Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phân loại tội phạm trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.08 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ GIANG

PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ GIANG

PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101,03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ

Hà nội – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng


dẫn của PGS.TS Trần Văn Độ. Các thông tin và kết quả nghiên cứu được trong
luận văn do tự tơi thu thập, tìm hiểu, tổng hợp và phân tích một cách khách quan.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả

Trần Thị Giang


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ...........6
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm..........................................................6
1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm ...........................................................................6
1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm ......................................................................11
1.2. Các cách phân loại tội phạm ..............................................................................17
1.2.1. Phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm....17
1.2.2. Phân loại căn cứ vào hình thức lỗi ..................................................................19
1.2.3. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm .........................................................20
1.2.4. Căn cứ chủ thể của tội phạm ...........................................................................22
1.2.5. Căn cứ cấu trúc cấu thành tội phạm: ...............................................................23
1.2.6. Căn cứ vào bị hại:............................................................................................23
1.3. Phân loại tội phạm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam ...........................24
1.3.1. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự trước pháp điển hoá (1985) ........24
1.3.2. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1985 ..............................................26

1.3.3. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999 ..............................................28
1.4. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm cho
Việt Nam ...................................................................................................................28
1.4.1. Phân loại tội phạm theo Bộ Luật hình sự Đức Error! Bookmark not defined.
1.4.2. Vấn đề phân loại tội phạm trong luật hình sự Thụy Điển ...............................34
1.4.3. Vấn đề phân loại tội phạm trong Luật hình sự Liên Bang Nga............................34
1.4.4. Phân loại tội phạm trong Luật hình sự nước Cộng Hịa Pháp.........................34
1.4.5. Kinh nghiệm cho Việt Nam...................................................................................34
Chương 2. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................................................................36
2.1. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 .................................................36


2.1.1. Các dạng phân loại tội phạm trong phần chung Bộ luật Hình sự ...................36
2.1.2. Thể hiện của phân loại tội phạm trong các chế định phần chung ...................46
2.1.3. Thể hiện của phân loại tội phạm trong phần thứ hai .......................................54
2.2. Đánh giá việc phân loại tội phạm và một số kiến nghị ......................................58
2.2.1. Đánh giá việc phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 .......................58
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện phân loại tội phạm trong pháp luật
hình sự Việt Nam ......................................................................................................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................72


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng,

an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự
phải bị xử lý hình sự.
Nghiên cứu về tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của Luật Hình sự
Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm là đối tượng đấu tranh chống và phịng ngừa của chính
sách hình sự của Nhà nước.
Do đó, việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy
định các nguyên tắc xử lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành
bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện
pháp tư pháp, v.v... Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa TNHS, quy định
khung hình phạt, bảo đảm ngun tắc cá thể hóa TNHS và hình phạt. Ngồi ra, việc
phân loại tội phạm cịn có ý nghĩa đối với việc quy định một số chế định tạm giam,
tạm giữ trong BLHS. Phân loại tội phạm trong Luật Hình sự là chia những hành vi
nguy hiểm trong xã hội bị Luật Hình sự cấm thành từng loại nhất định theo những
tiêu chí này hay những tiêu chí khác để làm tiền đề cho cá thể hóa TNHS và hình
phạt hoặc tha miễn TNHS và hình phạt.
Có thể nói, Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có
rất nhiều điểm mới và sự thay đổi, đặc biệt là những quy định về phần tội phạm,
phân lọai tội phạm. Điều này góp phần tích cực cho hoạt động cải cách tư pháp
trong nền Pháp luật Việt Nam nói chung và việc áp dụng, thực thi Bộ luật Hình sự nói
riêng vào đời sống xã hội hiện nay. Chính vì vậy, học viên đã chọn đề tài: “Phân loại
tội phạm trong luật Hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học.
1


