Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở việt nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.52 KB, 20 trang )

Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết
việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Đinh Thị Nga Phượng

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Hoài Thu
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Trình bày những vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết việc làm,
pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm. Nghiên cứu các quy định của pháp luật
lao động về trách nhiệm của Nhà nước, của người sử dụng lao động, của tổ chức dịch
vụ việc làm, việc làm cho lao động đặc thù cũng như thực trạng pháp luật trong lĩnh
vực việc làm và giải quyết việc làm. Tổng quát bối cảnh hội nhập quốc tế, trong nước,
cơ hội và thách thức cũng như thực trạng về việc làm, giải quyết việc làm ở Việt Nam,
tồn tại và bất cập của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm trong thời
kỳ hội nhập để làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và
giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Đưa ra một số kiến nghị nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập.

Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật lao động; Việc làm; Thời kỳ hội nhập

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như
Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động
là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình


thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và
thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai
đoạn 2001 - 2010 đã được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: "Giải
quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế,
làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân".
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã xác định rõ: "Phát triển thị trường lao
động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của
người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm".
Trong những năm qua, các cơ chế, chính sách về lao động - việc làm được kịp thời đánh giá,
bổ sung và sửa đổi bảo đảm ngày càng thông thoáng, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập,

2
đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và tuân thủ các quy luật
kinh tế thị trường. Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước về lao động - việc làm ngày càng hoàn
thiện, nhiều luật mới ra đời và đi vào cuộc sống, nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành nhằm
từng bước hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trong lĩnh vực lao động -
việc làm. Nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường, Nhà nước đã ban hành các chính
sách cho nhóm lao động yếu thế, góp phần hỗ trợ người lao động tạo việc làm, nhanh chóng ổn
định cuộc sống.
Hòa theo xu thế chung của thời đại, Việt Nam đã gia nhập và chính thức là thành viên thứ
150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh các cơ hội,
chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn tác động tới việc làm và giải quyết việc
làm cho người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc làm và giải quyết việc làm, đã có
nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này, nhưng hiện nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học
nào khái lược một cách hệ thống, cơ bản về pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc
làm trong thời kỳ hội nhập, trên cơ sở đó đề ra phương hướng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu
thời kỳ hội nhập. Trong khi đó, việc nghiên cứu những bất cập, tồn tại, vướng mắc của pháp
luật trong thời kỳ hội nhập để hoàn thiện pháp luật lao động, không những có ý nghĩa lý luận

và còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với phát triển thị trường lao động việc làm ở Việt Nam,
tạo cơ sở pháp lý đối với việc làm bền vững cho người lao động nói riêng, sự phát triển của
quốc gia nói chung.
Vì những lý do nói trên, tôi đã chọn đề tài "Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết
việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu chung về việc làm và giải quyết việc làm, chúng ta không thể không tìm hiểu
tác phẩm Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PGS. Nguyễn Hữu Dũng - PTS.
Trần Hữu Trung (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Một số sinh viên
cũng đã chọn đề tài pháp luật lao động về việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động
làm khóa luận tốt nghiệp tuy nhiên đã nhiều năm trôi qua, với rất nhiều biến động và thay đổi
về cơ sở lý luận và thực tiễn, kết quả nghiên cứu của khóa luận đã không còn cập nhật và phù
hợp so với tình hình hiện nay.
Với tính chất là cơ quan chủ quản và quản lý chuyên ngành về vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu
khoa học cũng như tổ chức nhiều hội thảo về vấn đề này. Cụ thể như Báo cáo kết quả thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm các năm 2001 - 2005; Đánh giá
thực trạng xây dựng và thực hiện các chính sách việc làm ở Việt Nam năm 2008; Chương trình
Luận cứ khoa học xây dựng Chiến lược Việc làm Việt Nam và phát triển quan hệ lao động năm
2009; Hội thảo Chính sách việc làm, thị trường lao động và đề xuất nghiên cứu xây dựng
Luật Việc làm, Hà Nội
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm, đã có nhiều tác
giả quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh. Dưới góc độ pháp luật thì cho
đến nay đã có một số tác giả công bố các tác phẩm khoa học nghiên cứu một vấn đề, khía cạnh,
bộ phận hay một số quy định pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm chẳng hạn như TS. Lê
Thị Hoài Thu, "Vấn đề xây dựng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam", Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 11, 2002; PGS.TS Phạm Công Trứ, "Một số vấn đề pháp lý về việc làm và
giải quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 2003; ThS. Bùi Thị Kim
Ngân, "Hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về lao động nữ", Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 3, 2004; Phạm Kim Nhuận, "Quản lý cho vay Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm của Ngân hàng


3
chính sách xã hội và những kiến nghị", Tạp chí Lao động Xã hội, số 265, 2005; TS Nguyễn Hữu
Chí, "Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề về bảo toàn, phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội", Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 2006; TS. Nguyễn Hữu Chí, "Vai trò của Nhà nước trong lĩnh
vực giải quyết việc làm", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, 2006; ThS. Phạm Trọng Nghĩa,
"Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu hóa", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11(135),
2008; TS. Lưu Bình Nhưỡng, "Thực tiễn áp dụng Bộ luật Lao động và hướng hoàn thiện pháp
luật lao động", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5(142), 2009; TS. Phạm Đình Thành, "Việc làm
và chính sách thị trường lao động", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 2B và 3A, 2009; Nguyễn Thị
Thúy Vân, "Vấn đề lao động mất việc làm và chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta hiện
nay", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 174, 2010;
Nhìn chung, để có góc nhìn tương đối khái quát, hệ thống và chi tiết về chính sách việc
làm và giải quyết việc làm nói chung, pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm
nói riêng, nhất là đi sâu phân tích một số vấn đề nổi bật để có phương hướng hoàn thiện đáp
ứng yêu cầu hội nhập, đòi hỏi phải có nhiều hơn các công trình nghiên cứu chuyên sâu. Vì
vậy, việc lựa chọn đề tài này là khá mới mẻ, vừa có giá trị lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn,
như một sự bổ sung cần thiết vào khoa học luật lao động.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Khái quát pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm, nghiên cứu các quy định của pháp
luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm để tìm ra các vướng mắc, tồn tại, bất cập để
trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động đáp ứng yêu cầu trong
thời kỳ hội nhập.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết việc làm, pháp luật về
việc làm và giải quyết việc làm;
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động về trách nhiệm của Nhà nước, của
người sử dụng lao động, của tổ chức dịch vụ việc làm, việc làm cho lao động đặc thù cũng

như thực trạng pháp luật trong lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm;
+ Nghiên cứu tổng quát bối cảnh hội nhập quốc tế, trong nước, cơ hội và thách thức cũng như
thực trạng về việc làm, giải quyết việc làm ở Việt Nam, tồn tại và bất cập của pháp luật lao động
về việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập để làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện
pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập;
+ Đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và
giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà
nước ta cũng như những quy định pháp luật trong lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm.
Ngoài ra, luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm
phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Hơn nữa trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn sử
dụng các phương pháp cụ thể khác như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để
giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

4
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về việc làm và giải
quyết việc làm, đặc biệt là các quy định của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc
làm của Việt Nam, trên cơ sở tham khảo pháp luật lao động của một số nước trên thế giới.
Với các nội dung cụ thể của pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm, theo tác giả sẽ còn
được nghiên cứu trong những công trình khoa học tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có những đóng góp nhất định
vào việc nghiên cứu pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm, nhất là trong thời
kỳ hội nhập.
- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên cứu cho sinh viên, học
sinh.
- Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu,
những nhà hoạch định chính sách và những ai quan tâm.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về việc làm và giải quyết việc làm.
Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về việc làm và giải quyết việc làm
trong thời kỳ hội nhập.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về việc làm và giải quyết việc làm
trong thời kỳ hội nhập.

