Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phòng, chống buôn bán người ở việt nam thực trạng và giải pháp luận văn ths pháp luật và quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.15 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HỮU QUANG

PHßNG, CHèNG BUÔN BáN NGƯờI ở VIệT NAM:
THựC TRạNG Và GIảI PHáP
Chuyờn ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hữu Quang



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Các chữ viết tắt trong luận văn
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHỊNG, CHỐNG
BN BÁN NGƯỜI .......................................................................... 7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm buôn bán người .............................................. 7

1.1.1. Khái niệm buôn bán người ................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của buôn bán người ............................................................ 11
1.2.

Vấn đề buôn bán người và bảo vệ quyền con người ..................... 18

1.2.1. Khái quát vấn đề buôn bán người và bảo vệ quyền con người
trong pháp luật quốc tế ....................................................................... 18
1.2.2. Nội dung buôn bán người xâm phạm quyền con người ..................... 23
1.3.

Hệ thống pháp luật quốc tế và các chiến lược về phịng,
chống bn bán người...................................................................... 25

1.3.1. Hệ thống pháp luật quốc tế về phòng, chống bn bán người........... 25

1.3.2. Các chiến lược về phịng, chống buôn bán người .............................. 31
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ĐẤU
TRANH PHỊNG, CHỐNG BN BÁN NGƯỜI ....................... 37
2.1.

Thực trạng pháp luật về phịng, chống bn bán người .............. 37

2.1.1. Các quy định về phịng, chống bn bán người trong Bộ luật
hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................ 37
2.1.2. Các quy định về phịng, chống bn bán người trong Luật
phịng, chống mua bán người ............................................................. 43


2.1.3. Các quy định về phịng, chống bn bán người trong các văn bản
pháp luật khác..................................................................................... 52
2.2.

Thực tiễn đấu tranh phịng, chống bn bán người ở Việt Nam ..... 58

2.2.1. Cơng tác phịng ngừa, đấu tranh chống tội phạm bn bán người
và tình hình có liên quan .................................................................... 58
2.2.2. Thực tiễn phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án .............. 61
2.2.3. Tiếp nhận, hỗ trợ tái hịa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị
bn bán ............................................................................................ 66
2.3.

Đánh giá chung, một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ............ 68

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU
TRANH PHỊNG, CHỐNG BN BÁN NGƯỜI Ở VIỆT NAM .... 72

3.1.

Dự báo tình hình tội phạm bn bán người ở Việt Nam đến năm
2020 .................................................................................................... 72

3.2.

Một số giải pháp về hoàn thiện pháp luật ...................................... 74

3.2.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về phịng, chống bn
bán người ............................................................................................ 74
3.2.2. Hồn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phịng,
chống bn bán người ........................................................................ 78
3.2.3. Hồn thiện quy định của Luật phịng, chống mua bán người ............ 80
3.3.

Một số giải pháp về nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và
tăng cường hợp tác quốc tế trong phịng, chống bn bán người .... 83

3.3.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
phịng, chống bn bán người ............................................................ 83
3.3.2. Một số giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế trong phịng, chống
bn bán người ................................................................................... 85
3.4.

Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng,
chống bn bán người...................................................................... 87


3.4.1. Giải pháp về phổ biến, tuyên truyền pháp luật về phịng, chống

bn bán người ................................................................................... 87
3.4.2. Giải pháp về tổ chức quản lý trong phịng, chống bn bán người ... 88
3.4.3. Giải pháp phòng ngừa liên quan đến nạn nhân .................................. 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BBN

:

Buôn bán người

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

MBN

:


Mua bán người

PCBBN

:

Phịng, chống bn bán người

PCMBN

:

Phịng, chống mua bán người

PNTE

:

Phụ nữ và trẻ em

QCN

:

Quyền con người

TPBBN

:


Tội phạm buôn bán người

TPMBN

:

Tội phạm mua bán người


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 2.1. Số liệu phát hiện TPMBN theo từng năm

Trang
61


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
BBN bao gồm cả phụ nữ, nam giới và trẻ em, đặc biệt là cho mục đích
tình dục khơng phải là hiện tượng mới mà đã và đang trở thành một "thực tế
phổ biến trong nhiều xã hội qua các thời kỳ lịch sử" [12, tr.147]. Trong những
thập kỷ gần đây, BBN, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em diễn biến rất phức tạp, có
chiều hướng gia tăng, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, trở thành "ngành
kinh doanh hoàn hảo" [2, tr.1] tạo ra lợi nhuận rất lớn cho những kẻ bn
người và nhóm tội phạm có tổ chức xun quốc gia.

