Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở việt nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ NGA PHƯỢNG

PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC LÀM
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2010


MỤC LỤC
Trang

1.1.
1.1.1.
1.1.1.1.
1.1.1.2.
1.1.2.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.
1.2.5.
1.2.6.


1.3.
1.3.1.
1.3.2.

2.1.
2.1.1.
2.1.1.1.
2.1.1.2.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.3.1.

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM
Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm
Khái niệm việc làm, giải quyết việc làm
Khái niệm việc làm
Khái niệm giải quyết việc làm
Tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc làm và giải quyết
việc làm
Đảm bảo quyền và nghĩa vụ lao động của công dân
Nhà nước thống nhất quản lý về việc làm và giải quyết việc làm

Cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao động
Bình đẳng trong lĩnh vực việc làm
Ưu đãi một số đối tượng đặc thù
Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động tạo ra việc làm và hỗ trợ tạo
ra việc làm
Lược sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật về việc làm
và giải quyết việc làm ở Việt Nam
Pháp luật về giải quyết việc làm thời kỳ trước khi có Bộ luật Lao
động
Pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm theo Bộ luật Lao động
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC
LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ HỘI NHẬP
Thực trạng pháp luật về lao động - việc làm
Thực trạng về lao động - việc làm
Thực trạng nguồn lao động
Hiện trạng về việc làm
Thực trạng pháp luật về lao động - việc làm
Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm ở Việt Nam
Về trách nhiệm giải quyết việc làm của nhà nước
Về trách nhiệm giải quyết việc làm của người sử dụng lao động
Giải quyết việc làm cho lao động dặc thù
Đối với lao động nữ

1

1
7
7
7

7
13
16
19
20
21
21
22
23
23
24
24
28
32

32
32
32
34
40
49
49
61
70
71


2.2.3.2. Đối với lao động là người tàn tật
2.2.4.
Thực trạng pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC
LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ HỘI NHẬP
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và
giải quyết việc làm ở Việt Nam
3.2.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải
quyết việc làm ở Việt Nam
3.3.
Một số kiến nghị cụ thể
3.3.1.
Về các quy định của pháp luật
3.3.2.
Về tổ chức thực hiện
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

76
81
88

88
93
97
97
106
113

116


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng
đối với mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển
có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao
động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử
dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể
chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu
vực và thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã được thơng qua tại Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ IX của Đảng: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã
hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân".
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã xác định rõ: "Phát
triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu
lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và
tìm việc làm".
Trong những năm qua, các cơ chế, chính sách về lao động - việc làm
được kịp thời đánh giá, bổ sung và sửa đổi bảo đảm ngày càng thơng thống,
phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập, đảm bảo quyền và lợi ích của
người lao động, người sử dụng lao động và tuân thủ các quy luật kinh tế thị
trường. Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước về lao động - việc làm ngày
càng hoàn thiện, nhiều luật mới ra đời và đi vào cuộc sống, nhiều văn bản
hướng dẫn được ban hành nhằm từng bước hoàn thiện thể chế, tạo hành lang
pháp lý cho các hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Nhằm hạn chế
những tác động tiêu cực của thị trường, Nhà nước đã ban hành các chính sách


3


cho nhóm lao động yếu thế, góp phần hỗ trợ người lao động tạo việc làm,
nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Hòa theo xu thế chung của thời đại, Việt Nam đã gia nhập và chính
thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hội
nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh các cơ hội, chúng ta cũng phải đối mặt với
những thách thức to lớn tác động tới việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc làm và giải quyết
việc làm, đã có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này, nhưng hiện nay chưa có
cơng trình nghiên cứu khoa học nào khái lược một cách hệ thống, cơ bản về
pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập,
trên cơ sở đó đề ra phương hướng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội
nhập. Trong khi đó, việc nghiên cứu những bất cập, tồn tại, vướng mắc của
pháp luật trong thời kỳ hội nhập để hồn thiện pháp luật lao động, khơng
những có ý nghĩa lý luận và cịn có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với phát triển
thị trường lao động việc làm ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý đối với việc làm
bền vững cho người lao động nói riêng, sự phát triển của quốc gia nói chung.
Vì những lý do nói trên, tơi đã chọn đề tài "Pháp luật lao động về việc
làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập" làm đề tài
luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu chung về việc làm và giải quyết việc làm, chúng ta khơng
thể khơng tìm hiểu tác phẩm Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam
của PGS. Nguyễn Hữu Dũng - PTS. Trần Hữu Trung (chủ biên), Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Một số sinh viên cũng đã chọn đề tài
pháp luật lao động về việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động làm
khóa luận tốt nghiệp tuy nhiên đã nhiều năm trôi qua, với rất nhiều biến động

và thay đổi về cơ sở lý luận và thực tiễn, kết quả nghiên cứu của khóa luận đã
khơng cịn cập nhật và phù hợp so với tình hình hiện nay.