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1. Khái niệm việc làm, giải quyết việc làm
1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Luận văn đề cập đến nhiều quan niệm khác nhau về việc làm trên thế giới và tại Việt Nam.
Trong đó, phải kể đến khái niệm việc làm theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế ILO.
Nhất là trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, ILO còn khuyến cáo và đề cập tới việc
làm nhân văn hay việc làm bền vững. Theo chúng tôi, đây là một khái niệm rất cần thiết để
Việt Nam tham khảo và hướng đến. Còn ở Việt Nam, khái niệm việc làm đã được quy định
tại Điều 13 Bộ luật Lao động như sau: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không
bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".
Bên cạnh đó, luận văn còn đề cập đến các khái niệm có liên quan mật thiết đến việc làm
như thất nghiệp, thiếu việc làm, người có việc làm, người thất nghiệp…
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết việc làm
Phần này luận văn đã phân tích và đưa ra một cách hiểu khái quát về giải quyết việc làm
đó là: Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang có nhu cầu tìm việc làm với mức tiền công
thịnh hành trên thị trường đều có cơ hội làm việc.
1.1.2. Tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm


5
Phần này luận văn tập trung vào việc nêu ra tầm quan trọng của việc làm và giải quyết
việc làm về các mặt kinh tế, chính trị - xã hội và pháp lý. Bởi lẽ, việc làm và giải quyết việc
làm là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối
với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm
cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử
dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị
trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm
Luận văn trình bày về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc làm và giải quyết việc
làm. Theo đó, để quy định và điều chỉnh lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm, pháp luật
lao động về việc làm và giải quyết việc làm cần phải áp dụng và tuân thủ một số nguyên tắc
như sau:
1.2.1. Đảm bảo quyền và nghĩa vụ lao động của công dân
1.2.2. Nhà nước thống nhất quản lý về việc làm và giải quyết việc làm
1.2.3. Cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao động
1.2.4. Bình đẳng trong lĩnh vực việc làm
1.2.5. Ưu đãi một số đối tượng đặc thù
1.2.6. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động tạo ra việc làm và hỗ trợ tạo ra việc làm
Những nguyên tắc pháp lý trên đây là những quan điểm tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá
trình giải quyết việc làm ở nước ta, phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật lao động
quốc tế về việc làm và đặc điểm cũng như thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
1.3. Lược sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật về việc làm và giải quyết
việc làm ở Việt Nam
Phần này khái lược về các quá trình hình thành và phát triển pháp luật về việc làm và giải
quyết việc làm ở Việt Nam ở các thời kỳ đó là: Pháp luật về giải quyết việc làm thời kỳ trước
khi có Bộ luật Lao động và pháp luật về giải quyết việc làm theo Bộ luật Lao động.

Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG

VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
2.1. Thực trạng pháp luật về lao động - việc làm
2.1.1. Thực trạng về lao động - việc làm
2.1.1.1. Thực trạng nguồn lao động
Nước ta có nguồn lao động rất dồi dào, tốc độ phát triển nguồn lao động vẫn ở mức cao,
lại phân bố không đều, phần lớn tập trung ở khu vực nông thôn; chất lượng nguồn lao động
vẫn còn thấp, đặc biệt chưa qua đào tạo, hoặc được đào tạo nhưng chất lượng chưa đảm bảo
yêu cầu, lại trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nên dẫn đến tình trạng còn nhiều khó khăn
về vấn đề việc làm cũng như tạo ra cơ cấu việc làm hợp lý, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội
nhập, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội.
2.1.1.2. Hiện trạng về việc làm
Nhìn chung, thực tế thị trường lao động hiện nay cho thấy, cung lao động vẫn lớn hơn cầu
lao động rất nhiều, sức ép của cung lao động đối với cầu lao động vẫn lớn. Số doanh nghiệp
hàng năm thu hút khoảng 500.000 lao động/năm trong khi đó số người bước vào tuổi lao động

6
khoảng trên 1 triệu người/năm chưa kể số lao động dôi ra do thất nghiệp, đang đi tìm việc làm
trước đó. Trong khi đó, do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn
buộc phải thu hẹp sản xuất dẫn đến nhiều người lao động bị mất việc làm, thiếu việc làm. Thị
trường lao động kém phát triển, sức cạnh tranh yếu và có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với
các loại thị trường khác trong nước cũng như so với thị trường lao động các nước trong khu
vực.
2.1.2. Thực trạng pháp luật về lao động - việc làm
Trong những năm qua, các cơ chế, chính sách về lao động - việc làm được kịp thời đánh
giá, bổ sung và sửa đổi bảo đảm ngày càng thông thoáng, phù hợp với cơ chế thị trường và
hội nhập, đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và tuân thủ
các quy luật kinh tế thị trường. Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước về lao động - việc làm
ngày càng hoàn thiện, nhiều Luật mới ra đời và đi vào cuộc sống như Bộ luật Lao động, Luật
Dạy nghề, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài

theo hợp đồng, nhiều văn bản hướng dẫn… được ban hành nhằm từng bước hoàn thiện thể
chế, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Nhằm hạn
chế những tác động tiêu cực của thị trường, Nhà nước đã ban hành các chính sách cho nhóm
lao động yếu thế, như các chế độ ưu đãi đối với lao động là người tàn tật, các cơ sở sản xuất
kinh doanh của người tàn tật, lao động là người dân tộc thiểu số, chính sách về bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ lao động dôi dư góp phần hỗ trợ người lao động tạo việc làm,
nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên, có thể thấy mặc dù các văn bản, chính sách về việc làm và giải quyết việc làm ra
đời nhưng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa đầy đủ, chưa thực sự theo sát
thực tiễn, hiệu quả triển khai thực hiện chính sách cũng chậm và thấp. Văn bản quy phạm pháp
luật về việc làm còn có tính pháp lý chưa cao, còn tản mát ở nhiều văn bản nên việc thực hiện gặp
khó khăn.
Trước hết là khái niệm việc làm, Bộ luật Lao động đã đưa ra một quan niệm mới so với
trước đây đó là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm" (Điều 13). Nó phù hợp với thực tiễn Việt Nam đang ở giai đoạn
thấp của sự phát triển. Theo nhiều ý kiến cho rằng khái niệm việc làm cần được quy định phù
hợp với điều kiện, yêu cầu của việc làm thời kỳ hội nhập.
Có thể thấy các quy định về việc làm còn thiếu hoặc đã được quy định trong các văn bản
dưới luật nhưng chỉ mang tính chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể gây khó khăn đối với hoạt
động quản lý và tổ chức thực hiện trong lĩnh vực việc làm. Chẳng hạn như "thị trường lao
động", "bình đẳng việc làm", "việc làm an toàn", "dịch vụ việc làm"… trong khi đây là những
khái niệm cần phải được quan tâm đối với lao động trong thời kỳ hội nhập, cần phải được quy
định trong văn bản luật.
Các tiêu chuẩn việc làm mặc dù đã được quy định ở nhiều văn bản hiện tại nhưng còn
nằm rải rác, tính pháp lý không cao, tổ chức thực hiện còn yếu. Điều cần thiết là quy định
thống nhất về tiêu chuẩn việc làm với các tiêu chuẩn về việc làm đầy đủ, việc làm bán thời
gian, việc làm thêm ngoài giờ, thất nghiệp…
Bên cạnh đó, thực trạng về chỉ tiêu việc làm cho thấy vẫn còn đó những vướng mắc. Hiện
nay, chúng ta đang sử dụng chỉ tiêu tạo việc làm, tạo việc làm mới để phản ánh chỉ tiêu về
việc làm của Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ tiêu "tạo việc làm", "tạo việc làm mới" không còn phù

hợp, đáp ứng yêu cầu hiện tại. Số việc làm, việc làm mới được tạo ra trong một năm khó xác
định và so sánh với những năm trước đó. Hầu hết các tỉnh, thành phố không thực hiện được
con số thống kê chính xác về chỉ tiêu này.