BBN là loại tội phạm nguy hiểm, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người được Hiến pháp
và pháp luật quy định; xâm hại nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội, gây
hoang mang trong nhân dân, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, đồng thời
"xâm phạm đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta" [14,
tr.265]. Dưới góc độ QCN, BBN vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của
con người được quy định trong "Bộ luật nhân quyền quốc tế, các văn kiện cốt
lõi về nhân quyền và các công ước khác về QCN" [33, tr.231].
Nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi BBN và những diễn
biến phức tạp của loại tội phạm này, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc phòng
ngừa, trấn áp và trừng trị loại tội phạm này nhằm thực hiện đầy đủ "nghĩa vụ
của Nhà nước trong việc đảm bảo QCN" [30, tr.60]. Nhìn chung, Việt Nam
đã có nền tảng pháp lý chung và các văn bản quy phạm pháp luật quy định
tương đối cụ thể về tội phạm hóa hành vi BBN, trách nhiệm của các cơ quan
liên quan trong PCBBN. Chúng ta cũng có khung pháp luật tương đối hoàn
thiện thể hiện rõ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc ngăn ngừa, loại trừ những

1


nguyên nhân, điều kiện phát sinh loại TPBBN, đảm bảo cho mọi công dân
được hưởng thụ đến mức cao nhấ tcác QCN. Bên cạnh đó, về mặt tổ chức, bộ
máy cũng đã quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng hệ thống cơ quan
đối với hoạt động phòng ngừa, điều tra, truy tố, xét xử và trừng trị các loại tội
phạm liên quan đến BBN.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình BBN mặc dù đã được
kiềm chế những vẫn có chiều hướng gia tăng, điều đó cho thấy những nỗ
lực hiện tại là chưa đủ, cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc đấu tranh loại
bỏ loại tội phạm này.

Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Phịng, chống
bn bán người ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” là cấp thiết, có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, trước sự gia tăng và diễn biến phức tạp của
tình hình BBN, vấn đề nghiên cứu TPBBN được đặt ra cấp bách, đã có một số
cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu là:
- Các cơng trình nghiên cứu dưới dạng đề tài khoa học cấp Bộ, sách
chuyên khảo:
Đề tài “Tội mua bán PNTE qua biên giới Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp phòng ngừa” của Thượng tá Đặng Xn Khang, Phó Chánh Văn phịng
INTERPOL Việt Nam làm chủ nhiệm, hồn thành năm 2005;
“Đấu tranh phịng, chống tội phạm buôn bán PNTE” của Giáo sư, Tiến
sĩ Nguyễn Xuân Yêm, Học viện Cảnh sát Nhân dân, NXB CAND, năm 2005;
“Tăng cường năng lực cho các cơ quan tư pháp và hành pháp Phòng,
chống TPBBN ở Việt Nam”, NXB Phụ nữ, năm 2005;
“Ngăn chặn nạn buôn bán PNTE”của Trung tâm Hỗ trợ giáo dục và
nâng cao năng lực cho phụ nữ (CEPEW), NXB Hà Nội, năm 2004;

2


“Những điều cần biết về PCBBN đặc biệt là PNTE” của Phan Thị Hòa,
Lê Phương Thúy, Lê Tường Vân, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hà Nội,
năm 2003;
“Hoạt động điều tra các vụ án buôn bán PNTE” của Nguyễn Văn Cảnh,
Nguyễn Hồng Minh, NXB CAND, năm 2007;
- Các cơng trình nghiên cứu dưới hình thức luận án, luận văn:
Luận án tiến sĩ với đề tài: Đấu tranh phòng, chống tội mua bán phụ nữ
ở Việt Nam, của tác giả Nguyễn Văn Hương (bảo vệ tại Trường Đại học Luật

Hà Nội, năm 2008);
Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Đấu tranh phòng, chống tội mua bán
PNTE ở Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”, của tác giả Trần
Văn Thạch (bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002);
Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Đấu tranh phịng, chống tội phạm bn
bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Quyết Thắng (bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006).
- Các bài viết trên các báo, tạp chí:
“Cần từng bước hồn thiện pháp luật về Phịng, chống tội phạm bn
bán PNTE” của Lương Thanh Hải, Tạp chí Tịa án Nhân dân, năm 2006;
“Phịng, chống tội phạm bn bán PNTE trong giai đoạn hiện nay” của
Lương Thanh Hải, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, năm 2006;
Chuyên đề “Đẩy mạnh công tác phịng ngừa, đấu tranh chống
TPMBN”, Tạp chí Cơng an Nhân dân, Hà Nội, năm 2011.
Các cơng trình nghiên cứu, các bài báo khoa học trên đã cung cấp hệ
thống tri thức, các thông tin về PCBBN, là nguồn tài liệu quan trọng góp phần
làm rõ tình hình, tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này. Tuy nhiên, chưa
có cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ, tồn diện về PCBBN ở Việt Nam
dưới góc độ QCN. Luận văn này góp phần bổ sung những nghiên cứu về vấn