2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cuối cùng, chung nhất của vấn đề nghiên cứu là nhằm hoàn thiện và
áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự như: Chế định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự; Nguyên tắc xử lý người phạm tội; Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình

sự... và đặc biệt để cá thể hố hình phạt được chính xác.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
3.1. Tính mới của đề tài
Đề tài này sẽ nghiên cứu và phân tích từng loại tội phạm cũng như một số tội
danh cụ thể theo những điểm mới tích cực của Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều này
sẽ là điểm mới rõ rệt nhất so với những đề tài nghiên cứu đã được hoàn thành.
3.2. Những đóng góp của đề tài về mặt khoa học
Một là, phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các biện pháp pháp
lý hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, xác định chính
sách hình sự cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể (chính sách hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội - chương X Bộ luật Hình sự, chính sách xử lý hành
vi chuẩn bị phạm tội…vv…)
Hai là, mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trị quan trọng trong việc triển
khai chính sách hình sự thơng qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các
tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó
chi phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về
tội phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử…vv…
Ba là, trong hoạt động lập pháp, phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các
chế định về tội phạm và hình phạt, là cơ sở thống nhất để xây dựng các khung hình
phạt cho tội phạm cụ thể.
Bốn là, ngoài ra, phân loại tội phạm còn là cơ sở để xác định đường lối đấu
tranh với các tội phạm khác nhau cũng như các ngành tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm, mà yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự được đặt ra và trở thành
nguyên tắc của Luật hình sự.
Năm là, phân loại tội phạm thành các nhóm khác nhau là biểu hiện của sự phân
hóa trách nhiệm hình sự ở góc độ lập pháp. Bên cạnh đó, nghiên cứu chế định phân

2



loại tội phạm trong mối quan hệ thống nhất các chế định khác sẽ tạo tiền đề cho
việc nhận thức đúng bản chất của tội phạm, đánh giá đúng tính nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm, là cơ sở để hồn thiện pháp luật hình sự.
3.3. Những đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn
Một là, phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy
phạm phần chung và phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, như: chế định tuổi chịu
trách nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành, những
người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ chuẩn bị
phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; ...v.v...
Hai là, ngồi ra, việc phân loại tội phạm cịn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp
dụng một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm
một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn đưa
vụ án ra xét xử hoặc ra các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm cụ
thể...v.v...
Ba là, kết luận, phân loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự trong luật cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra
trong các bộ luật. Việc phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng
đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà làm luật cịn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho
quan hệ xã hội mà nó xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu
quả hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
phân loại tội phạm, các cách phân loại tội phạm trong luật hình sự, các quy định về

3



tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự và nghiên cứu sự phân loại từng tội
phạm cụ thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các hình thức, cách thức cũng như ý nghĩa của việc phân loại
tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam hiện nay, cụ thể là theo Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực ngày 01/01/2018. Bên cạnh đó, có sự so
sánh, phân tích những điểm mới so với Bộ luật Hình sự năm 1999.
Đồng thời, đề tài nêu ra việc phân loại tội phạm trong lịch sử lập pháp hình sự,
trước khi pháp điển hóa luật hình sự và sau khi nước ta ban hành BLHS, quy định về
phân loại tội phạm trong luật hình sự của một số nước. Ngồi ra, luận văn cịn nghiên
cứu việc xây dựng và hoàn thiện các chế định về tội phạm và CTTP, các chế định về
hình phạt và quyết định hình phạt của BLHS hiện hành trên cơ sở quy định về phân
loại tội phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở tri thức của các ngành khoa học khác như luật học,
tâm lý học, xã hội học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề
nghiên cứu.
Cụ thể, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề
tài luận văn là: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, quy nạp,
tổng hợp, hệ thống, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, …
6. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học luật Hình sự, vấn đề phân loại tội phạm đã sớm được các nhà khoa
học luật quan tâm và nghiên cứu. Do ý nghĩa của việc phân loại tội phạm đối với việc
xây dựng và áp dụng luật hình sự nên trong BLHS của các nước đều có quy định về
phân loại tội phạm. Ở nước ta việc phân loại tội phạm cũng được thực hiện và quy định
theo những tiêu chí và quan niệm khác nhau. Trong các cơng trình nghiên cứu và trong

các giáo trình giảng dạy ở nước ta, việc phân loại tội phạm trong luật hình sự đã được