7
Bộ luật lao động đang được sửa đổi, bổ sung, tuy nhiên theo dự thảo thì điều chỉnh đối
tượng có quan hệ lao động, còn những đối tượng khác như lao động khu vực phi chính thức,
nông thôn, lao động phục vụ gia đình, làm việc bán thời gian… chưa được đưa vào. Dẫn tới
thị trường lao động Việt Nam chưa có độ gắn kết, các đối tượng chưa được điều chỉnh trong các
văn bản pháp luật về việc làm nên rơi vào việc làm thiếu tính bền vững, dễ bị ảnh hưởng.
Các quy định về việc làm trong Bộ luật lao động còn quá ít và chung chung, hoặc nằm rải
rác và phân tán ở các văn bản dưới luật chưa thể hiện được vai trò và vị trí quan trọng của vấn
đề việc làm. Các nghị định như Nghị định 39/2003/NĐ-CP, Nghị định số 19/2005/NĐ-CP…
vẫn chỉ là số ít văn bản hướng dẫn cụ thể về việc làm, chưa tính đến nội dung của các văn bản
này còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp thực tiễn đời sống. Điều này gây khó khăn cho quá trình
áp dụng và thực thi pháp luật lao động về việc làm trên thực tế. Chẳng hạn như về quản lý lao
động bằng sổ, yêu cầu báo cáo lao động hàng năm, về đào tạo lao động thay thế người nước
ngoài…
Một số quy định pháp luật về vấn đề xuất khẩu lao động thất nghiệp, thị trường lao động,
bảo hiểm thất nghiệp, lao động nông thôn di cư, chuyển đổi mục đích nông nghiệp, đào tạo lại
lao động… còn bỏ ngỏ, thiếu hệ thống và thiếu sự đồng bộ.
Vì vậy, đối với vấn đề việc làm, pháp luật lao động cần phải luật hóa các nội dung về việc
làm, chương trình quốc gia về việc làm, quản lý lao động - việc làm và tuyển dụng lao động,
dịch vụ việc làm, thông tin thị trường lao động, bảo đảm việc làm, việc làm với các đối tượng
lao động đặc thù, thanh tra, giám sát pháp luật về việc làm. Trên cơ sở đó mới tiếp tục ban
hành những văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể.
2.2. Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm ở Việt Nam
2.2.1. Trách nhiệm giải quyết việc làm của nhà nước
Điều 13 Bộ luật Lao động ghi nhận: "Giải quyết việc làm, đảm bảo cho người lao động có
khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh

nghiệp và của toàn xã hội".
Bên cạnh những quy định có tính nguyên tắc chung, Bộ luật Lao động và các văn bản
hướng dẫn cũng đã đưa ra các biện pháp cơ bản giải quyết việc làm có liên quan đến trách
nhiệm của Nhà nước. Một trong những biện pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm đó là
"Chính phủ lập Chương trình quốc gia về việc làm, lập Quỹ quốc gia về việc làm từ ngân
sách nhà nước và các nguồn khác" (khoản 1 Điều 15).
Cho đến nay, đã có 4 Chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm được Chính phủ
phê duyệt trong 4 giai đoạn: 1992 - 1997, 1998 - 2000, 2001 - 2005, 2006 - 2010. Qua các
giai đoạn, Chương trình giải quyết việc làm đạt được nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, việc
thực hiện chương trình cho đến nay vẫn không tránh khỏi những khó khăn, bất cập. Nguyên
nhân khiến tỷ lệ việc làm mới còn thấp là do vốn đầu tư trên một lao động ngày càng cao và
một số vướng mắc từ quy định của pháp luật cho đến điều hành, quản lý.
Giải quyết việc làm thời gian qua mới chỉ chú trọng tới khía cạnh số lượng, chất lượng
việc làm được tạo mới còn thấp. Số lao động được giải quyết việc làm hằng năm khá lớn,
song đa số làm việc trong khu vực nông nghiệp với trình độ tay nghề, năng suất lao động và
thu nhập thấp. Chính sách di chuyển lao động chưa phù hợp với tình hình nền kinh tế thị
trường và hội nhập, chậm đổi mới, trước tiên là các chính sách sách liên quan đến hỗ trợ trực
tiếp và cho vay vốn tạo việc làm cho đối tượng di dân, xây dựng địa bàn định cư gắn kinh tế
với quốc phòng, phát triển kinh tế hộ gia đình, cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp.

8
Từ thực trạng cho thấy các quy định về trách nhiệm của Nhà nước vẫn còn nhiều những
vướng mắc và lỗ hổng. Pháp luật lao động về giải quyết việc làm vẫn còn nêu những nội dung
mang nặng tính quan điểm, chủ trương, đạo lý hơn là tính pháp lí như "chuyển dần", "khuyến
khích", "quan tâm", "hỗ trợ"… Do vậy, cần có quy định mạnh mẽ hơn như "cấm", "phải",
"không được"… tránh tình trạng quyền lợi chỉ là trên giấy, mang tính hình thức, khó khăn
trong quá trình thực hiện trên thực tế. Bộ luật Lao động quy định về trách nhiệm của Nhà
nước vẫn còn mang tính chung chung. Các nghị định, thông tư thì được ban hành nhưng chưa
điều chỉnh hết các lĩnh vực trong giải quyết việc làm hoặc đã quy định nhưng không phù hợp

với thực tiễn, dẫn tới việc thực hiện không được tổ chức cũng như kiểm soát tốt, tạo ra nhiều
bất cập và vướng mắc trên thực tiễn.
2.2.2. Trách nhiệm giải quyết việc làm của người sử dụng lao động
Theo quy định của Bộ luật lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có
trách nhiệm như: Các doanh nghiệp (không phân biệt nhà nước hay tư nhân ) với khả năng
và điều kiện của mình có trách nhiệm cùng với Nhà nước giải quyết việc làm cho người lao
động. Nghị định 39/2003/CP cũng quy định các doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng về trợ
cấp mất việc làm để chi cho các mục đích. Đối với trợ cấp mất việc làm, theo quy định tại
Nghị định 39/2003/NĐ-CP, trợ cấp mất việc làm được tính trên cơ sở quy định tại Nghị định
số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương.
Tuy nhiên, khoản 5 Điều 6 Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động không phân định
rõ ràng trách nhiệm của người sử dụng lao động cũ và mới, vì vậy, có thể làm phát sinh các
tranh chấp trên thực tế. Tương tự như Điều 17, Điều 31 Bộ luật Lao động cũng không quy
định rõ "trường hợp không sử dụng hết số lao động hiện có" (tức là có trình trạng dôi dư về
lao động) là gì, dẫn tới người sử dụng lao động có thể lạm dụng lý do tổ chức lại doanh
nghiệp để cho người lao động thôi việc. Hơn nữa, người lao động bị cắt giảm vì lý do tổ chức
lại doanh nghiệp không được người sử dụng lao động báo trước như các trường hợp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại Điều 38 Bộ luật Lao động.
Phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm của người sử dụng trong giải quyết việc làm còn thể hiện ở
nghĩa vụ nộp bảo hiểm thất nghiệp đối với những doanh nghiệp có trên 10 lao động trở lên
theo Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, xét về lâu dài, quy định này gây
nên nhiều thiệt thòi cho người lao động đang làm việc cho các doanh nghiệp sử dụng ít lao
động.
2.2.3. Giải quyết việc làm cho lao động đặc thù
Tại mục này, luận văn đã đi sâu tìm hiểu các quy định về một số đối tượng đặc thù theo
chúng tôi là tiêu biểu, đặc trưng nhất, là những đối tượng lao động yếu thế và chịu nhiều tác