3


đề BBN ở Việt Nam, trong đó tập trung vào một số khía cạnh mà các cơng
trình nghiên cứu hiện nay chưa làm rõ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là hệ thống pháp luật, lý luận, thực tiễn về
PCBBN của quốc tế và Việt Nam dưới góc độ QCN.
- Phạm vi nghiên cứu: BBN là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong khuôn khổ của luận văn cao học, chúng

tôi chủ yếu tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt
Nam, so sánh với pháp luật quốc tế và thực tiễn đấu tranh PCBBN dưới góc
độ QCN, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống loại tội
phạm này ở nước ta.
Về thời gian, nghiên cứu giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 6/2013 trong
đấu tranh PCBBN ở Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ thực trạng PCBBN ở Việt Nam từ năm
2008 đến tháng 6/2013, từ đó đưa ra những giải pháp phịng, chống có hiệu
quả loại tội phạm này dưới góc độ QCN.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về PCBBN: Khái niệm, đặc điểm, so
sánh với các khái niệm có liên quan, vấn đề BBN và bảo vệ QCN, hệ thống
pháp luật quốc tế và các chiến lược và PCBBN.
- Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam về
PCBBN trong mối tương quan so sánh với pháp luật quốc tế về vấn đề này và
thực tiễn đấu tranh PCBBN ở Việt Nam từ năm 2008 đến tháng 6/2013.
- Tổng kết lý luận, thực tiễn, dự báo tình hình, luận văn đề xuất những
giải pháp nâng cao hiệu quả PCBBN ở Việt Nam trong thời gian tới.

4


5. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Là cơng trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện
về PCBBN ở Việt Nam từ năm 2008 đến tháng 6/2013 nên kết quả của luận
văn có những nội dung được coi là mới, có đóng góp về mặt lý luận và thực
tiễn, cụ thể là:
- Phân tích đánh giá có hệ thống pháp luật thực định về PCBBN trên cơ
sở so sánh với hệ thống luật pháp quốc tế về vấn đề này.

- Khảo sát, đánh giá thực tiễn đấu tranh PCBBN giai đoạn từ năm 2008
đến tháng 6/2013.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế.
- Dự báo tình hình, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
PCBBN trong thời gian tới.
Với kết quả nghiên cứu như trên, luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành pháp luật về
QCN ở các cơ sở đào tạo pháp luật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và các phương pháp nghiên cứu cơ
bản của khoa học xã hội, gồm: tổng hợp, phân tích và so sánh.
- Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước
về tội phạm và hình phạt, về đấu tranh PCBBN, đồng thời tiếp thu những tiêu
chuẩn pháp lý quốc tế được thừa nhận về PCBBN.

5


- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
điều tra, khảo sát, tổng kết kinh nghiệm... để chọn lọc tri thức khoa học và
những kinh nghiệm thực tiễn từ trước cho đến nay ở trong và ngoài nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn chia

làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về phòng, chống buôn bán người.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn đấu tranh phịng, chống
bn bán người
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng,
chống bn bán người ở Việt Nam.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ PHỊNG, CHỐNG BN BÁN NGƯỜI
1.1. Khái niệm, đặc điểm buôn bán người
1.1.1. Khái niệm buôn bán người
Đến tháng 12 năm 2000, thuật ngữ BBN chưa được định nghĩa chính
thức trong pháp luật quốc tế, mặc dù nó đã được xác định là một"vấn đề pháp
lý quốc tế cách đây hơn một thế kỷ" [39, tr.63]. Trong lịch sử, thuật ngữ BBN
được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau để đáp ứng nhu cầu của từng tổ
chức và từng cơ chế phát triển định nghĩa.
Công ước quốc tế đầu tiên hình sự hóa hành vi buôn bán nô lệ da trắng ký
kết tại Paris ngày 18/5/1904 đã đưa ra thuật ngữ "nô lệ da trắng"(White Slavery)
[19] để chỉ nạn nhân bị buôn bán là phụ nữ hoặc trẻ em gái với mục đích mại
dâm. Năm 1910, tiế p tu ̣c có một công ước quố c tế được ký kết tại Parisđã đưa ra
định nghĩa về BBN là: "Bất cứ ai, để thỏa mãn niềm đam mê của người khác, có
gian lận, hoặc bằng phương tiện bạo lực, đe dọa, lạm dụng quyền hạn, hoặc
phương pháp nào khác ép buộc, mua sắm, dụ dỗ hoặc dẫn đi một người phụ nữ
hoặc cô gái ở độ tuổi chưa thành niên với mục đích mại dâm" [18].
Cho đến thời điểm trước năm 1949, các công ước chỉ thống nhất được
vấn đề BBN có liên quan đến việc ép buộc PNTE gái da trắng ở nước ngoài

với mục đích mại dâm.Theo đó, "việc tạm giữ một phụ nữ hoặc cơ gái trong
một nhà chứa được coi nằm ngồi phạm vi của công ước" [39, tr.37].
Năm 1949, Liên Hợp Quốc đã thông qua "Công ước về trấn áp việc
BBN và bóc lột mại dâm người khác" [24]. Tuy nhiên, cơng ước khơng xác
định BBN là gì và khơng có bất kỳ tài liệu chính thức nào phục vụ đàm phán
để làm cho các bên hiểu rõ hơn về khái niệm BBN, mà chỉ đòi hỏi các quốc
gia trừng phạt bất kỳ người nào, để thỏa mãn niềm đam mê của người khác,

