Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở việt nam luận văn ths luật 6 01 05

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ THU HƯỜNG

Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Thu Thủy

Hà nội - 2004


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... 3
1.1. Khái quát chung về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng .................................................. 11
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay và hợp đồng tín dụng ......................................................... 11
1.1.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng .............. 21
1.2. Khái niệm thế chấp quyền sử dụng đất ........................................................................................ 27
1.2.1. Quyền sử dụng đất ............................................................................................................... 27
1.2.2. Khái niệm thế chấp quyền sử dụng đất ................................................................................. 29
1.3. Thế chấp quyền sử dụng đất - biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng ............................................................................................................................................. 32

CHƯƠNG 2 ...........................................................................................................38
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG ...................................................38
2.1. Đối tượng, điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất......................................................................... 38
2.1.1. Đối tượng của thế chấp quyền sử dụng đất. ......................................................................... 38


2.1.2. Điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất ................................................................................. 39
2.2. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ......................................................................................... 43
2.2.1. Chủ thể được thế chấp quyền sử dụng đất ........................................................................... 43
2.2.2. Hình thức hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ................................................................. 45
2.2.3. Nội dung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất .................................................................. 50
2.3. Trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất .................................................................. 56
2.3.1. Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất .................................................................................... 56
2.3.2. Xoá đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất ............................................................................. 59
2.4 Xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất ................................................................................. 60

CHƯƠNG 3 ...........................................................................................................70
ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ....................70
3.1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng .................................................................................................................................................. 70


3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng ..................................................................................................................................... 74
3.2.1. Hồn thiện pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất là một bộ phận của pháp luật về giao
dịch bảo đảm. ................................................................................................................................ 74
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về chủ thể, đối tượng, điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất. ....... 76
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất............... 80
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất:.............. 82
3.2.5. Hoàn thiện các quy định về xử lý quyền sử dụng đất để thu hồi nợ ..................................... 85

KẾT LUẬN..............................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................89



LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tổ chức tín dụng ra đời với vai trị là trung gian tài chính tiền tệ của nền
kinh tế với chức năng huy động vốn để cho vay. Với chức năng này, hoạt động
kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói
riêng luôn tiểm ẩn những rủi ro. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là
hoạt động mang tính nghề nghiệp, truyền thống và chủ yếu của các tổ chức tín
dụng ở Việt Nam và các nước trên thế giới. Hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng nói chung
có ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế. Mục tiêu hoạt động của các tổ chức tín
dụng là an tồn, ổn định, lành mạnh và có hiệu quả. Vì vậy, để bảo đảm mục tiêu
của hoạt động cho vay, ngoài việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp
luật về quy trình, điều kiện, thủ tục vay vốn thì các tổ chức tín dụng thường hay áp
dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, trong đó có biện pháp thế chấp quyền sử
dụng đất.
Thế chấp quyền sử dụng đất được ghi nhận lần đầu tiên trong Luật Đất đai
1993, theo đó người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp,
đất lâm nghiệp để trồng rừng được thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín
dụng Việt Nam để vay vốn sản xuất [7]. Việc cho phép người sử dụng đất được
thực hiện các giao dịch trên thị trường mà trong đó có quyền thế chấp quyền sử
dụng đất đã mang lại những lợi ích cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng là biện pháp bảo đảm tiền vay được áp dụng phổ biến, thơng dụng nhất, vì
biện pháp này tạo cho tổ chức tín dụng và khách hàng vay những lợi ích đáng kể.


Và đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng.
Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất được hợp thành từ các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến nhiều lĩnh vực như: Luật đất đai, Luật Dân sự, Luật

Ngân hàng... Cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các chính sách, quy định
của pháp luật đất đai nói chung và quy định của pháp luật thế chấp quyền sử dụng
đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng ngày càng được
quan tâm nhiều hơn.
Tuy nhiên, pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế: Các quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất chưa thống nhất,
đồng bộ, các quy định không rõ ràng, mâu thuẫn đã cản trở không nhỏ đến việc áp
dụng các quy định về thế chấp quyền sử dụng đất trên thực tế (Chủ thể của thế
chấp quyền sử dụng đất, đối tượng của thế chấp quyền sử dụng đất; Điều kiện đối
với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất; Hình thức thế chấp quyền sử dụng đất;
Trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất; Xử lý tài sản bảo đảm là
quyền sử dụng đất...). Chính những hạn chế này đã làm cho việc áp dụng biện pháp
thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng chưa
thuận lợi và cũng chưa thực sự có hiệu quả đối với cả tổ chức tín dụng cũng như
khách hàng vay. Một thời gian dài, do chưa có một hành lang pháp lý ổn định,
cũng như cơ chế thực hiện thông thống, dẫn đến tình trạng các tổ chức tín dụng bị
“đóng băng” nguồn vốn cho vay. Vì vậy, để tạo cơ hội cho mọi đối tượng, chủ thể
được tiếp cận nguồn vốn tín dụng, Nhà nước cần có những quy định bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trong việc thực hiện quyền thế
chấp quyền sử dụng đất để vay vốn tại các tổ chức tín dụng.


Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề phát triển đồng bộ các thị
trường trong đó có thị trường quyền sử dụng đất đang là vấn đề được Đảng và Nhà
nước quan tâm đặc biệt. Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng đã khẳng định: hình thành mơi
trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng, đa
dạng hố các hình thức huy động vốn, cho vay, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn

tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời sống, tăng cường những chế định pháp lý,
kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền thu nợ
hợp pháp của người cho vay [tr 197, 1].
Xuất phát từ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự
phát triển của nền kinh tế mà việc nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp
luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng là rất cần thiết. Từ thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật thế chấp
quyền sử dụng đất, đặt ra u cầu tiếp tục hồn thiện tính đồng bộ, thống nhất giữa
các quy định của pháp luật, tạo môi trường pháp lý đầy đủ để các quy định về thế
chấp quyền sử dụng đất được thực thi có hiệu quả, đem lại lợi ích cho xã hội.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” làm luận văn tốt
nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp bảo
đảm tiền vay nói chung và biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất nói riêng, đã có
một số đề tài khoa học như: Luận án Tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Như Minh về
“Những giải pháp về bảo đảm tiền vay”; Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Thanh Hằng
về “Thế chấp quyền sử dụng đất bảo đảm hợp đồng tín dụng Ngân hàng ở nước ta
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Dung về “Thế chấp giá trị quyền sử


dụng đất những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Nga
về “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật thị trường quyền sử dụng đất ở Việt Nam”,
Luận văn Thạc sỹ của Trần Phú Nhuận về “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất”, Luận văn Thạc sỹ của Lê Thu Hiền về “Bảo đảm tiền vay ngân hàng thực
trạng và giải pháp”; Luận văn Thạc sỹ của Trần Thị Minh Tâm về “Pháp luật về xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng”.... Các cơng trình trên đã
nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo đảm tiền vay, thế chấp quyền sử dụng
đất, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu một cách tổng thể cả về lý luận và thực tiễn các

quy định của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, theo thời
gian các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này cũng đã được thay đổi nhiều.
Chính vì vậy đã thơi thúc tôi thực hiện đề tài “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về hoạt
động cho vay và thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng ở Việt Nam.
- Từ thực trạng áp dụng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng để đặt ra những vấn đề cần phải tháo gỡ
trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật sao cho phù hợp, rõ ràng và thống nhất.
- Xem xét, phân tích những mâu thuẫn, bất cập trong việc áp dụng các quy
định hiện hành về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng, đưa ra phương hướng tiếp tục hồn thiện các quy định của pháp luật


về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Nhiệm vụ của Luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng, thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng, nội dung pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất để từ đó đi sâu phân tích
cụ thể từng nội dung này.
- Nghiên cứu thế chấp quyền sử dụng đất với vai trò là một trong những
biện pháp bảo đảm tiền vay được áp dụng phổ biến trong hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng để thấy được sự cần thiết của thế chấp quyền sử dụng đất
trong việc bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
- Qua nghiên cứu thực trạng, các vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật

thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng để
đặt vấn đề khắc phục những vướng mắc, khó khăn này trên thực tế.
- Kiến nghị hướng hoàn thiện các quy định pháp luật tạo nên sự thống nhất,
đồng bộ của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của Luận văn, tôi chỉ nghiên cứu các vấn đề liên quan trực
tiếp đến thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng tại Việt Nam, mà cụ thể là những khía cạnh pháp lý cơ bản, cơ sở lý luận của
hoạt động cho vay và biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trả nợ vay, đồng thời nghiên cứu, xem xét những bất cập, vướng mắc trên
thực tế khi áp dụng. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, trong luận văn tôi đưa ra
những khuyến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất


trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng và pháp luật về thế
chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam nói chung.
6. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ
sở phương pháp luận để nghiên cứu và thực hiện đề tài;
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu của
luận văn này bao gồm: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê.
7. Đóng góp khoa học của đề tài:
Với việc nghiên cứu đề tài, luận văn dự kiến đóng góp một số nội dung sau:
- Nghiên cứu, so sánh giữa hoạt động cho vay thông thường và hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng, từ đó thấy được những đặc trưng của hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng đó là hoạt động có tính rủi ro cao, mang tính hệ
thống và có ảnh hưởng dây chuyền. Vì những đặc trưng đó mà bảo đảm an toàn
cho hoạt động cho vay là nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của các tổ chức tín dụng.
- Nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay trong đó tìm hiểu cụ thể về khái

niệm, đặc điểm của thế chấp quyền sử dụng đất để chứng minh rằng thế chấp
quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là biện pháp
bảo đảm tiền vay được áp dụng phổ biến, thường xuyên và mang lại lợi ích cho
những người sử dụng đất. Thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng một mặt tạo cơ hội, điều kiện cho người sử dụng đất được
tiếp cận với nguồn vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, mặt khác tạo cho các tổ
chức tín dụng mở rộng và thực hiện tốt vai trị trung gian tài chính, đem nguồn vốn
tín dụng đến mọi đối tượng có nhu cầu vốn trong xã hội.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất
trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, chỉ ra những khó khăn, vướng