động khi Việt Nam gia nhập WTO, đó là lao động nữ và lao động tàn tật. Còn các đối tượng lao
động đặc thù khác cần được nghiên cứu thêm trong những công trình nghiên cứu chuyên khảo
sâu hơn.
2.2.3.1. Đối với lao động nữ
Xuất phát từ những đặc điểm đặc thù nên Bộ luật Lao động quy định về chính sách việc
làm đối với lao động nữ ở Điều 5 và dành hẳn Chương X gồm 10 điều (Điều 109 đến Điều 118).
Đồng thời, Nhà nước cũng đã ban hành Nghị định số 23/CP ngày 18/4/1996 quy định chi tiết và

9
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về những quy định riêng đối với lao
động nữ và một số thông tư hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ y
tế… cùng một số chính sách về hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động nữ.
Tuy nhiên, qua một thời gian dài, có thể nhận thấy một số những hạn chế và vướng mắc,
tồn tại như sau: các quy định về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nữ còn mang tính
chung chung, gần với những tuyên bố về chính sách của Nhà nước hơn là quy định của pháp
luật. Vì thế, việc xác định trách nhiệm pháp lý với chủ thể cụ thể thông qua các quy định này
là không dễ dàng. Về đào tạo, pháp luật lao động quy định doanh nghiệp có trách nghiệm đào
tạo nghề dự phòng cho lao động nữ theo Điều 10 Bộ luật Lao động trong thực tế quy định này
hầu như không được thực hiện, hoặc nếu có việc đào tạo thì chỉ đặt ra nhằm mục đích nâng
cao tay nghề, chuyên môn lao động nữ đang đảm nhiệm. Các quy định về ưu đãi doanh
nghiệp, đơn vị sử dụng nhiều lao động nữ còn ít nhiều có sự bất cập làm hạn chế ý nghĩa của
các quy định pháp luật. Cần phải xem xét đối với vấn đề quy định chế tài xử phạt đối với các
doanh nghiệp vi phạm các quy định nói trên. Bởi lẽ, hiện nay chế tài áp dụng đối với lĩnh vực
lao động là quá nhẹ, không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa, chưa kể tới việc giám sát, kiểm
tra rất lỏng lẻo, sơ sài, thậm chí không được thực hiện.
2.2.3.2 Lao động là người tàn tật
Trong những năm qua Việt Nam đã quan tâm nhiều đến lĩnh vực việc làm của người
khuyết tật. Nhiều văn bản pháp quy đã được ban hành nhằm đảm bảo quyền học nghề và làm
việc của người khuyết tật, cũng như tạo những ưu đãi cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhận
người khuyết tật vào làm việc. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các quy định về việc làm cho

người tàn tật cũng nảy sinh nhiều vướng mắc. Cụ thể như: Quy định một tỷ lệ khác nhau đối
với một số ngành, nghề chưa hợp lý; Mức tiền mà các doanh nghiệp phải nộp vào Quỹ việc
làm cho người tàn tật rất thấp theo quy định tại Thông tư liên tịch số
19/2005/TTLT/BLĐTBXH-BTC-BKHĐT hướng dẫn thi hành Nghị định số 81/CP ngày 23
tháng 11 năm 1995 và Nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2004 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 81/CP ngày 23 tháng 11 năm 1995. Vì vậy, các doanh
nghiệp có xu hướng nộp tiền thay vì nhận người lao động tàn tật (bởi chi phí cho việc sử dụng
lao động là người tàn tật cao hơn rất nhiều như chi phí cải tạo nhà xưởng, công trình vệ
sinh…); về hoạt động dạy nghề cho người lao động khuyết tật còn tồn tại nhiều…
Mặt khác, hiện nay cũng xuất hiện những đối tượng lao động có tính chất đặc biệt như lao
động dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, lao động giúp việc trong gia đình, lao động nước
ngoài vào làm việc tại Việt Nam… nhưng pháp luật lao động chưa quan tâm đề cập chi tiết,
cụ thể và thiết thực.
2.2.4. Thực trạng pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm
Tại Việt Nam, quy định của pháp luật về hoạt động của tổ chức này ngày càng được hoàn
thiện. Với khung pháp lý về tổ chức giới thiệu việc làm, hiện nay cả nước có 130 tổ chức giới
thiệu việc làm được thành lập mới hoặc thành lập lại với tên gọi Trung tâm giới thiệu việc làm và
khoảng 100 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh giới thiệu việc làm. Từ năm 2006 đến nay, các
Trung tâm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho khoảng 4,8 triệu lượt lao động. Hàng năm các
trung tâm giới thiệu việc làm cho khoảng 400 nghìn lao động.
Để siết chặt quản lý các trung tâm giới thiệu việc làm, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 19/2005/NĐ-CP về quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức giới
thiệu việc làm. Theo đó, hàng loại các cơ sở giới thiệu việc làm không đủ điều kiện kinh

10
doanh sẽ phải đóng cửa hoạt động. Tuy nhiên, trên thực tế, các trung tâm này đã tìm mọi cách
thức để lẩn tránh thực hiện quy định của pháp luật.
Quy định về nguồn tài chính của Trung tâm giới thiệu việc làm vẫn còn một số vướng
mắc. Các trung tâm giới thiệu việc làm gặp phải những khó khăn trong việc thu phí từ hoạt
động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động. Việc rà soát, quy hoạch, quản

lý hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm, các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm của
các địa phương, Bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức nên
gây ra nhiều vấn đề bức xúc và mất lòng tin của người dân. Do đó, thiếu sự thống nhất và mối
quan hệ chặt chẽ trong hệ thống giới thiệu việc làm trên cả nước và từng địa phương.
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc
làm ở Việt Nam
Từ bối cảnh quốc tế, trong nước cùng với thực trạng của pháp luật mà chúng ta đã tìm hiểu ở
chương II của luận văn, đồng thời những dự báo về tính hình lao động - việc làm trong những
năm tới có thể thấy rõ những cơ hội đồng thời đi kèm là những thách thức, tồn tại ảnh hưởng rất
lớn tới việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập. Trong khi đó, nội dung Chương
trình nghị sự việc làm toàn cầu do Tổ chức lao động quốc tế khởi xướng đòi hỏi phải đảm bảo
việc làm bền vững cho người lao động. Vì những lý do trên, việc hoàn thiện pháp luật lao động về
việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập là hết sức cần thiết nhằm đáp
ứng yêu cầu đảm bảo việc làm bền vững và an ninh việc làm cho người lao động trong bối cảnh
hội nhập.
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm
ở Việt Nam
Để hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế, cần quán triệt các quan điểm về giải quyết việc làm để kịp thời thể chế hóa và ban
hành các quy định kịp thời thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm cho người lao động Việt Nam.
Theo đó, cần quán triệt và tiếp tục thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng về thúc đẩy xây dựng
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Tiếp
tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về lao động - việc làm: Sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Lao động,
nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối thiểu; xây dựng các văn bản hướng dẫn
Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Pháp luật lao động lao
động về việc làm và giải quyết việc làm cần có các quy định tận dụng thời cơ của hội nhập theo