7


mà: (1) Môi giới, dụ dỗ hoặc dẫn dắt một người khác nhằm mục đích mại
dâm, thậm chí với sự đồng ý của người đó; (2) Bóc lột mại dâm người khác,
thậm chí với sự đồng ý của người đó. Công ước cũng yêu cầu các quốc gia ký
kết trừng phạt những người liên quan trong việc tổ chức hay quản lý, tài trợ
hoặc tham gia vào việc tài trợ cho một nhà chứa mại dâm; cố ý cho thuê hoặc
đi thuê một ngôi nhà hoặc một địa điểm khác hoặc bất kỳ một phần địa điểm
như vậy để sử dụng vào mục đích mại dâm. Như vậy, theo cơng ước của Liên
Hợp Quốc năm 1949 thì BBN là hành vi bn bán phụ nữ vì mục đích mại
dâm, khơng bao gồm hành vi buôn bán đàn ông.
Năm 1994, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa trong
một nghị quyết về BBN, nó được coi là việc đưa người bất hợp pháp và bí
mật qua biên giới quốc gia hoặc quốc tế với mục tiêu cuối cùng buộc PNTE
gái phải bán dâm, lao động cưỡng bức hoặc hôn nhân giả, bắt buộc nhận con
nuôi.Năm 1994, Tổ chức di dân quốc tế (IOM) định nghĩa BBN trong một
báo cáo: đưa người di cư bất hợp pháp được coi là buôn bán nếu điều kiện sau
đây được đáp ứng: (1) tiền (hoặc một hình thức thanh tốn) trao đổi qua tay,
(2) người hỗ trợ (buôn) tham gia, (3) vượt qua một cửa khẩu quốc tế, (4) nhập
cảnh bất hợp pháp; (5) việc di chuyển là tự nguyện.
Như vậy, quá trình phát triển các định nghĩa về BBN trong trong các

văn kiện pháp lý quốc tế đã trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu, các định
nghĩa thường đồng nghĩa BBN với bn bán phụ nữ nhằm mục đích mại dâm.
Sau đó, định nghĩa được sử dụng để mơ tả hành vi vận chuyển người di cư là
nam giới và nữ giới qua biên giới nhằm mục đích kinh tế. Đó là những cách
hiểu hạn chế, thể hiện việc phát triển định nghĩa của những tổ chức và cơ chế
khác nhau với những cách tiếp cận chưa toàn diện, chưa đúng phản ánh đúng
bản chất của hành vi BBN.
Ở Việt Nam, dưới góc độ khoa học luật hình sự, Tiến sỹ Phạm Văn Beo

8


định nghĩa “MBN là hành vi của một người coi con người như hàng hóa để
mua bán, trao đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác” [4, tr.168]. Quan điểm
này chưa thật đầy đủ vì mới chỉ nêu MNB với tư cách là hành vi phạm tội
trong mặt khách quan của tội phạm MBN. Tiến sỹ Trần Minh Hưởng cho
rằng: “Tội MBN thể hiện ở hành vi dùng tiền hoặc các lợi ích vật chất khác
mua bán, trao đổi con người như một thứ hàng hóa” [13, tr.252]. Quan điểm
này cũng chưa làm rõ các yếu tố khách thể, chủ thể, dấu hiệu lỗi của tội phạm.
Tiế n sỹ Trinh
̣ Tiế n Việt đưa ra định nghĩa:
Tội MBN là hành vi dùng tiền hoặc các lợi ích vật chất khác
mua, bán, trao đổi con người từ đủ 16 tuổi trở lên như một thứ hàng
hóa, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến danh dự,
nhân phẩm, quyền tự do thân thể của con người được Hiến pháp và
pháp luật bảo vệ [37, tr.209].
So với hai quan điểm nêu trên, quan điểm này toàn diện hơn cả.
Tuy nhiên, quan điểm của các học giả Việt Nam như trên vẫn có những
hạn chế, đó là chỉ dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm BBN được quy định

tại Điều 119 và Điều 120 BLHS để định nghĩa về hành vi BBN. Cách tiếp cận
vấn đề như vậy chưa toàn diện,cần phải định nghĩa theo cách tiếp cận cấp
quốc gia. Theo hướng đó, định nghĩa sẽ hỗ trợ các nước hợp tác quốc tế một
cách có hiệu quả trong điều tra, truy tố các vụ án BBN. Ngoài ra, định nghĩa
cũng phải hướng tới mục tiêu quan trọng hơn, đó là tạo điều kiện để các quốc
gia hợp tác trong bảo vệ QCN của nạn nhân và người thân thích của họ trong
đấu tranh PCBBN.
Cho đến thời điểm hiện tại, định nghĩa BBN được ghi nhận tại Điều 3,
Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc BBN, đặc biệt là
PNTE, bổ sung Công ước của Liên Hợp Quốc chống tội phạm có tổ chức