4


đề cập dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Vấn đề phân loại tội phạm được quy
định tại Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, được phân tích
và đề cập trong các cơng trình nghiên cứu khác như: Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự
Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Đỗ Ngọc
Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hịa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm (2005), Sách chuyên
khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong Khoa học luật Hình sự (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,..
Từ trước pháp điển hóa năm 1985 đến nay, khơng có nhiều cơng trình luận án,
luận văn viết về đề tài phân loại tội phạm. Chỉ đáng kể đến là Luận án tiến sỹ với đề
tài "Phân loại tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" của tác giả Trương Minh Hạnh
được hoàn thành và bảo vệ năm 2004.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm
1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm
Trước khi tìm khái niệm phân loại tội phạm thì một vấn đề cần quan tâm đó là
tìm hiểu khái niệm tội phạm. Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan
trọng nhất của luật hình sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét
bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự ở

mỗi nước. Tội phạm là một hiện tượng xã hội, cho nên khái niệm của nó ln ln
gắn liền với sự phát triển xã hội và ngày càng được nghiên cứu hoàn thiện. Hiện
nay, một số quốc gia trên thế giới có quy định khái niệm tội phạm trong Bộ luật
Hình sự (BLHS), tuy nhiên cũng có một số quốc gia khơng đưa khái niệm tội phạm
vào Bộ luật Hình sự.
Bộ luật Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức khơng có điều luật về khái niệm tội
phạm nhưng có cả một chương quy định về hành vi phạm tội. Trong đó, các quy
định tập trung vào các vấn đề như: chủ thể của tội phạm, vấn đề lỗi và các trường
hợp sai lầm, vấn đề thực hiện qua không hành động và vấn đề thực hiện cho người
khác, các căn cứ biện hộ (các căn cứ loại trừ tính trái pháp luật của hành vi), phạm
tội chưa đạt, người thực hiện phạm tội và người tòng phạm 37. Hay như ở Cộng
hòa Pháp, trong Phần chung của Bộ luật Hình sự khơng nêu các dấu hiệu của hành
vi phạm tội. Tuy nhiên, tại Phần các tội phạm lại quy định các dấu hiệu của hành vi
phạm tội như: mức độ nghiêm trọng của thiệt hại gây ra cho cá nhân, xã hội, Nhà
nước (Điều 111 – 1); tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt của hành vi
(Điều 111 – 2, 111 – 3); tính có lỗi cố ý hoặc vơ ý của hành vi (Điều 121 – 3) 16.
Và ở luật hình sự nước Anh khơng quy định khái niệm tội phạm và dấu hiệu của
một số tội cụ thể được quy định trong các đạo luật hình sự chuyên biệt.
Bên cạnh đó, ở một số quốc gia có quy định khái niệm tội phạm trong Luật
hình sự và cách thể hiện khái niệm tội phạm cũng có nhiều điểm khác nhau, có
6


những quốc gia chỉ quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức, có những
quốc gia quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp dấu hiệu hình thức và dấu hiệu
nội dung.
Thứ nhất, quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức
Ngay từ thời kỳ đầu khi xã hội tư sản vừa bước ra khỏi sự hạn chế của chủ
nghĩa phong kiến, với tư tưởng đề cao vai trò của tự do dân chủ và bình đẳng, tư
tưởng nhà nước pháp quyền thì quan niệm con người được phép làm những gì pháp