mắc trên thực tế. Tìm ra những điểm hạn chế của thực trạng pháp luật về thế chấp
quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
- Kiến nghị và định hướng hồn thiện các quy định của pháp luật hiện
hành về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng.
8. Bố cục của Luận văn:
Với đề tài “Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng ở Việt nam”, ngồi Lời nói đầu, Kết luận, Mục lục, Danh
mục tài liệu tham khảo thì bố cục của Luận văn được chia thành 3 phần chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và thế chấp
quyền sử dụng đất trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ THẾ
CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC
TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1. Khái quát chung về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay và hợp đồng tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
Cho vay là một hiện tượng xuất hiện khi xã hội có sự phân hoá giầu nghèo
giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội do nền kinh tế hàng hoá phát triển. Lúc này
xuất hiện một số tầng lớp dân cư có thu nhập cao, thừa vốn với một tầng lớp dân
cư có thu nhập thấp chiếm đa số. Cho vay ra đời với vai trò điều tiết nhu cầu thừa
thiếu vốn trong xã hội. Như vậy, cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan
xuất hiện khi xã hội loài người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn
[33].
Thuật ngữ “Cho vay” theo nghĩa thơng thường có nghĩa là việc một người
chuyển một vật của mình cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định
[30], theo đó khi một người có tài sản khơng sử dụng hoặc trong tình trạng tạm
thời thừa chuyển cho một người muốn sử dụng hoặc trong tình trạng tạm thời thiếu
để sử dụng tài sản đó trong một thời gian nhất định theo thoả thuận và dựa vào sự
tín nhiệm của các bên về khả năng hoàn trả. Ban đầu, tài sản cho vay có thể dưới
hình thức là vật, cho vay chủ yếu là thoả mãn các lợi ích tinh thần của các bên.
Nhưng do điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, giao lưu kinh tế ngày càng
mở rộng thì tài sản cho vay lúc này không chỉ đơn thuần là vật mà tài sản cho vay
đã đa dạng hơn như tiền hoặc các tài sản có giá trị và cho vay để đáp ứng các nhu
cầu khác như kinh doanh, buôn bán.


Xét về bản chất, cho vay là một giao dịch dân sự, dựa trên cơ sở hợp đồng.
Trong giao dịch dân sự, cho vay dựa trên cơ sở hợp đồng vay tài sản được quy
định trong Bộ luật Dân sự, theo đó các bên thoả thuận trong hợp đồng về việc bên

cho vay giao cho bên vay một khoản tiền hoặc vật, khi đến hạn, bên vay phải trả
tiền hoặc vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi, nếu có
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định [6].
Tổ chức tín dụng ra đời với chức năng là trung gian tài chính của nền kinh
tế, cụ thể là hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ: huy động vốn nhàn rỗi
của các cá nhân, tổ chức (gọi chung là huy động vốn trong dân cư) để cấp tín dụng
cho các khách hàng (cá nhân hoặc các tổ chức có nhu cầu về vốn), hay nói cách
khác hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng là “đi vay” để cho vay. Hoạt
động của các tổ chức tín dụng đóng vai trị rất quan trọng, và được coi là trung gian
giữa cung và cầu về vốn tiền tệ của nền kinh tế.
Ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, hoạt động có tính truyền thống,
đặc trưng và chủ yếu của các tổ chức tín dụng là hoạt động tín dụng được thể hiện
dưới nhiều hình thức, trong đó có cho vay. Theo quy định tại Điều 49 Luật các tổ
chức tín dụng năm 1997 thì “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá
nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho th tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước” [11]. Trong nghiệp vụ cấp tín dụng thì hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng là hình thức cấp tín dụng phổ biến, quan trọng hàng đầu của các tổ chức tín
dụng. Vì hoạt động cho vay là nguồn cung cấp vốn trực tiếp chủ yếu cho nền kinh
tế. Mặt khác, xét về lịch sử hoạt động ngân hàng thì hoạt động cho vay được coi là
hoạt động truyền thống của các tổ chức tín dụng.
Hoạt động cho vay được hiểu là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng để đáp ứng nhu cầu về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và


đời sống. Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở hợp đồng tín dụng và tuỳ thuộc vào
tính chất nguồn vốn, đặc điểm của khoản vay mà tổ chức tín dụng quyết định cho
vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân thủ
các quy định về nguyên tắc, hình thức, thủ tục cho vay và các biện pháp bảo đảm
khả năng hoàn trả nợ vay [11].

Hay nói cách khác, cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức
tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thoả thuận, với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi [23].
Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là một trong những hoạt động
kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, vì vậy hoạt động cho vay mang đầy đủ
những đặc trưng của hoạt động kinh doanh tiền tệ, thể hiện ở những đặc trưng sau:
Thứ nhất, Đối tượng của hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt
động cho vay của tổ chức tín dụng nói riêng là tiền tệ: Trong hoạt động cho vay thì
nguồn tiền tệ này chủ yếu là do các tổ chức tín dụng đi vay để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh của mình hay nói cách khác là kinh doanh bằng vốn của người
khác. Trong Luật các Tổ chức tín dụng (Điều 20) quy định hoạt động tín dụng của
tổ chức tín dụng được thực hiện trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy
động. Một trong những điểm cần lưu ý là hoạt động huy động vốn của các tổ chức
tín dụng được pháp luật cho phép huy động vốn cao hơn nhiều vốn tự có của tổ
chức tín dụng mà khơng cần áp dụng bất cứ một biện pháp bảo đảm nào cho việc
“đi vay” đó. Thực tế này được chứng minh qua việc Ngân hàng Nhà nước quy định
về tỷ lệ bảo đảm an tồn cho các tổ chức tín dụng theo đó tổ chức tín dụng phải
duy trì tỷ lệ tối thiểu bằng 8% vốn tự có so với Tài sản “Có” [21]. Vì vậy, hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ
nói chung là hoạt động đặc thù của các tổ chức tín dụng.