9


xuyên quốc gia, 2000 (Nghị định thư về chống BBN) được cộng đồng quốc tế
thừa nhận là toàn diện và đầy đủ nhất. Theo đó:
(a) “BBN” được hiểu là “việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển
giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe
dọa dùng bạo lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man
trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc
cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một
người kiểm sốt đối với người khác vì mục đích bóc lột. Hành vi
bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc
các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch
vụ cưỡng bức, nơ lệ hay các hình thức tương tự như nô lệ, khổ sai
hay lấy các bộ phận cơ thể.
(b) Việc một nạn nhân bị buôn bán chấp nhận sự bóc lột có
chủ ý được nêu tại Khoản (a) trên đây sẽ khơng được tính đến nếu
bất kỳ một cách thức nào nêu trong Khoản (a) đã được sử dụng.
(c) Việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay

nhận trẻ em nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là BBN ngay cả khi
việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ một cách thức
nào được nói tại Khoản (a) trên đây.
(d) Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi [32, tr.1053].
Như vậy, với cách định nghĩa như trên, Nghị định thư đã khẳng định
phạm vi áp dụng của nó. Đồng thời Cơng ước chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia được áp dụng với các hành vi BBN đã cung cấp cơ sở chung
cho việc quy định các tội phạm hình sự ở quốc gia, các thủ tục tố tụng, các
biện pháp hỗ trợ và trợ giúp nạn nhân. Định nghĩa BBN được chia thành ba
yếu tố gồm: hành vi, phương thức và mục đích. Với việc đưa ra thuật ngữ lao
động cưỡng bức, nô lệ, tương tự nô lệ, Nghị định thư đã tránh được xu hướng

10


hạn chế định nghĩa BBN đối với các vụ việc liên quan đến dịch vụ tình dục
mà có thể dễ dàng nhận ra các dạng BBN bao gồm: BBN để bóc lột tình dục,
cưỡng bức lao động, lấy đi các bộ phận cơ thể... thậm chí cịn chỉ ra được phụ
nữ và trẻ em dễ trở thành nạn nhân bị bn bán. Tóm lại, cho đến thời điểm
hiện tại, đây là định nghĩa toàn diện và đầy đủ nhất, được cộng đồng quốc tế
thừa nhận và từng bước được đưa vào nội luật của các quốc gia.
1.1.2. Đặc điểm của bn bán người
Từ định nghĩa về BBN, có thể rút ra một số đặc điểm của loại tội phạm
này như sau:
Một là, về mặt khách quan, hành vi BBN là việc thực hiện một trong
các hành vi: tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, tiếp nhận đối
tượng bị buôn bán.
Tuyển mộ là những hoạt động hướng tới việc tuyển người theo thỏa
thuận, được thể hiện dưới hình thức lựa chọn, tìm kiếm ứng cử viên, ghi tên
những người mong muốn... Đây là thời điểm những người tuyển dụng thực

hiện sự tiếp xúc đầu tiên với nạn nhân, đưa ra những lời hứa hẹn để đạt được
mục đích. Việc tuyển mộ trẻ em được diễn ra trong hoàn cảnh khác, những kẻ
buôn người tuyển mộ trẻ em ở độ tuổi còn nhỏ, khi chúng sống với cha mẹ.
Lợi dụng sự nghèo đói,thiếu hiểu biết hoặc hồn cảnh đặc biệt khó khăn của
gia đình đứa trẻ, những kẻ bn người có thể đề nghị ứng trước cho cha mẹ
đứa trẻ tiền lương của chúng hoặc có thể gây sức ép dưới hình thức nào đó để
giành được quyền kiểm sốt đứa trẻ và cuối cùng là bán, hoặc trực tiếp bóc lột
những đứa trẻ này.
Vận chuyển có nghĩa là di chuyển người từ địa điểm này sang địa điểm
khác bằng bất kỳ phương tiện nào. Việc di chuyển này không nhất thiết phải
qua biên giới quốc gia, mà chỉ cần đưa người đó (nạn nhân) ra khỏi nơi họ
sinh sống đến nơi khác. Những phương thức vận chuyển có thể là:di chuyển

11


nạn nhân từ một quốc gia bằng con đường lậu; di cư bất hợp pháp; di chuyển
bất hợp pháp dưới toa tàu chở hàng, ẩn náu trong xe chở hàng; đi du lịch bằng
giấy tờ và hộ chiếu hợp pháp của mình; di chuyển bằng giấy tờ ăn cắp hoặc
giấy tờ giả do những kẻ tuyển mộ cung cấp; di chuyển bằng đường bộ, đường
khơng, đường thủy, thậm chí bằng phương tiện cá nhân của mình.
Chuyển giao là hành động giao cho những người khác người bị buôn
bán (nạn nhân) sau khi diễn ra việc mua, bán người đó. Chuyển giao cịn có
thể được thực hiện dưới hình thức biếu, tặng, cho.
Chứa chấp là việc che dấu người bị buôn bán sau khi việc mua bán đã
được tiến hành thành công.
Tiếp nhận là việc thực hiện hành động nhận người (nạn nhân), có tính
đáp trả lại hành động chuyển giao.
Hai là, về phương thức, thủ đoạn là đe dọa, sử dụng bạo lực, ép buộc,
bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương của nạn