4


Với tính chất là cơ quan chủ quản và quản lý chuyên ngành về vấn đề
việc làm và giải quyết việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có
khá nhiều các cơng trình nghiên cứu khoa học cũng như tổ chức nhiều hội
thảo về vấn đề này. Cụ thể như Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm các năm 2001 - 2005; Đánh giá
thực trạng xây dựng và thực hiện các chính sách việc làm ở Việt Nam năm
2008; Chương trình Luận cứ khoa học xây dựng Chiến lược Việc làm Việt
Nam và phát triển quan hệ lao động năm 2009; Hội thảo Chính sách việc làm,
thị trường lao động và đề xuất nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Hà Nội...
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc làm và giải quyết
việc làm, đã có nhiều tác giả quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc
độ, khía cạnh. Dưới góc độ pháp luật thì cho đến nay đã có một số tác giả
công bố các tác phẩm khoa học nghiên cứu một vấn đề, khía cạnh, bộ phận
hay một số quy định pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm chẳng hạn như
TS. Lê Thị Hoài Thu, "Vấn đề xây dựng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, 2002; PGS.TS Phạm Công
Trứ, "Một số vấn đề pháp lý về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam",
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 2003; ThS. Bùi Thị Kim Ngân, "Hướng
hoàn thiện những quy định của pháp luật về lao động nữ", Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 3, 2004; Phạm Kim Nhuận, "Quản lý cho vay Quỹ quốc gia hỗ trợ
việc làm của Ngân hàng chính sách xã hội và những kiến nghị", Tạp chí Lao
động Xã hội, số 265, 2005; TS Nguyễn Hữu Chí, "Quỹ bảo hiểm xã hội và
một số vấn đề về bảo toàn, phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội", Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 6, 2006; TS. Nguyễn Hữu Chí, "Vai trị của Nhà nước

trong lĩnh vực giải quyết việc làm", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, 2006;
ThS. Phạm Trọng Nghĩa, "Pháp luật lao động trong q trình tồn cầu hóa",
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11(135), 2008; TS. Lưu Bình Nhưỡng,
"Thực tiễn áp dụng Bộ luật Lao động và hướng hồn thiện pháp luật lao
động", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5(142), 2009; TS. Phạm Đình Thành,
"Việc làm và chính sách thị trường lao động", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 2B

5


và 3A, 2009; Nguyễn Thị Thúy Vân, "Vấn đề lao động mất việc làm và chính
sách bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Quản lý nhà nước, số
174, 2010; PGS.TS Phạm Công Trứ, "Cơ chế ba bên ở Việt Nam: Những ghi
nhận về mặt pháp lý", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9, 2010,...
Nhìn chung, để có góc nhìn tương đối khái qt, hệ thống và chi tiết
về chính sách việc làm và giải quyết việc làm nói chung, pháp luật lao động
về việc làm và giải quyết việc làm nói riêng, nhất là đi sâu phân tích một số
vấn đề nổi bật để có phương hướng hồn thiện đáp ứng u cầu hội nhập, địi
hỏi phải có nhiều hơn các cơng trình nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy, việc lựa
chọn đề tài này là khá mới mẻ, vừa có giá trị lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn,
như một sự bổ sung cần thiết vào khoa học luật lao động.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Khái quát pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm, nghiên cứu các
quy định của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm để tìm ra
các vướng mắc, tồn tại, bất cập để trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị
hồn thiện pháp luật lao động đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ hội nhập.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết việc

làm, pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm;
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động về trách nhiệm của
Nhà nước, của người sử dụng lao động, của tổ chức dịch vụ việc làm, việc
làm cho lao động đặc thù cũng như thực trạng pháp luật trong lĩnh vực việc
làm và giải quyết việc làm;
+ Nghiên cứu tổng quát bối cảnh hội nhập quốc tế, trong nước, cơ hội
và thách thức cũng như thực trạng về việc làm, giải quyết việc làm ở Việt

6


Nam, tồn tại và bất cập của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc
làm trong thời kỳ hội nhập để làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao
động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập;
+ Đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật lao
động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước ta cũng như những quy định pháp luật trong lĩnh vực
việc làm và giải quyết việc làm. Ngoài ra, luận văn vận dụng chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc
nghiên cứu. Hơn nữa trong q trình nghiên cứu, luận văn cịn sử dụng các
phương pháp cụ thể khác như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu để giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về
việc làm và giải quyết việc làm, đặc biệt là các quy định của pháp luật lao
động về việc làm và giải quyết việc làm của Việt Nam, trên cơ sở tham khảo
pháp luật lao động của một số nước trên thế giới. Với các nội dung cụ thể của
pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm, theo tác giả sẽ cịn được nghiên

cứu trong những cơng trình khoa học tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có những
đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu pháp luật lao động về việc làm và
giải quyết việc làm, nhất là trong thời kỳ hội nhập.
- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên
cứu cho sinh viên, học sinh.

7


- Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định chính sách và những ai quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về việc làm và giải quyết việc làm.
Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về việc làm và
giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về việc làm và
giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập.

8


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1. Khái niệm việc làm, giải quyết việc làm

1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Bất cứ một sinh vật nào, muốn tồn tại buộc phải tiến hành những hoạt
động nhằm tạo ra và đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất đối với bản thân
và cộng đồng. Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới
sinh vật nói chung và lồi người nói riêng. Khơng chỉ đóng vai trị duy trì
cuộc sống con người, hoạt động kiếm sống còn là cơ sở để cải tạo con người,
cải biến con người từ những sinh vật hoang dã thành những thành viên của xã
hội, làm hình thành xã hội và phát triển xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ
hơn. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm.
Việc làm gắn liền với nhu cầu mưu sinh của mỗi cá nhân, là một trong
những vấn đề có tính chất tồn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia,
bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp tốt nhất để từng bước ổn
định và nâng cao đời sống của nhân dân, đảm bảo sự phát triển bền vững. Để
nghiên cứu về vấn đề việc làm, trước hết chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm
việc làm và các khái niệm có liên quan. Bởi lẽ, hệ thống khái niệm sẽ là cơ sở
để xác định chuẩn xác về tỷ lệ người có việc làm, thiếu việc làm và thất
nghiệp, từ đó, hoạch định chính sách, tìm giải pháp tác động, hướng dẫn và
điều tiết thị trường lao động trong nước, khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, trên thế giới, có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm, tùy
theo các cách tiếp cận khác nhau:
Hiểu theo nghĩa thơng thường thì việc làm là cơng việc được giao cho
làm và được trả công.