Thứ hai, Hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng nói riêng là hoạt động có tính rủi ro cao: Rủi ro đầu tiên phụ
thuộc vào đối tượng của hoạt động kinh doanh tiền tệ như nêu ở trên. Tuy nhiên,
tính rủi ro khơng chỉ dựa vào đặc trưng về đối tượng mà nó cịn phụ thuộc vào khả
năng kiểm soát các khoản vay. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt
động “đi vay” để cho vay. Trên thực tế, nhu cầu về vốn của khách hàng là rất đa
dạng, thể hiện ở việc tổ chức tín dụng cho khách hàng vay với rất nhiều loại thời
hạn như vay ngắn hạn, vay trung hạn, vay dài hạn. Khoản vay có thời hạn càng dài

thì tính rủi ro càng cao. Khi những người có nguồn tiền nhàn rỗi gửi tiền vào các tổ
chức tín dụng thì họ ln trong tình trạng mất quyền quản lý trực tiếp nguồn tiền
này, và khi các tổ chức tín dụng cho vay thì bản thân tổ chức tín dụng cũng mất
quyền quản lý trực tiếp khoản tiền cho vay đó. Có thể nói rằng, khả năng kiểm sốt
các khoản vay là vấn đề khó khăn đối với tổ chức tín dụng, vì hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng có hiệu quả không chỉ dựa vào yếu tố chủ quan (việc đánh
giá năng lực của khách hàng, công tác kiểm sốt...) mà cịn dựa vào yếu tố khách
quan đó là kết quả kinh doanh của khách hàng. Kết quả kinh doanh của khách hàng
là yếu tố khó định lượng nhất trong khi xem xét cho vay của tổ chức tín dụng. Tuy
nhiên, nhiệm vụ trọng tâm và là mục tiêu hoạt động của các tổ chức tín dụng bao
giờ cũng là sử dụng vốn có hiệu quả và bảo đảm an toàn vốn.
Thứ ba, Hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng nói riêng là hoạt động mang tính hệ thống, có ảnh hưởng dây
chuyền: Với chức năng là nguồn cung ứng vốn và điều tiết vốn trong nền kinh tế,
các tổ chức tín dụng hoạt động trong một hệ thống liên kết về nghiệp vụ như cho
vay, thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác. Vì vậy, hoạt động kinh doanh tiền
tệ giữa các tổ chức tín dụng ln có mối liên hệ chặt chẽ, có ảnh hưởng khơng chỉ
trong các tổ chức tín dụng với nhau mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển chung của


nền kinh tế. Trong trường hợp, khách hàng vay không có khả năng thanh tốn nợ
sẽ tác động tới khả năng thanh tốn của các tổ chức tín dụng, vì nguồn vốn chủ yếu
mà các tổ chức tín dụng cấp tín dụng là nguồn vốn đi vay. Khi các tổ chức tín dụng
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh tốn sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động
của bản thân tổ chức tín dụng đó, đồng thời ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ
chức tín dụng khác. Chính vì tính liên kết giữa các tổ chức tín dụng mà sự yếu kém
hay sụp đổ của một tổ chức tín dụng có thể ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ
chức tín dụng khác. Khi một tổ chức tín dụng bị phá sản, bị sụp đổ sẽ gây ảnh
hưởng về tâm lý, niềm tin của những người gửi tiền, điều này dẫn đến tâm lý
hoang mang và những người gửi tiền sẽ có hành động rút các khoản vốn của mình

khơng chỉ tại chính tổ chức tín dụng đó mà cịn tại các tổ chức tín dụng khác. Tình
trạng này dẫn đến các tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết
nguồn vốn để trả nợ và có nguy cơ mất khả năng thanh tốn trong toàn hệ thống,
gây nên những hậu quả to lớn đối với nền kinh tế. Ví dụ như ở Achentina, hệ thống
ngân hàng suy sụp dẫn đến khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Như vậy có thể
thấy rằng, sự thành cơng, tính ổn định hay sự thất bại, đổ vỡ của một hay một số tổ
chức tín dụng đều có tác động đến sự an toàn của cả hệ thống tổ chức tín dụng và
cũng tương tự, nó tác động tích cực hoặc tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế [45].
Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ngoài những đặc trưng của hoạt
động kinh doanh tiền tệ nói trên, thì hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
cịn có điểm riêng để phân biệt với các hình thức cấp tín dụng khác thể hiện:
(*) Hoạt động cho vay là nghiệp vụ cấp tín dụng mang tính truyền thống lâu
đời và chủ yếu của các tổ chức tín dụng [37]. Hoạt động cho vay là hình thức cấp
vốn trực tiếp cho khách hàng đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho
tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng trực tiếp chuyển dịch nguồn vốn của mình cho
khách hàng vay trên cơ sở thoả thuận của các bên trong hợp đồng tín dụng, Tổ


