nhuận từ việc sản xuất ở điều kiện tốt nhất, với
kế hoạch hoàn hảo nhất và giá thành thấp nhất.
Bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước trở nên cồng kềnh, không
hiệu quả, cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm lỗi thời hoặc kém hấp
dẫn. Và cuối cùng, mặc dù được nhà nước bảo hộ và trợ cấp, các nhà máy vẫn

23


×