9


Dưới góc độ quan hệ sản xuất khơng phụ thuộc vào mục đích việc làm
thì "việc làm là một quan hệ sản xuất nảy sinh do có sự kết hợp giữa cá nhân
người lao động với các phương tiện sản xuất" - Theo Gơrêlốp.

Nếu chú trọng mục đích của việc làm thì việc làm ln gắn với tiền
lương do vậy việc làm được định nghĩa "như một tình trạng trong đó có sự trả
cơng bằng tiền hoặc hiện vật do có sự tham gia tích cực có tính chất cá nhân
và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất" - Theo Giang Mute.
Theo Guy Hân-tơn: "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt
động kinh tế xã hội; nghĩa là tất cả những gì liên hệ đến cách thức kiếm sống
của con người kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành
khuôn khổ của q trình kinh tế" [38].
Chính vì vai trị và tính chất phức tạp của vấn đề việc làm mà tại hội
nghị thống kê lao động quốc tế lần thứ 8 năm 1945 ở Giơnevơ và trong
khuyến nghị về thống kê lao động quốc tế năm 1975, vấn đề việc làm đã được
đưa ra. Nhưng người ta chỉ định nghĩa về người có việc làm, đó là những
người thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người đang làm một việc được trả cơng trong một thời gian ngắn, có
thể là một tuần lễ, một ngày.
- Người đã có chỗ làm việc nhưng có thời gian khơng đi làm, tạm thời
vắng mặt trong một thời gian nhất định do ốm đau, tai nạn, tạm nghỉ việc do
tranh chấp lao động hoặc các lý do khác.
Hiện nay, theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì khái niệm việc
làm chỉ đề cập đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc
làm được phân thành hai loại: Có trả công (những người làm thuê, học
việc…) và không được trả cơng nhưng vẫn có thu nhập (giới chủ làm kinh tế
gia đình…). Vì vậy, việc làm được coi là hoạt động có ích mà khơng bị pháp
luật ngăn cấm có thu nhập bằng tiền (hoặc bằng hiện vật). Những người có
việc làm là những người làm một việc gì đó có được trả cơng, lợi nhuận, được

10


thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang

tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình, khơng được
nhận tiền cơng (hiện vật).
Có thể xem xét việc làm ở hai trạng thái "động" và "tĩnh". Ở trạng thái
"động" việc làm là hoạt động của mọi tầng lớp dân cư nhằm tạo ra những thu
nhập có lợi cho cá nhân, cho cộng đồng trên cơ sở những quy định của pháp
luật. Việc làm ln là hoạt động có mục đích của con người, là hình thức vận
dụng sức lao động kết hợp với các yếu tố vật chất, kỹ thuật trong xã hội và
được tiến hành trong một khơng gian và thời gian nhất định. Cịn ở trạng thái
"tĩnh" việc làm dùng để chỉ nhu cầu sử dụng sức lao động cùng các yếu tố vật
chất - kỹ thuật khác nhằm mục đích tạo ra thu nhập hoặc mang lại những kết
quả có ích cho cá nhân, cho cộng đồng. Như vậy, việc làm là tổng thể các
hoạt động kinh tế được thực hiện dựa vào "sự cho phép" của pháp luật có liên
quan đến đối tượng, đến sự thu nhập của dân cư trong xã hội.
Đồng thời, trong thời kỳ hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay, ILO còn
khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn hay việc làm bền vững, theo đó
khái niệm việc làm gắn với các tiêu chí đó là: Việc làm năng suất (nhằm đảm
bảo cho người lao động có điều kiện sinh sống ở mức chấp nhận được); Bình
đẳng trong công việc (người lao động phải được đối xử bình đẳng và cơng
bằng về cơ hội việc làm); An toàn tại nơi làm việc (người lao động cần được
giúp đỡ, bảo vệ, bảo đảm sức khỏe, các chế độ hưu trí và sinh sống); Bảo đảm
nhân phẩm tại nơi làm việc (người lao động cần được tôn trọng tại nơi làm
việc và được tham gia vào quá trình ra các quyết định liên quan đến điều kiện
làm việc). Theo chúng tôi, đây là một khái niệm rất cần thiết để Việt Nam
tham khảo và hướng đến.
Ở Việt Nam, khái niệm việc làm đã được quy định tại Điều 13 Bộ luật
Lao động như sau: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".