chức tín dụng có quyền quyết định thời hạn cho vay dựa vào tính chất nguồn vốn
để cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn theo từng đối tượng cụ thể. Tổ chức tín
dụng quyết định chuyển nguồn vốn sau khi đã xem xét đầy đủ hồ sơ xin vay vốn và
các điều kiện, thủ tục theo quy định của pháp luật.
(*) Hoạt động cho vay có thể phân biệt với các hình thức cấp tín dụng khác
như cấp tín dụng bằng chiết khấu thương phiếu, các giấy tờ có giá khác và nghiệp
vụ bảo lãnh ngân hàng ở chỗ: Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động
cấp tín dụng trực tiếp và người đi vay trực tiếp hồn trả nợ vay. Do tính đặc thù
của hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động có tính rủi ro cao nên địi hỏi các tổ
chức tín dụng và khách hàng phải tuân thủ theo một quy trình cho vay chặt chẽ. Và
một trong những biện pháp hạn chế rủi ro là việc các tổ chức tín dụng áp dụng các
biện pháp bảo đảm tiền vay để bảo đảm khả năng thu hồi nợ của mình, đây là một

trong những công cụ quan trọng để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các
tổ chức tín dụng.
Qua nghiên cứu những đặc trưng của hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng, có thể phân biệt hoạt động cho vay thông thường trong giao dịch dân sự với
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, qua việc xem xét một số yếu tố sau:
* Về chủ thể: Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng thì bao giờ
một bên giao dịch cũng phải là tổ chức tín dụng, cịn trong hoạt động cho vay
thơng thường thì giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể là cá nhân, tổ chức với
nhau. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là hoạt động có tính nghề nghiệp
chủ yếu, thường xuyên. Vì vậy, để tiến hành hoạt động này thì các tổ chức tín dụng
phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và phải tuân thủ theo những
quy định cụ thể, nghiêm ngặt về tổ chức, bộ máy, nguyên tắc hoạt động và chịu sự
giám sát thường xuyên của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.


* Về nguồn vốn: Trong hoạt động cho vay thông thường thì nguồn vốn của
người cho vay (là một khoản tiền hay là vật) chủ yếu là vốn thuộc sở hữu của
người đó, bởi vì họ khơng có chức năng trung gian tài chính như các tổ chức tín
dụng mà họ chỉ dùng nguồn tiền của chính mình để cho vay. Nhưng đối với hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng thì nguồn vốn cho vay (chỉ là tiền tệ) chủ
yếu dựa vào nguồn vốn đi vay của các tổ chức tín dụng. Điểm này xuất phát từ
chức năng, vai trị của tổ chức tín dụng là huy động vốn để cấp tín dụng hay “đi
vay” để cho vay. Do đó, rủi ro trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng sẽ
cao hơn nhiều so với hoạt động cho vay thông thường. Trong hoạt động cho vay
thông thường, nếu người vay không trả được nợ thì rủi ro chỉ xảy ra đối với người
cho vay mà khơng ảnh hưởng tới nền kinh tế. Cịn trong hoạt động cho vay của các
tổ chức tín dụng thì rủi ro khơng chỉ ảnh hưởng tới tổ chức tín dụng đó mà cịn ảnh
hướng tới nền kinh tế, vì đặc trưng hoạt động của các tổ chức tín dụng là mang tính
hệ thống và có ảnh hưởng dây chuyền. Chính vì vậy, tổ chức tín dụng ln phải có
trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền bằng cách kinh doanh có hiệu quả

và đảm bảo an tồn nguồn vốn đi vay.
* Về mục đích cho vay: Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng bao giờ
cũng nhằm mục tiêu là thu được lợi nhuận, việc thu lợi nhuận của các tổ chức tín
dụng với mục đích bù đắp các chi phí hoạt động cũng như bảo đảm bù đắp rủi ro
trong các hoạt động khác của các tổ chức tín dụng trong đó có cả rủi ro liên quan
đến huy động vốn, nhận tiền gửi trong dân chúng. Vì vậy, xét cho cùng lợi nhuận
từ hoạt động của các tổ chức tín dụng khơng chỉ mang lại lợi ích cho chính các tổ
chức tín dụng mà cịn phục vụ cho lợi ích của người gửi tiền và lợi ích của tồn xã
hội. Trong hoạt động cho vay thơng thường thì mục đích thu lợi nhuận là do các
bên thoả thuận, không phải là mục tiêu, yếu tố bắt buộc hai bên phải đạt tới.