hướng: ưu tiên phát triển những ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, những ngành mà
Việt Nam có lợi thế trong hội nhập; những ngành kinh tế mũi nhọn, sử dụng lao động có trình độ
kỹ thuật cao đồng thời tăng đầu tư, khuyến khích những ngành công nghiệp đòi hỏi ít vốn, sử dụng
nhiều lao động, đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật không cao; thu hút mạnh đầu tư nước ngoài,
hình thành những khu công nghiệp, khu chế xuất; đầu tư, đẩy mạnh các ngành du lịch, dịch vụ và
thương mại ; tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước trong giải quyết việc làm và phát triển thị trường
lao động thông qua việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2020; phải
đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; từng bước chuyển lao
động nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp; bố trí các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động,
nhu cầu đào tạo không cao về nông thôn; khôi phục và phát triển các làng nghề sản xuất tiểu, thủ

11
công nghiệp và dịch vụ; ưu tiên giải quyết việc làm bền vững cho nông dân trong vùng chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp; cần có những quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn trong công tác đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hoàn thiện những quy định về phát triển
thị trường lao động; hoàn thiện các quy định về dạy nghề và đào tạo nghề…
3.3. Một số kiến nghị cụ thể
3.3.1. Về các quy định của pháp luật
Từ các phân tích ở trên, cho thấy hệ thống pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc
làm trong thời gian tới cần có sự hoàn thiện. Theo đó, để khắc phục sự tản mát, chồng chéo,
thiếu sót của hệ thống pháp luật lao động về việc làm cần thiết phải sửa đổi những quy định đã
lạc hậu, mang tính hình thức không phù hợp với thực tiễn như quản lý lao động bằng sổ lao
động, giải quyết việc làm cho lao động nữ, lao động là người tàn tật, thông tin thị trường lao
động… đồng thời, luật hóa cũng như ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành các
vấn đề còn bỏ ngỏ hiện nay trong lĩnh vực giải quyết việc làm cho thanh niên, lao động nông
thôn, lao động dịch chuyển, xuất khẩu lao động, chất lượng lao động, đào tạo lại lao động…
Trên cơ sở đó, mặc dù thực trạng pháp luật lao động có nhiều bất cập cần được hoàn thiện, song
luận văn chỉ xin đưa ra một số kiến nghị như sau để góp phần hoàn thiện pháp luật lao động về
việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập:
Điều đầu tiên là cần có quy định thống nhất và rõ ràng, chính xác, cụ thể về khái niệm "việc

làm", từ đó làm cơ sở định nghĩa các khái niệm "người có việc làm", "thiếu việc làm", "thất
nghiệp", "người thất nghiệp", "giải quyết việc làm", "bình đẳng việc làm", "việc làm an toàn",
"việc làm đầy đủ", "việc làm bán thời gian", "thị trường lao động", "giải quyết việc làm"…
Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm vẫn còn nêu những nội dung mang
nặng tính quan điểm, chủ trương, đạo lý hơn là tính pháp lí như "chuyển dần", "khuyến khích",
"quan tâm", "hỗ trợ"… Do vậy, cần có quy định mạnh mẽ hơn như "cấm", "phải", "không
được"… tránh tình trạng quyền lợi chỉ là trên giấy, mang tính hình thức, khó khăn trong quá trình
thực hiện trên thực tế.
Cơ chế ba bên cần phải được quy định trong Bộ luật Lao động để đảm bảo giải quyết việc
làm hiệu quả nhất cho người lao động. Luật pháp cần thực hiện một thiết chế quan hệ xã hội
mới về thị trường lao động, việc làm đó là: Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao
động là ba chủ thể nằm trong chính sách điều tiết thị trường lao động, việc làm.
Để khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng lao động thì Nhà nước cần thiết phải có một
chương trình tổng thể và kế hoạch cụ thể mang tính dài hạn về phát triển và khai thác có hiệu
quả nguồn nhân lực.
Đối với lao động đặc thù, các quy định cần phải chính xác, cụ thể và mang tính thực thi hơn.
Hiện nay các quy định về các đối tượng này mới chỉ dừng ở hình thức, chưa có các chương trình,
chính sách cụ thể nhằm đẩy mạnh tạo việc làm cho người tàn tật, phụ nữ, thanh niên, lao động làm
việc tại nhà, lao động phục vụ gia đình, người sau cai nghiện, mãn hạn tù, lao động nông thôn hay
lao động là người dân tộc thiểu số… Bên cạnh đó, sửa đổi quy định về Quỹ việc làm cho một số đối
tượng đặc thù cần đảm bảo theo hướng tăng chi phí đóng tiền của doanh nghiệp nếu chưa nhận đủ
số lượng lao động phải nhận theo quy định của pháp luật, nhưng đồng thời có thêm biện pháp ưu
đãi (thuế, danh hiệu, cơ hội mở rộng kinh doanh…) đối với những doanh nghiệp đã nhận đủ tỷ lệ
hoặc hơn.
Về hoạt động xuất khẩu lao động tại chỗ, để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu tại chỗ
phát triển một cách tốt nhất, đòi hỏi xây dựng khung pháp lý cho hoạt động này trong Bộ luật
Lao động, Luật Đầu tư, các chính sách lao động, tiền lương, bảo hiểm, điều kiện lao động