11



Như vậy, dù được hiểu theo nhiều quan niệm khác nhau, nhưng có thể
thấy khái niệm việc làm bao gồm hai nội dung có tính điều kiện:
Nội dung thứ nhất đề cập việc làm là hoạt động lao động của con
người tạo ra nguồn thu nhập (điều kiện cần). Các hoạt động này thể hiện việc
làm luôn luôn gắn với thu nhập. Những hoạt động khơng mang lại thu nhập
thì không được coi là việc làm. Việc làm phải được coi là một phương kế
kiếm sống, là một hoạt động mà qua đó người ta được trả cơng (bằng tiền
hoặc hiện vật) và sống nhờ vào khoản tiền đó.
Nội dung thứ hai đề cập hoạt động ấy không bị pháp luật cấm (điều
kiện đủ). Nếu hoạt động lao động chỉ thỏa mãn điều kiện thứ nhất, thì dưới
góc độ pháp lý vẫn chưa đủ để coi là việc làm. Có những hoạt động tuy tạo ra
thu nhập, thậm chí rất cao nhưng khơng được coi là việc làm vì vi phạm điều
kiện thứ hai này như hoạt động buôn bán ma túy, chế tạo, buôn bán pháo...
Đây là một quan niệm mới về việc làm so với thời kỳ bao cấp của Việt
Nam trước đây. Việc quy định khái niệm về việc làm theo Điều 13 Bộ luật
Lao động đã làm thay đổi một cách căn bản vấn đề nhận thức về việc làm:
trước đây người ta cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực nhà nước, khu vực
kinh tế tập thể mới được gọi là có việc làm, khơng thừa nhận là có việc làm khi
hoạt động ở các lĩnh vực khác; nhưng đến nay, với quan niệm này thì người lao
động đã đứng vào vị trí trung tâm, năng động và chủ động tự tạo việc làm cho
mình và cho người khác, ở tất cả các thành phần kinh tế, không thụ động, trông
chờ ỷ lại vào sự bố trí việc làm của Nhà nước. Do vậy, căn cứ vào trong tình
hình thực tiễn của Việt Nam hiện nay, quan niệm này là tương đối đầy đủ và
chính xác. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng đây là một quan niệm, "chưa
phải là một định nghĩa hoặc khái niệm đầy đủ về việc làm" [70]. Nó phù hợp
với thực tiễn Việt Nam đang ở giai đoạn thấp của sự phát triển, trong tương
lai cần có một định nghĩa chuẩn, chất lượng hơn về việc làm.
Vì vậy, trong thời kỳ hội nhập, theo chúng tôi, để đưa ra được khái
niệm chính xác hơn về việc làm, cần tìm hiểu thêm về các khái niệm có


12


liên quan mật thiết như thất nghiệp, thiếu việc làm, người có việc làm, người
thất nghiệp…
Ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, người lao
động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người
làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế
tập thể. Trong cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm đến người lao động từ đầu
đến cuối. Do đó, trong xã hội khơng thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp,
thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm khơng đầy đủ. Chuyển sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, quan niệm về việc làm thay đổi một cách
căn bản, từ đó các khái niệm có liên quan cũng được hiểu chính xác và đầy đủ
hơn, góp phần thống nhất các chuẩn mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh
giá và thơng tin về tình trạng việc làm và thất nghiệp.
Trên cơ sở vận dụng quan niệm việc làm của ILO và nghiên cứu điều
kiện cụ thể của Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm người có việc làm như sau:
"Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề đang
hoạt động có ích, khơng bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để ni sống
bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội" [17]. Với khái
niệm này, sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng
to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người.
Cịn về khái niệm thất nghiệp cũng có nhiều quan điểm khác nhau nhưng
theo chúng tôi, thất nghiệp thể được hiểu là "hiện tượng xã hội phản ánh tình
trạng tồn bộ số người có khả năng lao động, ở độ tuổi do pháp luật quy định
mà khơng có việc làm hoặc đang tìm việc làm mà khơng có thu nhập nên Nhà
nước phải có chính sách hỗ trợ" [60]. Với cách tiếp cận này, trong pháp luật
nên thể hiện quan điểm thất nghiệp là "hiện tượng những người lao động bị
mất việc làm, có nhu cầu lao động và đang tích cực tìm việc" [60]. Trong khái

niệm thất nghiệp, cũng cần lưu ý có các loại đối tượng chưa làm việc bao giờ
(thanh niên mới bước vào tuổi lao động nhưng chưa có việc làm) và mất việc,
chờ lao động, lao động dư thừa...

13


Khái niệm thiếu việc làm theo Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung
được hiểu là: trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là
"tình trạng có việc làm, nhưng do ngun nhân khách quan, ngồi ý muốn của
người lao động, họ phải làm việc không hết thời gian theo luật định, hoặc làm
những công việc có thu nhập thấp, khơng đủ sống, muốn tìm thêm việc làm
bổ sung" [17].
Dưới giác độ của thị trường lao động, khái niệm người thất nghiệp
được định nghĩa rất khác nhau ở mỗi nước. Theo chúng tơi, dưới góc độ pháp
lý, "Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động,
hiện đang khơng có việc làm và đang đi tìm việc làm" [60]. Mặt khác, cũng
cần phân biệt giữa người không làm việc và người thất nghiệp. Về vấn đề này,
chúng tôi tán thành với ý kiến của Đỗ Năng Khánh: khái niệm "người không
làm việc" rộng hơn khái niệm "người thất nghiệp". Trong số người khơng làm
việc có thể bao gồm cả người thất nghiệp. Người khơng làm việc bao gồm cả
những người có khả năng lao động, trong độ tuổi lao động nhưng lại khơng có
nhu cầu tìm việc làm.
Cũng cần lưu ý rằng, khi phân tích những khái niệm trên, chúng ta
mới chỉ tính đến đối tượng nằm trong lực lượng lao động và trong độ tuổi lao
động. Theo kinh nghiệm của thế giới, để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động,
mỗi quốc gia phải lập sơ đồ lực lượng lao động riêng của mình. Việt Nam có
thể vận dụng kinh nghiệm quốc tế, nhưng có thể lấy tuổi giới hạn "từ 15 đến
55 đối với nữ và 15 đến 60 đối với nam" [17]. Song do đặc điểm của Việt
Nam, người có nhu cầu việc làm ngồi tuổi lao động rất lớn để đảm bảo đời

sống của bản thân và gia đình. Vì vậy để hoạch định chính sách về việc làm
cần thiết phải nghiên cứu đối tượng này (hưu trí, lao động vị thành niên,
người già, người tàn tật...).
Từ những phân tích ở trên, trong thời kỳ hội nhập cần phải có một
khái niệm về việc làm phù hợp hơn, theo đó, khái niệm việc làm có thể hiểu là
hoạt động lao động của con người nhằm mục đích tạo ra thu nhập và hoạt