* Về hình thức giao kết hợp đồng: Việc cho vay của các tổ chức tín dụng và
khách hàng vay phải lập thành văn bản được thể hiện bằng hình thức hợp đồng tín
dụng. Hợp đồng tín dụng có đầy đủ những nội dung như: điều kiện vay, mục đích
sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay[23].
Trong hợp đồng vay thông thường thì hình thức giao kết của hợp đồng có thể bằng
văn bản hoặc bằng lời nói.
* Về cơ chế pháp lý điều chỉnh: Trong hoạt động cho vay thông thường, xuất
phát từ những đặc điểm của chủ thể, nguồn vốn, mục đích vay như đã nêu ở trên
mà hoạt động cho vay thơng thường ít rủi ro so với hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng. Vì vậy, cơ chế pháp lý điều chỉnh đối với hoạt động cho vay này
thường đơn giản. Còn trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, xuất phát
từ những đặc trưng của hoạt động cho vay như phân tích ở trên thì cơ chế pháp lý
điều chỉnh bao giờ cũng phải tuân theo một quy định riêng, chặt chẽ. Mặt khác,
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ln phải chịu sự giám sát của Nhà
nước thông qua cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng đó là Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Qua việc xem xét, phân tích các đặc điểm về hoạt động cho vay, mối liên hệ
của hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng với cho vay thơng thường trong giao

dịch dân sự, chúng ta có thể khái quát về hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng như sau: Hoạt động cho vay là hình thức cấp tín dụng có tính truyền thống
của các tổ chức tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng trực tiếp chuyển dịch nguồn
vốn của mình cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong một thời gian
nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Điều kiện, thủ tục và biện pháp
bảo đảm khả năng hoàn trả khoản vay được tuân thủ theo các quy định của pháp
luật.


1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng tín dụng
Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng thực chất cũng là giao dịch hợp
đồng, cụ thể là hoạt động cho vay được thể hiện dưới dạng hợp đồng tín dụng được
ký giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Có thể nói hợp đồng tín dụng là hình thức
pháp lý của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng [41].
Như phân tích ở trên về hoạt động cho vay thông thường và hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng, thì hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng vay
tài sản. Do hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là một hoạt động đặc thù,
nên hợp đồng tín dụng ngồi đặc điểm của hợp đồng vay tài sản, cịn có một số đặc
điểm riêng, cụ thể:
- Hợp đồng tín dụng bao giờ một bên tham gia hợp đồng cũng là tổ chức tín
dụng, với tư cách là bên cho vay. Cịn bên vay là các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân có nhu cầu về vốn và thoả mãn các điều kiện vay vốn (tư cách pháp lý, mục
đích sử dụng vốn vay, khả năng tài chính...) theo quy định của pháp luật.
- Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng chỉ là tiền, được xác định
bằng một số tiền cụ thể và ghi rõ trong hợp đồng. Trong trường hợp, hợp đồng tín
dụng khơng ghi rõ số tiền vay thì hợp đồng này khơng có giá trị. Đối tượng của
hợp đồng tín dụng chủ yếu là dựa vào đặc trưng của hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng, đó là thơng qua các hợp đồng tín dụng, các tổ chức tín dụng thực
hiện chức năng là trung gian tài chính đáp ứng các nhu cầu về vốn tiền tệ cho
khách hàng vay thuộc mọi thành phần kinh tế.

- Hợp đồng tín dụng bao giờ cũng được ký kết bằng văn bản. Hình thức văn
bản của hợp đồng tín dụng là điểm khác biệt so với hợp đồng vay tài sản. Bởi lẽ
khi hợp đồng tín dụng được thể hiện bằng văn bản thì có giá trị pháp lý cao hơn,
chắc chắn hơn khi giao kết bằng lời nói. Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn


bản sẽ là một minh chứng cụ thể, chính thức về quan hệ pháp lý được thiết lập
giữa bên cho vay và bên vay, là một “sợi dây” ràng buộc trách nhiệm của các bên
trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các thoả thuận trong hợp đồng, cũng như là cơ
sở cho việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hợp đồng.
- Hợp đồng tín dụng phát sinh hiệu lực ngay sau khi các bên ký kết hợp
đồng, mặc dù các bên chưa trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đã cam kết, nhưng đã phát
sinh quyền yêu cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Cụ
thể là bên vay có quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ cấp tín dụng
(chuyển giao tiền vay) theo thoả thuận trong hợp đồng. Nghĩa vụ chuyển giao tiền
vay của bên cho vay sẽ là tiền đề cho việc bên vay thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình.
- Hợp đồng tín dụng là hợp đồng ln có tính rủi ro. Tính rủi ro của hợp
đồng tín dụng bị chi phối bởi tính rủi ro của hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng. Chính vì vậy, các tranh chấp, vi phạm phát sinh từ hợp đồng này là tương
đối phổ biến.
Hiện nay chưa văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra một định nghĩa cụ thể
về khái niệm hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu quan niệm chung về
hợp đồng và những đặc điểm của hợp đồng tín dụng, có thể hiểu khái niệm về hợp
đồng tín dụng như sau: Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên
cho vay (các tổ chức tín dụng) và bên vay (tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật), nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong việc chuyển giao một số tiền từ bên cho vay sang bên
vay trong một thời hạn nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Qua nghiên cứu về hợp đồng tín dụng, có thể thấy rằng hợp đồng tín dụng là

hợp đồng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy, việc các bên trong hợp đồng tín dụng thoả
thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng là rất cần thiết,