nhân; cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người
kiểm soát đối với người khác. Phương thức thực hiện tội phạm BBN rất đa
dạng, có thể được thực hiện bởi người sử dụng địa vị cơng vụ của mình; bằng
việc vận chuyển nạn nhân qua biên giới quốc gia và giữ người bất hợp pháp ở
nước ngoài; sử dụng các giấy tờ giả; sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;
bằng những hình thức gây nguy hiểm cho tính mạng và sức khỏe của nạn
nhân...Về thủ đoạn, các thủ đoạn thực hiện hành vi BBN cũng vô cùng đa
dạng như: dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực tác động đến thân thể nạn
nhân; cưỡng bức về tâm lý; đe dọa nạn nhân (đe dọa làm hại những người
thân thích của nạn nhân, dọa tiết lộ những thơng tin bí mật đời tư của nạn
nhân...); tước đoạt tự do của nạn nhân; thu và giữ giấy tờ; khai thác sự phụ
thuộc do nợ nần; hạn chế tự do đi lại, liên lạc với người thân; lừa dối...
Ba là, về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi BBN phải có mục đích

12


bóc lột nạn nhân. Bóc lột được hiểu theo nghĩa rộng là khai thác sức lao động,
khai thác chính bản thân nạn nhân hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể nạn
nhân. Các hình thức bóc lột ở mức độ thấp nhất bao gồm: (1) Bóc lột mại dâm
hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác; (2) Các hình thức lao động hay dịch
vụ cưỡng bức; (3) Các hình thức nơ lệ hay tương tự nơ lệ như khổ sai; và (4)
Lấy đi các bộ phận cơ thể.
Bốn là, người bị hại là con người nói chung (nữ giới hoặc nam giới).
Năm là, với đối tượng bị buôn bán là trẻ em, chỉ cần có các hành vi
tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận trẻ em (là những
người dưới 18 tuổi) nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là BBN, khơng cần tính
đến việc sử dụng bất kỳ phương thức, thủ đoạn nào.
Sáu là,về sự ưng thuận của nạn nhân: Một trong những vấn đề rất
quan trọng trong xử lý các vụ BBN là phải làm rõ nạn nhân có ưng thuận

để bị đưa đi trái phép hoặc bị buôn bán hay không. Điều này làm nảy sinh
vấn đề mang tính thực tiễn là: trong các vụ án BBN, những kẻ buôn người
bị buộc tội thường đưa ra những chứng cứ về sự ưng thuận của nạn nhân để
bào chữa cho hành vi phạm tội của chúng. Trong nhiều vụ BBN, mặc dù có
sự ưng thuận hoặc hợp tác ban đầu giữa nạn nhân và bọn BBN, nhưng sau
đó chúng thực hiện hành vi cưỡng bức, lạm dụng và bóc lột nạn nhân. Về
vấn đề này, Điều 3, đoạn (b) Nghị định thư về chống BBN quy định: vấn
đề ưng thuận của nạn nhân khơng có quan hệ gì một khi các phương thức,
thủ đoạn bất hợp pháp được thực hiện. Bất cứ sự ưng thuận ban đầu nào
cũng bị vô hiệu bởi nếu những kẻ buôn người sử dụng các phương thức,
thủ đoạn bất hợp pháp ở một số điểm trong quá trình thực hiện hành vi
BBN. Bên cạnh đó, Nghị định thư cũng loại trừ bất cứ sự ưng thuận nào có
thể xảy ra đối với nạn nhân là trẻ em dưới 18 tuổi để bị buôn bán.Như vậy,
theo Nghị định thư, sự ưng thuận có thể có cơ sở, nhưng hồn toàn phải

13


khơng có các phương thức, thủ đoạn bất hợp pháp nào được sử dụng. Mặc
dù sự ưng thuận ban đầu của nạn nhân có giá trị nhưng sau đó cịn được
duy trì ở tất cả các giai đoạn tiếp theo hay khơng. Nếu sự ưng thuận đó
khơng tồn tại hoặc bị vơ hiệu ở bất cứ giai đoạn nào thì đó là hành vi BBN,
nếu sự ưng thuận được duy trì, thì đó khơng phải là hành vi BBN.
Bảy là, về các hình thức BBN, thực tế cho thấy các hình thức BBN rất
đa dạng.Theo các cơng trình nghiên cứu, khảo sát tin cậy, căn cứ vào mục
đích BBN có thể phân loại như sau:
(1) BBN, đặc biệt là PNTE với mục đích bóc lột tình dục. Mục đích là
để tổ chức mại dâm ở các địa điểm dân sự, những nơi có hoạt động quân sự
hoặc doanh trại quân đội; tổ chức các hình thức du lịch - mại dâm (sex tour)
hoặc để làm các ấn phẩm khiêu dâm, đặc biệt là sử dụng cả trẻ em nam và nữ.