14


động này không bị pháp luật cấm, đồng thời mục tiêu xã hội cần hướng tới là
việc làm bền vững hay là việc làm nhân văn cho mọi người. Đồng thời, cần
quy định rõ những khái niệm có liên quan đến việc làm như thất nghiệp,
người thất nghiệp, thiếu việc làm...
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết việc làm
Cùng với việc làm, giải quyết việc làm là vấn đề quan trọng, thậm chí
là rất quan trọng. Bởi vì rằng, nó khơng chỉ thuộc bình diện kinh tế - xã hội,
mà cịn thuộc bình diện chính trị - pháp lý. Hơn nữa, giải quyết việc làm
không chỉ là vấn đề bức xúc trước mắt, mà cịn là vấn đề chiến lược lâu dài;
khơng chỉ đối với một quốc gia mà cịn mang tính quốc tế nóng bỏng, tính
tồn cầu sâu sắc.
Có thể hiểu giải quyết việc làm gắn liền với quá trình tạo việc làm.
Thực chất của tạo việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động
và tư liệu sản xuất, cả về số lượng và chất lượng. Hay nói cách khác những
điều kiện về sức lao động và tư liệu sản xuất mới tồn tại như là một khả năng
để tạo việc làm, muốn biến khả năng này thành hiện thực (việc làm), phải có
mơi trường thuận lợi cho sự kết hợp hai yếu tố này. Tuy sức lao động và tư
liệu sản xuất kết hợp với nhau trong điều kiện nhất định mới tạo ra việc làm
song việc làm có được duy trì hay khơng thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như khả năng quản lý, thị trường... Thực tế cho thấy khi khơng có thị trường

hoặc trình độ quản lý yếu kém thì nhiều việc làm được tạo ra nhưng khơng
duy trì được. Do vậy, tạo việc làm là một quá trình mà trong đó, việc tạo ra
chỗ làm việc và thu hút lao động vào làm việc mới chỉ là khâu đầu tiên của
q trình đó.
Chính vì vậy, để có thể khái qt một cách đầy đủ về tạo việc làm cần
phải hiểu tạo việc làm là một quá trình mà làm sao để kết hợp được hai yếu tố
về sức lao động và tư liệu sản xuất, tức là phải tạo ra được những điều kiện
cần thiết để hai yếu tố này phù hợp với nhau và tạo điều kiện cho nhau phát
triển, ở đây bao gồm các hoạt động:

15


Một là, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất: số lượng và chất
lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư và tiến bộ khoa học kỹ thuật
áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản
xuất đó.
Hai là, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động: Số lượng của lao
động phụ thuộc vào quy mô của dân số, các quy định về độ tuổi lao động và
sự di chuyển của lao động. Chất lượng của lao động phụ thuộc vào sự phát
triển về y tế, thể thao và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Ba là, hình thành mơi trường thuận lợi cho sự kết hợp của hai yếu tố
sức lao động và tư liệu sản xuất. Môi trường cho sự kết hợp hai yếu tố này
bao gồm hệ thống các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách khuyến
khích, thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất
nghiệp, chính sách khuyến khích đầu tư v.v...
Bốn là, thực hiện các các giải pháp nhằm duy trì việc làm ổn định và
có hiệu quả cao. Các giải pháp có thể kể tới trong nhóm này là các giải pháp
về quản lý điều hành, về thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất,
các biện pháp khai thác có hiệu quả các nguồn lực, duy trì và nâng cao chất

lượng của sức lao động, kinh nghiệm quản lý của người sử dụng lao động...
Bốn khâu này có liên quan chặt chẽ với nhau và hễ trục trặc ở một
khâu nào là ảnh hưởng tới tạo việc làm.
Giải quyết việc làm là vấn đề kinh tế - xã hội tổng hợp và phức tạp
không chỉ là vấn đề "kinh tế" hay "xã hội" đơn thuần. Vì vậy, nó phải được
hiểu theo nội dung mới, bao hàm cả phạm vi rộng và phạm vi hẹp.
Trên phạm vi rộng, giải quyết việc làm bao gồm những vấn đề liên
quan đến phát triển nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Tức là q trình đó diễn ra bắt nguồn từ vấn đề giáo dục, đào tạo và phổ cập
nghề, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động (lập thân lập
nghiệp), đến vấn đề tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng giá trị mà lao