12
Trong đó đưa ra những quy định cụ thể và sát thực về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh

nghiệp xuất khẩu lao động và lao động xuất khẩu cũng như quyền hạn và trách nhiệm của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng, sử dụng lao động.
Về đối tượng người Việt Nam đi lao động xuất khẩu ra nước ngoài, chúng ta đã có nghị
định về quản lý người lao động ở nước ngoài nhưng nghị định này còn chưa tính đến yếu tố
an ninh, bảo đảm việc làm. Mặt khác, trên cơ sở Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, Quốc hội cần ban hành Luật Bảo vệ quyền của người
lao động xuất khẩu trong đó điều chỉnh một cách toàn diện đối với không chỉ người lao động
đi làm việc ở nước ngoài mà còn phải đối với những người lao động làm việc tại Văn phòng
đại diện của các tổ chức kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài, cán bộ của các viện nghiên cứu,
các trường đại học đi nghiên cứu, giảng dạy ở nước ngoài (xuất khẩu chuyên gia).
Về dạy nghề và đào tạo, đào tạo lại lao động rất cần thiết phải có những quy định bổ sung,
sửa đổi nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng lao động Việt Nam. Cụ thể cần ban hành
văn bản hướng quy định rõ về việc đào tạo lại lao động bao gồm các nội dung về: trình độ của
người phụ trách đào tạo, thời gian đào tạo lại, người đứng ra tổ chức đào tạo lại, các tiêu chí cụ thể
để xác định được là người lao động có thỏa mãn các yêu cầu của công việc mới hay không.
Bên cạnh đó là sớm ban hành văn bản về bộ tiêu chuẩn năng lực nghề cho người lao
động.
Mặt khác, cần nhanh chóng bổ sung, sửa đổi các quy định, hướng dẫn về thanh tra, kiểm
tra, giám sát tiêu chuẩn đầu vào và đầu ra của dạy nghề và đào tạo nghề. Nhất là có những
quy định về quy trình chặt chẽ từ đào tạo, tuyển chọn, đưa đi làm việc, đặc biệt là đối với đối
tượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Về tổ chức giới thiệu việc làm, do vai trò quan trọng của các tổ chức này trong lĩnh vực
giải quyết việc làm, theo chúng tôi, Nghị định 39/2003/NĐ-CP cần phải được sửa đổi để quy
định chặt chẽ hơn đối với các loại hình trung gian dịch vụ, giới thiệu hoặc tuyển lao động này.
Cụ thể như quy định cơ chế ràng buộc các tổ chức này với chế độ trách nhiệm về đạo đức, khả
năng làm việc của người lao động trong một thời gian nhất định, bên cạnh đó là công khai, minh
bạch về chế độ tuyển việc làm. Đồng thời, có những quy định hợp lý hơn về thu chi của các trung
tâm giới thiệu việc làm. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp hội Dịch vụ Việc làm Công
thế giới (WAPES). Do vậy, cần đổi tên "Tổ chức hoạt động giới thiệu việc làm" thành "Tổ
chức hoạt động dịch vụ việc làm" để đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao động Việt

Nam và phù hợp với các cam kết quốc tế đã tham gia.
Đối với bảo đảm việc làm, hiện nay chưa được quy định luật hóa, vì vậy cần thiết phải
được đưa vào luật để tăng tính bền vững việc làm, đảm bảo phần nào tránh việc cố ý làm sai
để nhận trợ cấp mất việc làm hay sa thải lao động hàng loạt… Pháp luật lao động nên chăng
ngăn chặn việc sa thải lao động bằng cách quy định hết sức chặt chẽ các điều kiện sa thải.
Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung có các chế tài thích hợp và nghiêm khắc hơn đối với
các hành vi vi phạm pháp luật lao động để đảm bảo pháp luật được thực thi có hiệu lực trên
thực tế.
3.3.2. Về tổ chức thực hiện
Để đạt hiệu quả cao trong việc hoàn thiện và thực thi pháp luật lao động về việc làm và
giải quyết việc làm, theo chúng tôi cần phải tập trung vào những vấn đề sau:
- Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định về lao động - việc làm để tiến
hành hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định pháp luật lao động về việc làm và giải quyết
việc làm phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế cũng như đòi hỏi của thực tiễn.

13
- Tăng cường quản lý nhà nước về việc làm, thực hiện pháp luật lao động về việc làm, kết
hợp công tác kế hoạch hóa với cập nhật tình hình biến động lao động - việc làm, kết quả thực
hiện pháp luật lao động trên thực tế, bảo đảm điều chỉnh các biện pháp thực hiện trong từng
thời kỳ.
- Thúc đẩy công tác kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các chính sách và pháp luật lao
động về việc làm và giải quyết việc làm của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức,
doanh nghiệp, tổ chức công đoàn, người lao động.
- Có các biện pháp khuyến khích sự năng động và chủ động tự tạo việc làm cho bản thân
và cho người khác của người lao động, không thụ động, trông chờ vào Nhà nước.
- Đối với người sử dụng lao động thì khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh,
tạo nhiều việc làm trên cơ sở tuân thủ pháp luật lao động về lao động và việc làm.
- Xây dựng và hoàn thiện các chính sách và hình thành các quỹ an sinh xã hội.
- Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về pháp luật việc làm của đối tượng lao động đặc
thù như lao động nữ, lao động người khuyết tật, lao động chưa thành niên, lao động nông

thôn.
- Đối với hoạt động giới thiệu việc làm, cần nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch hệ thống
Trung tâm giới thiệu việc làm và cấp giấy phép hoạt động giới thiệu việc làm cho các doanh
nghiệp giới thiệu việc làm; đầu tư nâng cao năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm. Tăng
cường kiểm tra, giám sát, quản lý các dự án, hoạt động cho vay giải quyết việc làm, đầu tư nâng cao
năng lực các Trung tâm giới thiệu việc làm… Phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý nghiêm
minh các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm.
- Đối với lao động xuất khẩu, cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường lao động thế
giới và các nước để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp cho việc xuất khẩu lao động sang các
nước, tránh để tình trạng phân tán như hiện nay. Thành lập hiệp hội bảo vệ quyền lợi người
lao động đi xuất khẩu, hoặc nâng cao vai trò của công đoàn trong lĩnh vực này.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động trên mọi vùng, miền, khu
vực, các loại hình doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức.
- Đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác phổ biến pháp
luật lao động cũng như cán bộ làm công tác giới thiệu việc làm hiểu biết pháp luật lao động
nói chung và pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm nói riêng.
- Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động hướng tới mục tiêu hiệu quả và chất
lượng.
Trên đây là một số đề xuất về các quy định của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết
việc làm cũng như tổ chức thức hiện để đạt được hiệu quả cao trong thực tiễn. Hi vọng với nhiều
sự quan tâm, trao đổi, đóng góp ý kiến của các luật gia, các nhà nghiên cứu luật pháp, nhân dân
nói chung, pháp luật lao động sẽ ngày càng được hoàn thiện hơn để góp phần to lớn trong việc
giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập, tạo đời sống ổn định cho người dân,
đưa đất nước ngày càng phát triển bền vững và phồn vinh.
KẾT LUẬN
Với vai trò và tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh tế - xã hội, với người lao động nói chung
cũng như các đối tượng lao động đặc thù, thông qua các quy định và tổ chức thực thi các quy định
trên thực tế, pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm đã đạt được những thành tựu và
kết quả khả quan nhất định. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
với nhiều thuận lợi, cơ hội cũng như không ít khó khăn và thách thức trong việc làm, giải quyết


14
việc làm cho người lao động, pháp luật lao động không tránh khỏi những bất cập đòi hỏi phải
được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện kịp thời.
Trong khi đó, thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm ở nước ta cho thấy vẫn còn rất nhiều
tồn tại cần phải được nghiên cứu và giải quyết. Những tồn tại này cũng phần nào phản ánh những
bất cập của các quy định pháp luật cũng như công tác tổ chức thực thi trên thực tế. Do đó đòi hỏi
toàn Đảng, toàn dân cũng như các cơ quan ban ngành của Nhà nước luôn luôn quan tâm và nỗ lực
không ngừng
Bên cạnh đó, chúng ta cần tính đến các tiêu chuẩn quốc tế về việc làm đã được các nước
trên thế giới phê chuẩn bởi lẽ những tiêu chuẩn này hướng tới việc làm bền vững, việc làm
nhân văn cho mọi người, là những tiêu chuẩn đảm bảo quyền làm việc cao nhất cho con người,
không phân biệt đối xử.
Khi lựa chọn vấn đề pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập để nghiên cứu, tác giả luận văn cũng ý thức được những khó khăn bởi
đề tài này luôn mang tính thời sự, phương hướng hoàn thiện đang còn nhiều tranh cãi, chưa
thống nhất. Tuy nhiên, qua quá trình tìm tòi và nghiên cứu nhiều tài liệu cũng như sự giúp đỡ
tận tình của người hướng dẫn đề tài, đến nay, theo suy nghĩ chủ quan, việc tìm hiểu vấn đề
này rất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Qua ba chương, luận văn đã làm rõ:
1. Những vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm, pháp luật việc làm và giải quyết việc
làm. Qua đó, so sánh, đối chiếu về mặt khái niệm nhằm đưa ra cách hiểu thống nhất về việc làm,
giải quyết việc làm, pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm cũng như tầm quan trọng của việc
làm và giải quyết việc làm thể hiện ở khía cạnh kinh tế, xã hội và pháp lý. Đồng thời khái lược cơ
bản về pháp luật lao động việc làm và giải quyết việc làm từ trước đến nay, cung cấp cái nhìn
tổng quát mang tính hệ thống và khá toàn diện về những quy định của pháp luật lao động việc làm
và giải quyết việc làm. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu pháp luật lao động về việc
làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam.
2. Tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, đánh giá về những quy định hiện hành và thực trạng của
pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm thông qua những quy định về trách nhiệm của