(2) BBN với mục đích bóc lột lao động theo kiểu nô lệ. Được tiến hành
dựa trên nền tảng kinh tế khơng chính thức, kinh tế ngầm để sản xuất đồ chơi,
quần áo... trong những điều kiện khắc nghiệt, trong chế độ làm việc dây
chuyền, với mục đích sản xuất các sản phẩm lậu như băng đĩa nhạc, rượu, làm
các cơng việc gia đình; trong lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh nhà
hàng, khách sạn, trong vận tải đường thủy, bốc dỡ hàng hóa, thu mua cá;
trong ngành xây dựng và chế biến lâm sản; trong lĩnh vực nông nghiệp; đối
với trẻ em là những công việc như rửa xe, trộm cắp...
(3) BBN, đặc biệt là trẻ em và người tàn tật với mục đích đi ăn xin.
(4) BBN vì mục đích hơn nhân bóc lột nhằm mục đích sử dụng trong
các cơng việc nội trợ, mang thai bắt buộc và sinh con hoặc nhằm phục vụ
người bệnh, người già hoặc trẻ em.
(5) BBN để cấy ghép bộ phận cơ thể và mơ.
(6) BBN với mục đích làm mẹ thay thế, dùng để tái tạo chức năng.
(7) Buôn bán trẻ em mới đẻ với mục đích nhận con nuôi trái pháp luật.

14


(8) BBN với mục đích xây dựng lực lượng vũ trang.
Để làm rõ hơn khái niệm BBN, cần so sánh nó với một số khái niệm có
liên quan như khái niệm "MBN" và khái niệm "đưa người di cư trái phép".
Về vấn đề so sánh khái niệm"BBN" với khái niệm "MBN" trong pháp
luật Việt Nam, pháp luật thực định của Việt Nam hiện nay không sử dụng
thuật ngữ "BBN" mà sử dụng thuật ngữ "MBN". MBN được hiểu là “coi
người như một loại hàng hóa để trao đổi bằng tiền hoặc lợi ích vật chất
khác” [6, tr.1] và “MBN là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất
khác để trao đổi người (từ đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa”[34,
tr.1]. Như vậy, khái niệm MBN của Việt Nam mặc dù có một số điểm giống
với khái niệm BBN, nhưng vẫn còn nhiều điểm khác nhau, cụ thể như sau:

Một là, về hành vi: Khái niệm MBN chỉ bao gồm 2 loại hành vi mua và
bán, không bao gồm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa
chấp và nhận người - là những hành vi xảy ra trong tồn bộ q trình BBN.
Pháp luật Việt Nam quy định hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao,
chứa chấp và tiếp nhận là "hành vi giúp sức và tạo điều kiện cho việc MBN, là
những hành vi đi liền trước hành vi MBN" [13, tr.253].
Hai là, về phương thức: Khái niệm MBN không đề cập đến phương
thức hiện hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, thủ đoạn phạm tội khơng phải
là yếu tố bắt buộc cấu thành TPMBN. Người phạm tội chỉ cần có hành vi
dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi lấy người là cấu thành tội
MBN, kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn đồng ý với việc mua bán.
Trong khi đó, Nghị định thư về chống BBN quy định các hành vi nói trên
phải được thực hiện theo các phương thức, thủ đoạn như: đe dọa sử dụng, sử
dụng bạo lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng
quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay
lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với những

15


người khác. Trong trường hợp đối tượng bị xâm hại là trẻ em thì khơng cần
tính đến việc bọn tội phạm có sử dụng hay khơng các thủ đoạn như trên,
TPBBN vẫn cấu thành nếu có hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao,
chứa chấp, tiếp nhận trẻ em nhằm mục đích bóc lột.
Ba là, về mục đích “để bóc lột”: Theo Điều 3 Nghị định thư về chống
BBN, mục đích “để bóc lột” là một trong những yếu tố bắt buộc cấu thành
khái niệm BBN. Trong khi đó, theo pháp luật hình sự Việt Nam thì chỉ cần có
hành vi coi người như một loại hàng hóa để trao đổi bằng tiền hoặc lợi ích vật
chất khác là đủ điều kiện để cấu thành TPMBN (nếu là người dưới 16 tuổi thì
cấu thành tội mua bán trẻ em) mà khơng cần phải có mục đích “để bóc lột”.