16


động sáng tạo ra, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Với nội dung
này, vấn đề giải quyết việc làm gắn rất chặt và được thực hiện thông qua các
chương trình phát triển kinh tế. Do đó, giải quyết việc làm theo nghĩa này
mang nội dung kinh tế là chính. Việc sử dụng lao động được hướng vào mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và trở thành yếu tố của tăng trưởng kinh tế. Công
nghệ được lựa chọn ở đây là công nghệ ở tầng cao, công nghệ mũi nhọn, sử
dụng lao động kỹ thuật cao để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Còn theo nghĩa hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng
và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp (chống thất nghiệp), khắc phục tình trạng
thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập. Tức là, chỉ giới hạn
nội dung giải quyết việc làm trong khuôn khổ và phạm vi của chính sách xã
hội. Ở đây mục tiêu của việc làm là để giải quyết vấn đề xã hội, góp phần ổn
định và an tồn xã hội. Với nội dung này, giải quyết việc làm được tách khỏi
chương trình phát triển kinh tế và hình thành chương trình việc làm quốc gia,
như là một chương trình xã hội có mục tiêu. Cơng nghệ được lựa chọn trường

hợp này chủ yếu là cơng nghệ thích hợp, cơng nghệ sử dụng nhiều lao động.
Tất nhiên, giải quyết việc làm theo phạm vi rộng và hẹp trên đây có
quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và đan xen vào nhau, đều hướng vào mục
tiêu hàng đầu là sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội. Song xét về mặt xã
hội, đối tượng giải quyết việc làm mà chúng ta cần đặc biệt quan tâm chính là
những người lao động do hậu quả của lựa chọn và áp dụng công nghệ tầng
cao gây nên (lao động dôi dư, bị sa thải, rơi vào tình cảnh thất nghiệp) và
những người chưa có việc làm, cũng như hiệu quả việc làm kém, thu nhập
thấp. Tức là nhấn mạnh tính chất xã hội, khía cạnh xã hội của nó, để khơng
dẫn đến những điểm nóng, điểm gay cấn về mặt xã hội.
Từ sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu khái quát về giải quyết việc làm
như sau: Giải quyết việc làm là q trình tạo ra điều kiện và mơi trường bảo đảm
cho mọi người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang có nhu cầu
tìm việc làm với mức tiền công thịnh hành trên thị trường đều có cơ hội làm việc.

17


1.1.2. Tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng
đối với mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển
có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao
động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử
dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể
chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu
vực và thế giới.
Về mặt kinh tế, việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề được đặt ra ở
nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Điều này không
chỉ có ý nghĩa đối với một bộ phận dân cư, những người thiếu việc làm và
thất nghiệp mà quan trọng hơn, nó tác động đến sự tăng trưởng và phát triển

kinh tế. Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn rất chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất
nghiệp cao khơng những gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế mà cịn gây khó
khăn cho cuộc sống cá nhân người lao động.
Những người thất nghiệp tuy không sản xuất ra sản phẩm, nhưng vẫn
phải tiêu dùng một lượng hàng hóa nhất định, đặc biệt ở độ tuổi trưởng thành,
mức tiêu dùng thường lớn hơn độ tuổi khác. Nếu, số người thất nghiệp đó
được làm việc họ sẽ tạo ra một lượng giá trị tối thiểu mà họ tiêu dùng, thì mỗi
năm Nhà nước sẽ khơng phải thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng do thất nghiệp gây
nên (chẳng hạn, phải chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp…). Thất nghiệp
không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia, mà còn trực tiếp ảnh hưởng
đến cuộc sống của những người thất nghiệp. Họ phải sống nhờ vào nguồn thu
nhập của những người khác trong gia đình hoặc xã hội (nếu nhà nước có trợ
cấp thất nghiệp) và hơn nữa đơi khi họ là những người chủ trong gia đình,
nguồn thu nhập của họ ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế gia đình.
Ở Việt Nam hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động trước
hết sẽ tạo điều kiện để khai thác được tối đa những nguồn lực quan trọng còn
đang tiềm ẩn như tài nguyên vốn, ngành nghề.... thông qua lao động của con

18


người. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ
và từ đó tạo ra tích lũy, Nhà nước khơng những khơng phải chi trợ cấp cho
những người khơng có việc làm mà khi giải quyết việc làm cho họ, họ có thể
mang lại tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích lũy sẽ giúp cho sản xuất
được mở rộng, tức là tác động đến tổng cung, tăng tiêu dùng sẽ làm cho tổng
cầu của nền kinh tế tăng lên kích thích sự phát triển của sản xuất, từ đó thúc
đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, thu hút thêm nhiều lao động. Mặt khác,
khi người lao động có thu nhập, họ sẽ tăng tiêu dùng, từ đó làm tăng sức mua
của tồn xã hội.

Nước ta ln tồn tại tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm nghiêm
trọng, đại bộ phận dân cư có mức sống thấp, nhiều người lao động cần có việc
làm hoặc việc làm hiệu quả hơn. Giải quyết việc làm ở Việt Nam trong tình
trạng hiện nay có một ý nghĩa to lớn đối với q trình phát triển kinh tế, góp
phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao thu nhập quốc dân.
Về mặt chính trị - xã hội, việc làm và giải quyết việc làm là một vấn
đề mang tính xã hội. Mỗi con người khi trưởng thành đều có nhu cầu và mong
muốn làm việc, đó là nhu cầu chính đáng và cũng là quyền lợi của người lao
động. Chính vì vậy, giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động có ý nghĩ
rất lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội.
Khi Chính phủ có chính sách tạo việc làm thỏa đáng, điều đó sẽ đem
đến sự cơng bằng trong xã hội, tạo công ăn việc làm cho tất cả lao động. Khi
mà mọi người lao động có thu nhập, họ không phải lo ăn bám, hạn chế được
sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội có thể giảm bớt. Ngược lại, nếu không
giải quyết tốt việc làm cho người lao động, hiện tượng thất nghiệp và thiếu
việc làm sẽ tăng lên. Điều này luôn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội
như cờ bạc, trộm cắp, ma túy... làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hóa
nhân phẩm người lao động. Thất nghiệp ở mức cao còn gây ra sự bất ổn định
về kinh tế và chính trị, có khi nó cịn là tác nhân gây ra sự sụp đổ của cả một
thể chế, làm mất niềm tin của người dân đối với Nhà nước và các chính Đảng.