Nhà nước, người sử dụng lao động, tổ chức giới thiệu việc làm cũng như giải quyết việc làm cho
các đối tượng lao động đặc thù. Phần này đã nêu và phân tích những cơ sở pháp lý cũng như những
nội dung quan trọng của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm hiện nay đang có hiệu
lực với những tồn tại và bất cập, đặc biệt là Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành có
liên quan đến lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm.
3. Trên cơ sở trình bày và phân tích cơ hội và thách thức thời kỳ hội nhập cũng như thực
trạng bất cập của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam, luận văn
đã làm rõ sự cần thiết phải khẩn trương hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải
quyết việc làm. Đồng thời luận văn đã đưa ra một số phương hướng hoàn thiện. Từ đó, đề
xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc
làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
Với tính chất là một luận văn thạc sĩ, tôi xin được đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để các
nhà làm luật và nghiên cứu pháp luật cũng như những ai quan tâm đến việc hoàn thiện pháp
luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm tham khảo. Rất mong pháp luật lao động
ngày càng hoàn thiện hơn để giải quyết việc làm ngày càng hiệu quả hơn cho mọi người dân,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, góp phần thực hiện mục tiêu dân

15
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, tiến bộ, văn minh mà Đảng, Nhà nước và toàn
dân ta đã đề ra.
Để hoàn thành luận văn, bản thân tác giả cũng đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên, do nhiều lí
do khác nhau, chắc chắn luận văn sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế về nội dung và hình
thức. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của thành viên Hội đồng bảo vệ luận văn cũng như
những người có quan tâm để luận văn tiếp tục được hoàn thiện, xứng đáng với luận văn thạc sĩ
luật học.

References
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1993), Một số Công ước của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO), Hà Nội.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1995), Một số tài liệu pháp luật lao động nước

ngoài, Hà Nội.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2001 - 2005), Báo cáo kết quả thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm các năm 2001 - 2005, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Đánh giá thực trạng xây dựng và thực
hiện các chính sách việc làm ở Việt Nam, Hà Nội.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Chương trình Luận cứ khoa học xây dựng
Chiến lược Việc làm Việt Nam và phát triển quan hệ lao động, Hà Nội.
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật
Việc làm, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), "Hoàn thiện chính sách pháp luật việc làm
trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động và đề xuất một số nội dung Luật Việc
làm", Hội thảo Chính sách việc làm, thị trường lao động và đề xuất nghiên cứu xây dựng
Luật Việc làm, Hà Nội.
8. Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung các
năm 2002, 2006, 2007) (2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Hữu Chí (2006), "Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề về bảo toàn, phát triển
Quỹ bảo hiểm xã hội", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 62-69.
10. Nguyễn Hữu Chí (2006), "Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm", Nhà
nước và pháp luật, (1), tr. 13-21.

16
11. Nguyễn Hữu Chí (2009), "Pháp luật về lao động nữ - Thực trạng và phương hướng hoàn
thiện", Luật học, (9), tr. 26-32.
12. Nguyễn Hữu Chí - Phạm Thanh Vân (2004), "Pháp luật lao động về việc làm đối với lao
động nữ trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước: Thực trạng và một số kiến
nghị", Nhà nước và pháp luật, (10).
13. Chính phủ (2004), Nghị định số 116/2004/NĐ-CP ngày 23/4 về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 81/CP ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về lao là người tàn tật, Hà Nội.
14. Nguyễn Việt Cường (chủ biên) (2004), 71 vụ án tranh chấp lao động điển hình: tóm tắt

và bình luận, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
15. Lê Vinh Danh (2005), "Mấy vấn đề về điều chỉnh chính sách lao động trước xu thế toàn
cầu hóa kinh tế", Tạp chí Cộng sản, (86).
16. Trần Ngọc Diễn (2005), "Cho vay vốn Quỹ giải quyết việc làm: hiệu quả dự án nhỏ trong
một chương trình lớn", Lao động Xã hội, (265).
17. Nguyễn Hữu Dũng - Trần Hữu Trung (chủ biên) (1997), Về chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Vũ Ngọc Dương (2010), "Quyền bình đẳng của lao động nữ theo pháp luật Philippines",
Luật học, (2), tr. 10-16.
19. Đàm Hữu Đắc (2010), "Kiểm định chất lượng dạy nghề hiện nay", http//www.issla.vn,
ngày 20/10.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Nguyễn Đại Đồng (2005), "Giải quyết việc làm cho lao động trong khu vực chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp: Một yêu cầu cấp bách", Lao động và Xã hội, (265).
22. "Giới thiệu một số khái niệm chuẩn quốc tế có liên quan đến việc làm" (2009),
, ngày 06/6.
23. Trương Thị Hồng Hà (2009), "Bảo vệ người lao động xuất khẩu trong các hiệp định song
phương Việt Nam đã ký với một số nước", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 45-51.

17
24. Cao Duy Hạ (2009), "Tìm hiểu chính sách thị trường lao động, việc làm của một số đảng
dân chủ xã hội hiện nay - Những vấn đề rút ra có ý nghĩa thực tiễn với Việt Nam",
, ngày 12/9.
25. Trần Hoàng Hải - Đỗ Hải Hà (2010), "Pháp luật lao động về cắt giảm nhân sự ở Việt
Nam", Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 23-33.
26. Đoàn Thế Hanh (2009), "Tháo gỡ tình trạng lao động nông dân mất việc làm ở Trung
Quốc", Tạp chí Cộng sản, 5(173).
27. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945, 1959, 1980, 1992) (1995),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Nguyễn Thanh Hòa (2009), "Thực hiện hiệu quả mục tiêu giải quyết việc làm cho người
lao động", Tạp chí Cộng sản, 10(178).
29. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Lan Hương (2002), Thị trường lao động Việt Nam, định hướng và phát triển,
Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
31. Phạm Lan Hương (2010), "Các vấn đề về quan hệ lao động trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế", Lao động và Xã hội, (386), tr. 47-48.
32. Tào Bằng Huy (2011), "Đánh giá chính sách pháp luật về việc làm từ năm 1994 đến nay
và định hướng hoàn thiện chính sách về việc làm", Hội thảo: Chính sách việc làm, thị
trường lao động và đề xuất nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Hà Nội.
33. Đỗ Năng Khánh (2000), Thất nghiệp và việc xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học.
34. Bùi Thị Lý (2009), "Đẩy mạnh xuất khẩu lao động tại chỗ - hướng giải quyết việc làm
quan trọng trong hội nhập", Tạp chí cộng sản, 15(183).
35. Thiều Văn Lý (2010), "Sau 7 tháng thực hiện chi trả bảo hiểm thất nghiệp: Chủ yếu vẫn
là tiếp nhận và xử lý hồ sơ", Báo Lao động và Xã hội, (96), tr. 4.
36. Thiều Văn Lý (2010), "Quỹ Quốc gia về việc làm: Sẽ mở rộng và ưu tiên đối tượng cho
vay", Báo Lao động và Xã hội, (105).
37. Lê Quốc Lý - Lê Văn Cương (2008), "Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề việc làm ở Việt
Nam", Kinh tế và dự báo, 24(440).