Bốn là, về đối tượng bị buôn bán, mua bán: Theo quy định của Nghị
định thư về chống BBN và pháp luật Việt Nam, đối tượng bị buôn bán, mua
bán bao gồm cả đàn ông, PNTE. Tuy nhiên, định nghĩa “trẻ em” của pháp luật
Việt Nam là người dưới 16 tuổi, nhưng theo Nghị định thư thì trẻ em là người
dưới 18 tuổi.
Năm là, về phạm vi của khái niệm MBN và BBN: Theo báo cáo giải
trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật PCMBN người của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội: “Hành vi BBN thực chất cũng là hành vi MBN nhưng có quy mơ
lớn và được tổ chức chặt chẽ, có tính chun nghiệp cao. Khái niệm MBN
rộng hơn khái niệm BBN, theo đó khái niệm MBN bao gồm cả hành vi BBN
có tổ chức, xuyên quốc gia và các hành vi MBN đơn lẻ” [35, tr.1].
Việc phân biệt khái niệm "BBN" và "MBN" có ý nghĩa rất quan trọng,
nó cho thấy có khoảng cách khá lớn giữa quy định trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về vấn đề này để từ đó kiến nghị sửa đổi cho phù hợp.
Về so sánh khái niệm "BBN" với khái niệm "đưa người di cư trái
phép", khái niệm "đưa người di cư trái phép" được quy định tại Điều 3 Nghị
định thư về chống đưa người di cư trái pháp luật bằng đường bộ, đường biển

16


và đường không, bổ sung Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia (Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép).
Đưa người di cư trái phép được hiểu là: "Việc giao dịch để đạt được trực tiếp
hoặc gián tiếp lợi ích về tài chính hoặc lợi ích vật chất khác từ việc một người
nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thành viên mà người này không phải là
công dân của quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc gia đó" [31, tr.1071].
Như vậy, "BBN" và "đưa người di cư trái phép" đều là hành vi bất hợp
pháp, được thực hiện bởi các nhóm tội phạm, thường là tội phạm có tổ chức,
xuyên quốc gia; đều có hành vi vận chuyển, chuyển giao, đưa một người vượt

qua biên giới quốc gia trái phép và đều hướng tới mục đích thu lợi nhuận. Tuy
nhiên, có giữa chúng có những điểm khác nhau là: (1) Về sự đồng tình của
nạn nhân: đưa người di cư trái phép được thực hiện với sự đồng ý của người
di cư. Trong khi đó, các nạn nhân của BBN không bao giờ đồng ý với việc họ
bị buôn bán hoặc nếu ban đầu họ đồng ý thì sự đồng ý này vơ nghĩa vì nó đạt
được bằng các thủ đoạn của những kẻ buôn người. (2) Về mục đích “để bóc
lột”: đưa người di cư trái phép kết thúc bằng việc người nhập cư đến được địa
điểm thỏa thuận, sau đó họ đi đâu, làm gì tùy ý. Người phạm tội thu lợi nhuận
trực tiếp từ việc đưa được người di cư đến địa điểm thỏa thuận. Trong khi đó,
BBN được tiếp tục với sự bóc lột nạn nhân để tạo ra những nguồn lợi nhuận
bất hợp pháp cho những kẻ phạm tội hoặc băng nhóm tội phạm có tổ chức,
xun quốc gia. (3) Về tính chất xuyên quốc gia: đưa người di cư trái phép
luôn là hoạt động xuyên biên giới quốc gia, trong khi đó, BBN có thể khơng
như vậy. BBN có thể dẫn đến việc đưa người qua biên giới quốc gia hoặc có
thể chỉ là đưa người từ nơi này sang nơi khác ở trên cùng một quốc gia.
Việc phân biệt BBN và đưa người di cư trái phép có vai trị rất quan
trọng trong việc xác định tội danh và đấu tranh với bọn tội phạm, vì TPBBN
là loại tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người, có khung hình

17


phạt cao hơn nhiều so với tội đưa người di cư trái phép - là loại tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, phân biệt BBN và đưa
người di cư trái phép cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện và áp
dụng những biện pháp hỗ trợ nạn nhân của tội BBN.
1.2. Vấn đề buôn bán người và bảo vệ quyền con người
1.2.1. Khái quát vấn đề buôn bán người và bảo vệ quyền con người
trong pháp luật quốc tế
"QCN là những đảm bảo pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá

nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người" [45,
tr.34]. Bên cạnh đó, QCN cịn được định nghĩa khái quát là những quyền bẩm
sinh, vốn có của con người mà nếu khơng được hưởng thì chúng ta sẽ khơng
thể sống như một con người. Ở Việt Nam:
Có nhiều định nghĩa về QCN do một số chuyên gia, cơ quan
nghiên cứu nêu ra, mặc dù có nhiều điểm khơng hồn tồn giống
nhau, nhưng xét chung thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích
tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế [26].
Bảo vệ QCN là bảo vệ nhân thân, các quyền và tự do cơ bản của con
người. Trách nhiệm bảo vệ QCN thuộc về nhà nước bằng cách chủ động đưa
ra những biện pháp và xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý sự vi
phạm nhân quyền của các chủ thể vi phạm.
Như vậy, QCN và bảo vệ QCN là vấn đề được cộng đồng quốc tế đặc
biệt quan tâm. QCN là sự kết tinh những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa của
nhân loại, được hình thành với sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc,
giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên trái đất. Kể từ khi Liên Hợp Quốc
được thành lập đến nay, QCN đã được quy định cụ thể trong hàng trăm văn

18


×