19


Giải quyết việc làm gắn liền với quá trình phân công lao động theo
ngành và theo lãnh thổ. Nếu như khơng có các biện pháp tạo mở việc làm hợp
lý cho khu vực nông thôn, nhiều người lao động ở khu vực này sẽ ra thành thị
để tìm việc làm, gây sức ép cho khu vực thành thị trên tất cả các mặt như: nhà
cửa, điện nước, y tế, thậm chí gây ra cả những rối loạn về mặt xã hội.
Giải quyết việc làm trên phạm vi rộng còn bao gồm cả những vấn đề

liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động.
Trên giác độ này, giải quyết việc làm góp phần nâng cao chất lượng nguồn
lao động nhằm đáp ứng những yêu cầu của thị trường, đồng thời xây dựng
nguồn lực lâu dài cho đất nước.
Về mặt pháp lý, vấn đề việc làm gắn liền với chế độ lao động, quan hệ
việc làm được coi là quan hệ "tiền quan hệ lao động" và đóng vai trị quyết
định cho việc hình thành, phát triển và ổn định quan hệ lao động. Nếu nhìn
nhận việc làm và giải quyết việc làm là một nhánh trong hệ thống lao động xã
hội thì sự ra đời của chế định này làm cho quyền được làm việc của con người
được nâng lên một bước. Việc xây dựng và tiến tới hoàn thiện pháp luật về
việc làm và giải quyết việc làm là hết sức cần thiết, đây cũng là một trong
những quyền cơ bản của con người. Tại Điều 23 Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền ghi nhận: "Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có
những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống thất
nghiệp" [29]. Ơng Rơ-nê Đuy-mơng, một chun gia người Pháp trong cuốn
"Một thế giới khơng thể chấp nhận được" đã nói: "Đối với tơi, dù màu sắc
chính trị thế nào, quyền đầu tiên của con người là quyền được sống, quyền
được ăn, sinh ra từ quyền làm việc; nếu con người bị khai trừ ra khỏi xã hội
hiện đại, bị tước quyền được làm việc là một hình thức ám sát trá hình" [60].
Ở nước ta, quyền có việc làm là một trong những quyền cơ bản hàng
đầu của công dân được ghi trong các bản Hiến pháp. Lịch sử 61 năm xây
dựng, trưởng thành của Chính quyền nhân dân ta được đánh dấu bằng 5 bản
Hiến pháp, Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp

20


1992 và Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001. Từ bản Hiến pháp 1959 đến
bản Hiến pháp sau cùng năm 2001 đều có hẳn một quy định riêng về quyền
làm việc của công dân và ngày càng bổ sung hồn thiện. Điều 30 Hiến pháp

1959 quy định: "Cơng dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có quyền làm
việc. Nhà nước dựa vào sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân,
dần dần mở rộng công việc làm, cải thiện điều kiện lao động và lương bổng
để bảo đảm cho cơng dân được hưởng quyền đó" và Hiến pháp sửa đổi bổ
sung năm 2001 tiếp tục khẳng định quyền làm việc là quyền cơ bản của công
dân: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế
hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động" (Điều 53), mọi cơng
dân có quyền trong việc lựa chọn hình thức việc làm hợp pháp.
Có việc làm là nguyện vọng đáng trân trọng của con người. Con người
được tự do trong lao động là tiền đề để giải phóng sức lao động và phát huy
triệt để tiềm năng của con người. Mọi người có sức lao động đều có quyền có
việc làm, có quyền tiến hành bất cứ hoạt động nào mà tạo ra thu nhập cho bản
thân và gia đình với điều kiện hoạt động đó là hợp pháp, phù hợp với ngun
tắc: "Cơng dân có quyền làm những gì mà pháp luật khơng cấm". Với ý nghĩa
đó, pháp luật về giải quyết việc làm tạo ra hành lang pháp lý làm cơ sở cho
Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội tiến hành các biện pháp giải
quyết việc làm, tạo thu nhập nâng cao đời sống cho người lao động, xây dựng
và phát triển quốc gia. Rõ ràng, việc làm và giải quyết việc làm là một trong
những cơ sở đầu tiên làm phát sinh các vấn đề pháp lý có liên quan tới quan
hệ lao động.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc làm và giải quyết
việc làm
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc làm và giải quyết việc
làm được hiểu là những phương hướng, tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt và chi
phối toàn bộ hệ thống các quy phạm về việc làm và giải quyết việc làm.

21


Pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm đã và đang tồn tại ở nhiều