nhằm hạn chế rủi ro khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay được thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng. Theo các quy định của pháp luật thì các bên trong
hợp đồng tín dụng có thể áp dụng các biện pháp như : thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
bằng tài sản để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay. Trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng, cụ thể là trong hợp đồng tín dụng, các biện pháp này gọi là biện
pháp bảo đảm tiền vay.
Như vậy, qua nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động cho
vay, hợp đồng tín dụng cho chúng ta thấy: Hoạt động cho vay là hoạt động chủ
yếu, quan trọng của tổ chức tín dụng. Là kênh cung cấp vốn trực tiếp cho nền kinh
tế. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn và đảm bảo an toàn nguồn vốn cho vay đồng
thời được đặt ra cho các tổ chức tín dụng. Có thể nhận thấy rằng an toàn cho vay
thể hiện ở việc các khoản vay đã, đang và sẽ thường xuyên được hoàn trả đúng hạn
với lãi suất theo đúng hợp đồng tín dụng mà công cụ then chốt là quản lý rủi ro, đa
dạng hố và bảo đảm tiền vay [38]. Vì vậy, một trong những yếu tố bảo đảm an
toàn hoạt động cho vay (cụ thể là để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng) là việc
áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng.
1.1.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các
tổ chức tín dụng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự lớn mạnh về quy mô hoạt động
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng khơng chỉ dựa
trên sự tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau. Trong mọi trường hợp, khả năng thu hồi
vốn của các tổ chức tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào việc khách hàng sử dụng vốn
vay có hiệu quả hay khơng. Vì vậy, hoạt động cho vay là hoạt động luôn gắn với
rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động kinh



doanh sẽ tất yếu dẫn đến hoạt động kinh doanh của khách hàng kém hiệu quả, bị
thua lỗ hoặc phá sản. Và theo đó hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng sẽ gặp
rất nhiều rủi ro, nguy cơ khách hàng vay vốn không trả được nợ thường xun xảy
ra đối với các tổ chức tín dụng. Vì vậy, để đảm bảo khả năng thu hồi nợ buộc các
tổ chức tín dụng ngồi việc thẩm định kỹ các dự án xin vay, trích lập dự phịng rủi
ro thì tổ chức tín dụng cịn cần áp dụng các biện pháp như thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh nhằm mục đích là động lực thúc đẩy người vay sử dụng vốn có trách nhiệm,
có hiệu quả và thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ trả nợ cho các tổ chức tín dụng
[34]; đồng thời giúp cho các tổ chức tín dụng thu hồi nợ bằng cách xử lý tài sản
đem ra bảo đảm trong trường hợp khách hàng khơng có khả năng hồn trả vốn cho
tổ chức tín dụng. Việc cho vay có bảo đảm một phần giúp tổ chức tín dụng có thể
tồn tại và phát triển, một phần tạo điều kiện mở rộng hoạt động cho vay, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội.
Có rất nhiều cách hiểu về bảo đảm tiền vay (hay bảo đảm tín dụng) trong
các từ điển chuyên ngành về tài chính, tín dụng, ngân hàng. Theo Từ điển thuật
ngữ tài chính tín dụng của Viện Khoa học tài chính, Bộ Tài chính, Nhà xuất bản tài
chính năm 1996 thì bảo đảm tín dụng là cơ sở mà dựa vào đó người cho vay có thể
thu hồi được số tiền đã cho vay trong trường hợp người vay khơng có khả năng trả
nợ [32], hay theo Từ điển tài chính ngân hàng của Viện tiền tệ tín dụng, Nhà xuất
bản ngoại văn, 1991 thì bảo đảm tín dụng là việc ngân hàng có thể nhận thế chấp
một bất động sản, hay đòi hỏi phải đem thế đồ làm tin một loại dụng cụ nào đó,
hay một chứng thư. Ngân hàng có thể chấp nhận sự bảo lãnh của người thứ ba.
Trường hợp người mắc nợ khơng tơn trọng các cam kết của mình, ngân hàng sẽ sử
dụng các bảo đảm mà họ có [21].
Và trong các bình luận nghiên cứu về bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo
đảm tiền vay (hay gọi là bảo đảm tín dụng) là những biện pháp mà các tổ chức tín