luật khơng cấm… được thể hiện rất rõ nét trong khái niệm tội phạm. Do đó, khái
niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự ở một số nước tư sản đã được diễn đạt bằng
nhiều cách khác nhau: là hành vi bị đạo luật hình sự cấm hoặc là “vi phạm pháp luật
bị Bộ luật Hình sự trừng trị” hoặc là “hành vi do luật hình sự cấm bằng nguy cơ xử
phạt”… Theo các luật gia tư sản thời kỳ này thì tội phạm là các hành vi do luật hình
quy định. Trong khái niệm tội phạm này tính luật định được coi là đặc điểm duy
nhất của tội phạm. Thực hiện ngun tắc “khơng có tội phạm nếu điều đó khơng bị
cấm trong Bộ luật Hình sự”, các luật gia tư sản chứng minh được thế tiến bộ của
nước mình trước luật hình phong kiến 55. Cho tới nay, trong Bộ luật Hình sự ở
một số nước cũng vẫn quy định tội phạm dưới dạng hình thức là hành vi do Luật
định. Cụ thể như: tại Điều 1 BLHS Thụy Điển quy định: “Tội phạm là hành vi được
quy định trong Bộ luật này hoặc luật hoặc các văn bản pháp luật khác và bị áp
dụng các hình phạt theo quy định của Luật này” 51. Điều 10 Bộ luật Hình sự
Cộng hịa Tây Ban Nha thì tội phạm là hành vi bằng hành động hoặc khơng hành
động, có lỗi cố ý hoặc vơ ý và bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình
sự. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Hình sự Cộng hịa Thụy Sĩ, chỉ người nào thực
hiện hành vi bị Bộ luật Hình sự cấm bằng nguy cơ bị áp dụng hình phạt mới phải
chịu hình phạt.
Thứ hai, quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp cả dấu hiệu hình thức và
dấu hiệu nội dung
Hiện nay, cùng với dấu hiệu hình thức, ở một số nước đã đưa dấu hiệu nội dung
vào khái niệm tội phạm. Tội phạm không chỉ là hành vi được luật hình quy định mà
7


cịn là hành vi chống lại lợi ích xã hội, là hành vi có hại. Các khái niệm tội phạm
được quy định trong Luật hình sự thể hiện ở hai dạng: khái niệm đầy đủ và khái
niệm tổng quát về tội phạm.
- Khái niệm đầy đủ về tội phạm:
Trong khái niệm này các tác giả đưa ra đầy đủ các dấu hiệu tội phạm. Một số

cho rằng “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự do người ở một độ tuổi luật định có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vơ ý và vì nó người phạm tội phải bị xử phạt”.
Theo khái niệm nêu trên, tội phạm được đưa ra với đầy đủ các dấu hiệu của nó
là: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; tội phạm được quy định trong Bộ luật
Hình sự; Tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đến một độ tuổi
nhất định thực hiện; tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc vơ ý (có lỗi) và người
phạm tội phải bị xử phạt. Điều 14 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa
đổi năm 2010 quy định: “Tội phạm là hành vi có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị
cấm bởi Bộ luật Hình sự và phải chịu hình phạt. Hành động (hoặc khơng hành
động), mặc dù về hình thức có bao hàm những dấu hiệu của một hành vi nào đó
được Bộ luật này quy định nhưng do tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể
thì khơng phải là tội phạm”54.
Cùng với quan điểm như trên, những người khác khơng coi tình tiết phải bị xử
phạt là dấu hiệu của tội phạm, và vì vậy không đưa đặc điểm này vào khái niệm đầy
đủ về tội phạm. Những tác giả này cho rằng: phạm tội thì khơng tránh khỏi phải
chịu hình phạt, đó là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật hình sự. Phải
chịu xử phạt, đó là hậu quả tất yếu của việc thực hiện tội phạm chứ chính nó khơng
phải là thuộc tính của tội phạm. Mặt khác, trong thực tế có nhiều trường hợp tội
phạm khơng bị xử phạt do nhiều nguyên nhân khác nhau (quá thời hiệu, không
khám phá được, được miễn trách nhiệm hình sự…), vậy thì trong những trường hợp
ấy hành vi có được coi là tội phạm hay khơng nếu có đủ các yếu tố cấu thành. Thực
vậy, khi một người thực hiện hành vi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội
phạm thì hành vi đó đã là tội phạm, khơng phụ thuộc người đó có bị xử phạt hay