quốc gia. Mục tiêu của giải quyết việc làm ở các nước nhìn chung đều giống
nhau: chống thất nghiệp, tăng thu nhập, sử dụng tối đa tiềm năng xã hội, nâng
cao đời sống và tăng trưởng kinh tế.
Để quy định và điều chỉnh lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm,
pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm cần phải áp dụng và
tuân thủ một số nguyên tắc sau đây.
1.2.1. Đảm bảo quyền và nghĩa vụ lao động của công dân
Pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm phải bảo đảm mọi người
đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và
nâng cao trình độ nghề nghiệp, khơng bị phân biệt đối xử về giới tính, dân
tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo. Mọi hoạt động tạo ra việc làm, tự
tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh thu hút nhiều lao động đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều
kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ. Tại Điều 23 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
đã ghi nhận: "Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có
những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống thất
nghiệp". Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 của nước ta cũng khẳng định
quyền làm việc là quyền cơ bản của công dân: "Lao động là quyền và nghĩa
vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc
làm cho người lao động" (Điều 53), mọi cơng dân có quyền trong việc lựa
chọn hình thức việc làm hợp pháp. Đồng thời nguyên tắc này đã được quy
định tại Điều 5 của Bộ luật Lao động. Nội dung của các quy định này là sự
bảo đảm về mặt pháp lý cho người lao động trong phạm vi, khả năng, nguyện
vọng của mình có được cơ hội tìm kiếm việc làm và có quyền làm việc. Đồng
thời, để người lao động thực hiện được quyền của mình, pháp luật cũng quy
định trách nhiệm của Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội trong việc
tạo điều kiện và cơ hội để người lao động tìm kiếm và có việc làm.

22



1.2.2. Nhà nước thống nhất quản lý về việc làm và giải quyết việc làm
Nguyên tắc này đã được quy định tại Điều 10 của Bộ luật Lao động.
Nhà nước thống nhất quản lý nguồn nhân lực và quản lý lao động bằng pháp
luật và có chính sách để phát triển, phân bố nguồn nhân lực, phát triển đa
dạng các hình thức sử dụng lao động và dịch vụ việc làm. Theo đó, Nhà nước
phải đảm bảo việc làm thơng qua hoạch định, xây dựng các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội gắn với chính sách việc làm và lao động, đảm bảo cơ hội
làm việc bình đẳng, công bằng cũng như xây dựng, tạo lập các công cụ, thể
chế hỗ trợ trong lĩnh vực tạo và giải quyết việc làm.
1.2.3. Cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao động
Nguyên tắc này được quy định tại Khoản 2 Điều 5 Bộ luật Lao động:
"Cấm ngược đãi người lao động, cấm cưỡng bức người lao động dưới bất kì
hình thức nào". Nội dung nguyên tắc này buộc Nhà nước cũng như người sử
dụng lao động không được buộc người lao động phải tiến hành những việc
làm trái với ý nguyện của họ và trong quá trình sử dụng lao động khơng được
có những hành vi có tính chất ngược đãi người lao động. Đây là một nguyên
tắc nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động. Bởi vì, trước hết người lao
động thuộc về số đông người trong xã hội. Hơn nữa, trong quan hệ lao động
các chủ thể có địa vị kinh tế khơng bình đẳng. Người sử dụng lao động có đầy
đủ các điều kiện về vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ kỹ thuật, khả năng kinh
doanh. Ngược lại, người lao động lại rơi vào vị thế yếu, họ chỉ có một tài sản
duy nhất đó là sức lao động để đổi lấy thu nhập, đảm bảo cuộc sống. Chính vì
vậy mà trong q trình lao động, người sử dụng lao động không được dùng vị
thế kinh tế của mình để ép buộc, cưỡng bức, ngược đãi người lao động phải
làm việc theo ý muốn của mình trái với quy định của pháp luật, vi phạm
quyền con người. Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2,
khoản 3 Điều 8 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên
hợp quốc mà Việt Nam gia nhập ngày 24 tháng 9 năm 1982 là:


23


2. Khơng một người nào có thể bị bắt làm nơ dịch
3. a) Khơng được địi hỏi bất kỳ một người nào phải lao
động bắt buộc hoặc cưỡng bức [29].
1.2.4. Bình đẳng trong lĩnh vực việc làm
Nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp 1992 và Điều 5, Điều 7,
Điều 13 của Bộ luật lao động, thể hiện ở các lĩnh vực chủ yếu: Mọi cơng dân
đều có quyền bình đẳng về cơ hội có việc làm, được đối xử bình đẳng đối với
mọi việc làm và được trả công ngang nhau đối với mọi công việc như nhau.
Điều 63 Hiến pháp 1992 quy định: "Công dân nam nữ có quyền ngang
nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm
mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao
động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau". Bình đẳng
trong lĩnh vực việc làm trước hết là không được phân biệt về giới tính. Người
sử dụng lao động ln ln muốn tuyển dụng lao động nam vào làm việc vì
họ có sức khỏe hơn lao động nữ, từ đó năng suất lao động sẽ cao hơn. Pháp
luật lao động có quy định để bảo vệ lao động nữ bình đẳng với nam giới trước
cơ hội việc làm, được trả công ngang nhau trong những điều kiện làm việc
như nhau là thực hiện quyền bình đẳng nam nữ.
Người lao động cũng khơng bị phân biệt đối xử về dân tộc, thành
phần xã hội, tín ngưỡng tơn giáo trong lĩnh vực việc làm. Họ có thể làm việc
ở bất cứ nơi nào miễn là họ có sức khỏe, khả năng và trình độ nghề nghiệp
đáp ứng nhu cầu của người tuyển dụng lao động. Một thực tế vẫn đang tồn tại
hiện nay là sự khơng bình đẳng trong q trình tuyển dụng lao động vào các
đơn vị, cơ quan nhà nước. Người lao động mặc dù đã đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu của người sử dụng lao động nhưng vẫn không được làm việc, trong khi có
những người khơng đủ khả năng, trình độ nghề nghiệp lại có cơ hội việc làm
vì họ là "chỗ thân quen", "con ông cháu cha" hay vì một lí do khác.

Ngun tắc bình đẳng trong lĩnh vực việc làm một mặt đảm bảo quyền
lợi cho người lao động được có cơ hội việc làm, mặt khác tạo điều kiện để

24


×