dụng áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể

xảy ra trong hoạt động cho vay của mình, cụ thể là bảo đảm cho việc thu hồi vốn
và lãi [40], hay việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay được coi là nguồn trả
nợ cuối cùng và sẽ tạo ra cho các tổ chức tín dụng ở một vị thế thứ tự ưu tiên được
thanh toán thu hồi nợ trước so với các chủ nợ khác từ những tài sản được xác định
là tài sản bảo đảm [46].
Theo các quy định của pháp luật thì thuật ngữ “Bảo đảm tiền vay” lần đầu
tiên được quy định tại Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Nghị định
178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay, theo đó
bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa
rủi ro tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Như vậy có thể thấy rằng bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay là rất
quan trọng và thông thường để bảo đảm cho khoản vay của mình thì các tổ chức tín
dụng thường yêu cầu bên vay phải thực hiện một hoặc một số biện pháp nhằm bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ vay [13].
Nghiên cứu một số quy định về bảo đảm tiền vay ở một số nước cho thấy,
việc yêu cầu có tài sản bảo đảm là thơng lệ tại các tổ chức tín dụng khi cho khách
hàng vay (Thái Lan, Malayxia, Đài Loan, Nhật Bản, Đức...). Tuỳ thuộc vào mức
độ tín nhiệm, năng lực tài chính của khách hàng, tính chất của khoản vay cũng như
đặc điểm hoạt động ngân hàng của từng nước mà các tổ chức tín dụng yêu cầu các
biện pháp bảo đảm khác nhau, điều kiện, tỷ lệ cho vay đối với giá trị tài sản bảo
đảm khác nhau. Ví dụ: pháp luật của Thái Lan quy định khoản vay có thời hạn từ 1
năm trở lên phải có tài sản bảo đảm hoặc tiền mặt ký quỹ thế chấp và tỷ lệ vốn vay
do thoả thuận nhưng trung bình khoảng 70% giá trị tài sản bảo đảm. Pháp luật của
Đài Loan quy định khi cho vay các tổ chức tín dụng có thể áp dụng các biện pháp
bảo đảm tiền vay đó là cầm cố, thế chấp, bảo lãnh (tuy nhiên khơng có quy định về


hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai) và tỷ lệ cho
vay từ 80%-90% giá trị của tài sản bảo đảm [28].
Qua nghiên cứu các quy định về bảo đảm tiền vay của Việt Nam và của một

số nước, chúng ta thấy rằng bảo đảm tiền vay là thông lệ nhưng không phải là quy
định bắt buộc đối với tổ chức tín dụng. Và có thể nói các quy định về bảo đảm tiền
vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam đã tiếp cận và
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bảo đảm tiền vay được thể hiện qua các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản bao gồm cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba
và bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng. Các biện
pháp bảo đảm này sẽ là nguồn trả nợ cuối cùng cho các tổ chức tín dụng trong
trường hợp khách hàng khơng có khả năng trả được nợ. Xét về bản chất, bảo đảm
tiền vay là một loại bảo đảm nghĩa vụ dân sự được quy định trong Bộ Luật Dân sự
với những đặc điểm như: quan hệ bảo đảm được thiết lập trên cơ sở thoả thuận của
các bên về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, mục đích
của biện pháp bảo đảm là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ các bên đã cam kết, biện
pháp bảo đảm được áp dụng có thể là bằng tài sản của người có nghĩa vụ hoặc uy
tín của người thứ ba (trong trường hợp bảo lãnh)...
Tuy nhiên do tính đặc trưng của hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
mà bảo đảm tiền vay có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay là quan hệ được thiết lập thơng qua việc thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay để
thực hiện nghĩa vụ trả nợ của một bên là các tổ chức tín dụng và một bên là khách
hàng vay. Như vậy, chủ thể của quan hệ bảo đảm tiền vay một bên phải là các tổ
chức tín dụng, một tổ chức trung gian tài chính hoạt động kinh doanh tiền tệ
chuyên nghiệp trên cơ sở đi vay để cho vay. Nhưng trên thực tế thì việc thoả thuận


trong hợp đồng này xét cho cùng tổ chức tín dụng với tư cách là bên cho vay vẫn
có ưu thế hơn thể hiện trong việc tổ chức tín dụng đưa ra các điều kiện về việc bảo
đảm tiền vay và bên đi vay thường thụ động hơn thể hiện phải đáp ứng các điều
kiện mà bên cho vay đưa ra. Có lẽ đây là một đặc điểm chịu tác động bởi những
đặc trưng của hoạt động tín dụng, các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng dựa

trên ngun tắc bình đẳng, thoả thuận nhưng cũng khơng vượt khỏi những quy
định chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực này để đạt mục tiêu đảm bảo an toàn
cho hoạt động ngân hàng và đảm bảo lợi ích của mọi người dân trong xã hội.
Thứ hai: Đối tượng của quan hệ cho vay là tiền tệ mà nguồn tiền tệ này là
do các tổ chức tín dụng đi vay để cho vay. Bảo đảm tiền vay là biện pháp để phịng
ngừa trong trường hợp khách hàng khơng có khả năng trả nợ. Tổ chức tín dụng là
“con nợ lớn nhất” đối với nền kinh tế, vì vậy, để bảo đảm an tồn cho hoạt động
của mình các tổ chức tín dụng bằng mọi biện pháp ln phải có trách nhiệm bảo
vệ quyền lợi của những người gửi tiền mà trong đó có biện pháp bảo đảm tiền vay.
Thứ ba: Dựa vào đặc điểm của hoạt động ngân hàng là hoạt động có tính rủi
ro cao vì vậy bảo đảm tiền vay được thực hiện bằng các “cơ chế bảo đảm tiền vay”
được quy định rất chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật của ngân hàng
như quy định về nguyên tắc, điều kiện tài sản nhận bảo đảm, điều kiện thủ tục,
mức cho vay...
Từ những đặc trưng của bảo đảm tiền vay cho chúng ta thấy được mục đích
của bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm hạn chế một phần tổn thất cho các tổ chức
tín dụng khi khách hàng khơng hồn trả được nợ và mục đích sâu xa hơn của bảo
đảm tiền vay đó là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, bảo vệ sự
an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng [42].


×