8


khơng. Điều 13 Bộ luật Hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa đổi
năm 2005 quy định: “Mọi hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và

an ninh quốc gia; chia cắt quốc gia; lật đổ chính quyền chuyên chính dân chủ nhân
dân và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa; phá hoại trật tự kinh tế xã hội; xâm phạm
tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản thuộc sở hữu tập thể của quần chúng lao
động; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu riêng của công dân; xâm phạm các quyền
nhân thân dân chủ và các quyền khác của công dân cũng như các hành vi khác gây
nguy hại cho xã hội được quy định là tội phạm. Những hành vi nhỏ nhặt gây hại
khơng lớn thì khơng phải là tội phạm” 9.
- Khái niệm tổng quát về tội phạm:
Những người có quan điểm này cho rằng tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được Bộ luật Hình sự quy định hay nói cách khác tội phạm có hai đặc tính cơ
bản: nội dung là hành vi nguy hiểm cho xã hội và hình thức được Bộ luật Hình sự
quy định.
Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng tuy là khái niệm được đưa ra
mang tính khái quát cao nhưng nó vẫn thể hiện đầy đủ các đặc điểm của tội phạm.
Không phải bất kỳ một hành vi nguy hiểm nào (tức gây thiệt hại hoặc có khả năng
gây thiệt hại) cũng là tội phạm. Chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội mới được quy
định là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bao gồm cả hai
mặt: mặt thực tế (gây thiệt hại hoặc nguy cơ gây thiệt hại) và mặt xã hội.
Khái niệm tội phạm có thể được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự
Việt Nam. Khái niệm này một mặt là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội
phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, mặt khác trực tiếp thể
hiện một cách rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam và là cơ sở
để quy định các chế định khác của Luật hình sự, trong đó có phân loại tội phạm.
Nội dung của khái niệm tội phạm xác định giới hạn giữa tội phạm và không phải là
tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác. Khái niệm
tội phạm là cơ sở để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa là mơ hình
pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy định khung hình phạt

9



tương ứng. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, người và cơ quan có thẩm
quyền tuy dựa vào cấu thành tội phạm để xác định tội phạm nhưng chỉ trên cơ sở
nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất cũng như những đặc điểm của tội phạm
nói chung mới có thể áp dụng luật hình sự một cách đúng đắn qua việc xác định đúng
tội danh, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội 38.
Hiện nay khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS năm 2015. Và
khái niệm này cũng cơ bản được tiếp nhận trong khoa học Luật hình sự.
“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”
2, Điều 8.
Khái niệm tội phạm đầy đủ với cách thể hiện đầy đủ các dấu hiệu cơ bản như
tính nguy hiểm (tính chất và mức độ) cho xã hội, tính có lỗi, các nhóm khách thể bị
xâm hại… khơng chỉ thể hiện chính sách pháp luật hình sự, mà còn là cơ sở quan
trọng trong phân loại tội phạm. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm thơng qua chế tài (hình phạt) được quy định, hình thức lỗi khi thực hiện tội
phạm, các nhóm khách thể (khách thể loại) luôn được sử dụng làm tiêu chí phân
loại tội phạm trong khoa học luật hình sự nước ta từ xưa đến nay.
Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng,
phức tạp, xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Phân loại tội
phạm là cực kỳ cần thiết vì phân loại tội phạm để thực hiện chính sách pháp luật
hình sự có phân biệt; sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo

10


từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng.
Phân loại tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, theo hình thức lỗi, theo
khách thể xâm hại là cơ sở để từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt cũng
như các biện pháp trách nhiệm hình sự khác; thực hiện ngun tắc phân hố trong
chấp hành hình phạt đối với các loại tội phạm…
Ngoài ra việc phân loại tội phạm có mục đích để áp dụng, thực hiện các chế
định khác nhau của pháp luật tố tụng hình sự như biện pháp ngăn chặn do Bộ luật
Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm; xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị
xét xử, thời hạn xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các
tội phạm cụ thể; thực hiện các loại thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng...
Như vậy, Phân loại tội phạm là việc phân chia các tội phạm thành những nhóm
khác nhau dựa trên những tiêu chí và nhằm những mục đích nhất định. Phân loại tội
phạm là địi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật cũng như
áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc phân loại
tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà
làm luật cịn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó xâm hại để
đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn.
1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm
- Ý nghĩa chính trị xã hội
Phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm
hình sự và quyết định hình phạt đánh giá chính trị, pháp lý về tội phạm. Việc xây
dựng chính sách pháp luật hình sự trên cơ sở phân loại tội phạm có ý nghĩa lớn
trong việc giáo dục người phạm tội, từ đó nâng cao hiệu quả cơng cuộc đấu tranh
phịng, chống tội phạm, nhằm hạn chế các sự việc phạm tội có thể xảy ra. Mặt khác,
xây dựng hệ thống hình phạt đúng trên cơ sở phân loại tội phạm còn là yếu tố quan
trọng để đạt được các mục đích của hình phạt, vừa mang tính giáo dục, vừa thể hiện