18
38. Trịnh Thị Tuyết Mai (2002), Việc làm và giải quyết việc làm theo pháp luật lao động Việt
Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Thái Thị Hồng Minh (2007), "Gia nhập WTO và những tác động đến thị trường lao động
Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, 15(135).
40. Nguyễn Đức Minh (2008), "Hoàn thiện chính sách và pháp luật lao động đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế", Nhà nước và pháp luật, (3), tr. 52-61.
41. Trần Thị Nam (2009), "Bức xúc vấn đề lao động việc làm", Tạp chí Cộng sản điện tử,

(11).
42. Nghiêm Xuân Nam (2010), "Tính nhân văn của doanh nghiệp khi tham gia hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững", Lao động và Xã hội, (390), tr. 14-15.
43. Phạm Thị Thúy Nga (2006), "Lao động phục vụ gia đình", Nhà nước và pháp luật, (2), tr.
50-57.
44. Bùi Thị Kim Ngân (2004), "Hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về lao động
nữ", Khoa học pháp lý, (3).
45. Nguyễn Thị Kim Ngân (2007), "Giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập", Tạp chí
Cộng sản, 23(143).
46. Phạm Trọng Nghĩa (2008), "Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu hóa", Nghiên
cứu lập pháp, 11(135).
47. Phạm Kim Nhuận (2005), "Quản lý cho vay Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm của Ngân hàng
chính sách xã hội và những kiến nghị", Lao động Xã hội, (265).
48. Lưu Bình Nhưỡng (2007), "Luật lao động Việt Nam thời kỳ đổi mới", Luật học, (1).
49. Lưu Bình Nhưỡng (2009), "Thực tiễn áp dụng Bộ luật Lao động và hướng hoàn thiện
pháp luật lao động", Nghiên cứu lập pháp, 5(142).
50. Lưu Bình Nhưỡng (2009), "Một số vấn đề pháp lý về người nước ngoài làm việc tại Việt
Nam", Luật học, (9), tr. 33-42.
51. Nolwen Henaff - Jean Yves Martin (Biên tập khoa học) (2001), Lao động, việc làm và
nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới mới, Hà Nội.
52. Đỗ Văn Quân và Nguyễn Thị Dung (2010), "Vai trò của doanh nghiệp trong thực hiện an sinh
xã hội ở Việt Nam hiện nay", tapchibaohiemxahoi.org.vn.

19
53. "Số liệu thống kê người đi làm việc nước ngoài đầu năm 2010" (2010), Lao động và Xã
hội, (68), tr. 1.
54. Phạm Đình Thành (2009), "Việc làm và chính sách thị trường lao động", Bảo hiểm xã
hội, (2B) và (3A).
55. Mai Đức Thiện (2009), "Quan điểm và định hướng xây dựng Bộ luật Lao động (sửa
đổi)", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 41-44.

56. Trần Văn Thiện và Nguyễn Sinh Công (2009), "Thị trường lao động Việt Nam trong cơn
suy thoái kinh tế toàn cầu", Phát triển kinh tế, (224).
57. Lê Thị Hoài Thu (2002), "Vấn đề xây dựng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt
Nam", Nhà nước và pháp luật, (11).
58. Lê Thị Hoài Thu (2006), "Quy định về bảo hiểm thất nghiệp trong Công ước của tổ chức
lao động quốc tế (ILO) và một số nước trên thế giới", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 53-
61.
59. Lê Thị Hoài Thu (2007), "Nghiên cứu pháp luật an sinh xã hội một số nước trên thế
giới", Bảo hiểm xã hội, (9).
60. Lê Thị Hoài Thu (2008), Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
61. Lê Thị Hoài Thu (2008), "Hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam", Khoa học, (24), tr.
84-92.
62. Lê Thị Hoài Thu (2008), "Bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam -
Đôi điều cần bàn", Nhà nước và pháp luật, (11), tr. 59-67.
63. Lê Thị Hoài Thu (2010), "Trợ cấp thôi việc trong pháp luật lao động Việt Nam", Nhà
nước và pháp luật, (3), tr. 51-59.
64. Vũ Minh Tiến (2010), "Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về lao động trong
các doanh nghiệp", Lao động - Xã hội, (390), tr. 19-20.
65. Nguyễn Tiệp (2007), Giáo trình Thị trường lao động, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Tiệp (2010), "Việc làm trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta", Lao động - Xã
hội, (394), tr. 14-16.

20
67. Nguyễn Ngọc Toản (2010), "Luật Người khuyết tật - Bước tiến mới trong thực hiện
chính sách trợ giúp người khuyết tật", Lao động và Xã hội, tr. 41-43.
68. Nguyễn Lương Trào (2010), "Đón nhận và thực hiện Bộ quy tắc ứng xử dùng cho các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động", Lao động - Xã hội, (390), tr. 16-18.
69. Phạm Công Trứ (2003), "Một số vấn đề pháp lý về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt
Nam", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 47-54.

70. Phạm Công Trứ (2010), "Cơ chế ba bên ở Việt Nam: Những ghi nhận về mặt pháp lý",
Nhà nước và pháp luật, (9), tr. 66-75.
71. Nguyễn Văn Trung (2010), "Giải quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp ở một số nước
trên thế giới", Quản lý nhà nước, (169), tr. 60-64.
72. Trung tâm Quốc gia dự báo và thông tin thị trường lao động (2010), "Bảng thống kê số
người đăng ký thất nghiệp từ ngày 01/01/2010 đến ngày 31/03/2010", www.lmifc.gov.vn.
73. Bùi Sỹ Tuấn (2010), "Một số kiến nghị nhằm hạn chế phát sinh liên quan đến lao động
Việt Nam ở nước ngoài", Lao động - Xã hội, (390), tr. 49-50.
74. Văn phòng Quốc hội (2011), "Chính sách và pháp luật về việc làm từ góc nhìn của các cơ
quan dân cử", Hội thảo: Chính sách việc làm, thị trường lao động và đề xuất nghiên cứu
xây dựng Luật Việc làm, Hà Nội.
75. Nguyễn Thị Thúy Vân (2010), "Vấn đề lao động mất việc làm và chính sách bảo hiểm
thất nghiệp ở nước ta hiện nay", Quản lý nhà nước, (174), tr. 39-42.
76. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2006), Báo cáo xu hướng việc làm ở Việt Nam giai
đoạn 2006 - 2015, Hà Nội.
77. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2002), Một số vấn đề phát triển thị trường
lao động Việt Nam, Hà Nội.
78. Viện Thông tin khoa học xã hội (1999), Thị trường lao động trong kinh tế thị trường, Hà
Nội.

×