được sự công minh và nghiêm khắc của pháp luật. Như vậy, việc phân loại tội phạm
góp phần xây dựng nên ý thức pháp luật của người dân, tạo ra xã hội ổn định. Phân

11


loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật
cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc
phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn
rộng ra, nhà làm luật cịn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó
xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn.
Việc phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm
trong Bộ luật Hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho cơng
tác nghiên cứu và áp dụng.
Mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trị quan trọng trong việc triển khai
chính sách hình sự thơng qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các tội
có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó chi
phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về tội
phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử.
- Ý nghĩa pháp lý hình sự
Phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các chế định khác nhau
của Luật hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, hình thức
lỗi hoặc tính chất khách thể bị xâm hại; xác định chính sách hình sự cụ thể đối với
từng hành vi phạm tội cụ thể… Cụ thể là:
+ Xác định và xây dựng hệ thống hình phạt trong phần chung cũng như cụ thể
hoá trong chế tài các tội phạm. Ví dụ: Các hình phạt tù chung thân, tử hình chỉ quy
định và áp dụng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 39, 40 BLHS năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017); hình phạt cảnh cáo chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm
trọng (Điều 34 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017);
+ Xác định chính sách xử lý trong những trường hợp đặc biệt như tuổi chịu

trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS); đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội (Chương XII BLHS); chính sách xử lý hành vi chuẩn bị phạm tội…;
+ Phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các chế định khác nhau của BLHS.
Ví dụ: Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vơ
ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người

12


khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải
và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự
(Khoản 3 Điều 29 BLHS).
Người bị kết án do lỗi vơ ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng
và người được miễn hình phạt khơng bị coi là có án tích - Xố án tích (Điều 69
BLHS).
Đồng thời, phân loại tội phạm cũng là yếu tố quan trọng được người, cơ quan
có thẩm quyền cân nhắc khi áp dụng pháp luật hình sự.
- Ý nghĩa pháp lý tố tụng hình sự
Phân loại tội phạm là căn cứ để xác định áp dụng và thực hiện nhiều chế định
khác nhau của tố tụng hình sự:
+ Để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử;
Cụ thể, được quy định tại Khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
“Điều 268. Thẩm quyền xét xử của Tòa án
1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hồ bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282,
283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật Hình sự;

d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.”.
Quy định về thẩm quyền điều tra (Khoản 5 Điều 163 BL TTHS):
“5. Việc phân cấp thẩm quyền điều tra như sau:
a) Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ
án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện, Tòa án quân sự khu vực;
b) Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền
13


điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội
có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu x t thấy cần trực tiếp điều tra;
Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp khu vực nếu x t thấy cần trực
tiếp điều tra;
c) Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc ph ng điều tra vụ
án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự
về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu x t
thấy cần trực tiếp điều tra.”. Để xác định các loại thời hạn như thời hạn điều tra
(Điều 172 BL TTHS), thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 173 BL TTHS), Thời hạn
phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại (Điều 174 BL TTHS), thời hạn
chuẩn bị xét xử (Điều 277 BL TTHS)cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
của các tội phạm cụ thể 4, Điều 268.
Việc phân loại tội phạm cịn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng một số

chế định của luật tố tụng hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp chỉ
được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn tố tụng hoặc ra
các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm...
+ Xác định căn cứ thực hiện, áp dụng một số biện pháp tố tụng (biện pháp ngăn
chặn, nhất là tạm giam (Điều 119 BL TTHS); các biện pháp điều tra đặc biệt…).
Tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có thể tạm giam ngay mà khơng cần
điều kiện gì.
Các biện pháp điều tra đặc biệt được áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng là tội tham nhũng và tội xâm phạm an ninh quốc gia, được sử dụng các biện
pháp như quay lén, chụp hình lén, ghi âm lén hoặc xâm nhập vào acount điện tử của
tội phạm.
14


+ Phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa quan trọng trong quy định và thực hiện
các loại thời hạn tố tụng như thời hạn điều tra, thời hạn xét xử; thời hạn áp dụng
biện pháp tạm giam; thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại.
Ví dụ, về thời hạn điều tra được quy định tại Điều 172 BLTTHS thì thời hạn
điều tra vụ án hình sự khơng q 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không
quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến
khi kết thúc điều tra.
Bên cạnh đó, việc gia hạn điều tra cũng được quy định căn cứ vào loại tội phạm.
Ví dụ: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần
không quá 02 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai
lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng; ...
Đối với thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 173 BLTTHS
cũng căn cứ vào từng loại tội phạm tương ứng như thời hạn điều tra. Thời hạn tạm
giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, khơng

q 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp gia hạn tạm giam để điều tra, đối với tội phạm ít nghiêm trọng có
thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng, tội phạm nghiêm trọng
được gia hạn một lần không quá 02 tháng, tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn
một lần không quá 03 tháng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì được gia hạn hai
lần, mỗi lần khơng q 04 tháng.
Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của BLHS thì thời hạn
điều tra tiếp khơng quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều
tra.- Ý nghĩa trong thi hành án hình sự
+ Phân loại trại giam (Điều 27 Luật Thi hành án hình sự năm 2010)
Việc tổ chức giam giữ phạm nhân cũng được quy định dựa theo nhóm loại tội
phạm, gồm: Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung

15


thân, phạm nhân thuộc loại tái phạm nguy hiểm và khu giam giữ đối với phạm nhân có
mức án tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng có kết quả
chấp hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới 15 năm 34,
Điều 27.
+ Phân loại quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 18 Luật Thi
hành tạm giữ, tạm giam 2015)
Loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cũng được quy định trong điểm g khoản 1
Điều 18. Theo đó, loại tội này sẽ bị tạm giữ, tạm giam riêng so với những tội phạm
ít nghiêm trọng hơn. Ví dụ, tội phạm giết người cướp tài sản thì sẽ khơng giam, giữ
chung với người phạm tội trộm cắp tài sản hay tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ. Bởi mức độ nguy hiểm và tính chất thực hiện

hành vi của từng loại tội phạm có sự khác nhau
Giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 63 BLHS)
Trong điều luật này có hai nội dung quy định liên quan đến phân loại tội phạm
như sau:
Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi
phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tịa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người
đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm
tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tịa án chỉ
xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt
chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực
hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.
- Ý nghĩa thực tiễn
Phân loại tội phạm có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Phân loại tội phạm là cơ sở
để xây dựng, hướng dẫn pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi
hành án hình sự. Trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử: cơ quan, người
tiến hành tố tụng luôn cân nhắc loại tội phạm khi áp dụng các quy định khác nhau
của pháp luật hình sự trong trường hợp được lựa chọn, tuỳ nghi. Loại tội phạm cũng

16


được cân nhắc trong hoạt động thi hành án, nhất là chế độ giam giữ, giáo dục cải tạo
phạm nhân, …
Phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy phạm
phần chung và phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, như: chế định tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành, những người
chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ chuẩn bị phạm là tội
rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng

chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; ...v.v...
Ngồi ra, việc phân loại tội phạm cịn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng
một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp
chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quyết định về thời hạn tố tụng như
thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn… được
quyết định trên cơ sở loại tội phạm được xác định...
1.2. Các cách phân loại tội phạm
1.2.1. Phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
Chế tài đối với các tội là kết quả của tính chất, mức độ nguy hiểm của tội đó.
Vì vậy, hình phạt được quy định trong chế tài luôn thể hiện đầy đủ, chính xác tính
chất, mức độ nguy hiểm chung của tội phạm đó. Vì vậy, việc phân loại tội phạm cơ
bản được thực hiện theo tiêu chí tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm;
Nhưng để nhận biết tội phạm được quy định thuộc loại nào thì cần căn cứ vào chế
tài được quy định đối với tội phạm đó.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm thông qua chế tài được
quy định, tội phạm được chia thành 4 loại:
+ Tội phạm ít nghiêm trọng:
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối

17


với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm 2, Điều
9.
Quy định về tội phạm ít nghiêm trọng trong BLHS 2015 đã mở rộng hơn so với
BLHS 1999. BLHS cũ chỉ căn cứ vào mức hình phạt tù có thời hạn không quá 3
năm nên không bao quát hết các khung (khung cơ bản) khơng có hình phạt tù. Do

đó quy định theo hướng ngồi mức phạt tù có thời hạn là 3 năm cịn có phạt tiền,
phạt cải tạo khơng giam giữ là phù hợp.
+ Tội phạm nghiêm trọng:
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy
là từ trên 03 năm đến 07 năm tù 2, Điều 9.
+ Tội phạm rất nghiêm trọng:
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù 2, Điều 9.
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình 2,
Điều 9.
Có thể thấy một trong các điểm khác biệt lớn nhất ở BLHS 2015 so với BLHS
1999 là đã tách quy định về phân loại tội phạm ra thành một điều luật riêng, khơng
cịn chung với điều luật quy định về khái niệm tội phạm. Việc này đã góp phần đảm
bảo tính minh bạch khi các chủ thể áp dụng Bộ luật để nghiên cứu và thực thi.
Việc phân loại tội phạm theo căn cứ này nhằm để xác định tội phạm theo tính
chất và mức độ nguy hiểm, từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt.Và để áp
dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ngoài ra nó cịn có ý nghĩa

18


để xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn
xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể.
1.2.2. Phân loại căn cứ vào hình thức lỗi

Căn cứ vào hình thức lỗi có thể phân loại tội phạm thành tội phạm được thực
hiện do lỗi cố ý và tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý.
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (Lỗi cố ý trực tiếp)
- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy khơng mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Lỗi cố ý gián tiếp).
Ngoài ra, các nhà khoa học pháp lý hình sự có phân tích các hình thức cố ý
phạm tội như: cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác định và cố ý không xác
định. Việc xác định hình thức này khơng có ý nghĩa trong việc định tội mà có ý
nghĩa để đánh giá về tính chất mức độ của hành vi khi xác định khung hình phạt.
- Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính tốn cẩn thận mới bắt tay vào việc thực
hiện tội phạm.
- Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định phạm tội đã thực hiện
ngay ý định đó.
- Cố ý xác định là trường hợp khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,
người có hành vi đã xác định được hậu quả cụ thể xảy ra.
- Cố ý không xác định là trường hợp khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, người có hành vi khơng hình dung cụ thể hậu quả xảy ra như thế nào.
Theo quy định tại Điều 11 BLHS năm 2015 thì vơ ý phạm tội được hiểu là việc
người thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp sau:
- Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

19


- Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả

nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Khoa học Luật hình sự có đặt ra một số hình thức vơ ý phạm tội sau đây:
- Vơ ý vì cẩu thả: là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước
khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có
thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy
trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra
sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngồi ra cịn phải căn cứ độ
tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay nghề, chun mơn…
- Vơ ý vì q tự tin: là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ
khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.
Các trường hợp vô ý phạm tội thường liên quan nhiều đến những người phạm
tội hình sự trong quá trình hoạt động chun mơn nghiệp vụ của mình. Nếu như
việc phân loại tội phạm theo hình thức lỗi (tội cố ý, tội vơ ý) có ý nghĩa quan trọng
trong quy định và áp dụng pháp luật hình sự; thì việc phân loại theo các dạng lỗi (các
dạng cố ý trực tiếp, gián tiếp, xác định, không xác định; vô ý do chủ quan, vơ ý do
cẩu thả...) lại có ý nghĩa trong nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự trên thực tế.
1.2.3. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm
Khách thể của tội phạm là các quyền và lợi ích được luật Hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những quyền và lợi
ích đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ
chính trị; nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
cơng dân... những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Khách thể chung của tội phạm
Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quyền, lợi ích bị tội phạm
xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội phạm được xác định
tại Điều 8 BLHS năm 2015. Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại

20



×