Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tiếp nhận luật la mã trong việc xây dựng chế định vật quyền ở việt nam hiện nay chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự 60 38 01 03

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.14 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THU TRANG

TIẾP NHẬN LUẬT LA MÃ TRONG VIỆC
XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH VẬT QUYỀN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THU TRANG

TIẾP NHẬN LUẬT LA MÃ TRONG VIỆC
XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH VẬT QUYỀN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học:PGS.TS NGUYỄN THỊ QUẾ ANH

Hà Nội – 2017

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thu Trang

iii


MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẬT QUYỀN
TRONG LUẬT TƢ LA MÃ VÀ SỰ TIẾP NHẬN VẬT QUYỀN TRONG
PHÁP LUẬT DÂN SỰ: ....................................................................................... 9

1.1. Khái quát chung về Luật tƣ La Mã: ........................................................... 9
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Luật La Mã: ................................................................. 9
1.1.2. Hệ thống luật tƣ La Mã: .......................................................................... 10
1.1.3. Đối tƣợng điều chỉnh của Luật tƣ La Mã .............................................. 11
1.1.4. Nguồn của Luật tƣ La Mã:...................................................................... 13
1.2. Khái quát chung về vật quyền trong Luật La Mã: .................................. 16
1.2.1. Khái niệm và bản chất vật quyền: .......................................................... 16
1.2.2. Phân loại vật quyền trong Luật La Mã : ............................................... 19
1.3. Sự tiếp nhận vật quyền trong pháp luật dân sự :..................................... 22
CHƢƠNG 2 : CHẾ ĐỊNH VẬT QUYỀN TRONG LUẬT TƢ LA MÃ: ..... 25
2.1. Vật trong Luật La Mã: ............................................................................... 25
2.2. Chiếm hữu: .................................................................................................. 27
2.2.1. Khái niệm:................................................................................................. 27
Như vậy, thuật ngữ “Chiếm hữu” có thể được hiểu như sau: Chiếm hữu thực tế
đối với vật là thực tế có vật, kiểm sốt và chi phối vật đó. Trên cơ sở chiếm hữu
thực tế, hình thành sở hữu và quyền sở hữu [16; tr62]. ....................................... 29
2.2.2. Nội dung: ................................................................................................... 30
2.3. Quyền sở hữu:.............................................................................................. 34
2.3.1. Khái niệm:................................................................................................. 34
2.3.2. Nội dung: ................................................................................................... 37
2.4. Quyền đối với tài sản của ngƣời khác: ...................................................... 44
2.4.1. Khái niệm:................................................................................................. 44
2.4.2. Nội dung: ................................................................................................... 45
2.5. Quyền cầm cố: ............................................................................................. 52
2.5.1. Khái niệm:................................................................................................. 52
2.5.2. Nội dung: ................................................................................................... 55

1



CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG CHẾ
ĐỊNH VẬT QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ TIẾP NHẬN
LUẬT LA MÃ: ................................................................................................... 57
3.1. Thực trạng pháp luật về vật quyền trong BLDS Việt Nam 2015:.......... 57
3.1.1. Tài sản: ...................................................................................................... 57
3.1.2. Quyền sở hữu:........................................................................................... 58
3.1.3. Quyền đối với bất động sản liền kề: ....................................................... 62
3.1.4. Cầm cố, thế chấp: ..................................................................................... 65
3.1.5. Quyền hƣởng dụng: ................................................................................. 68
3.1.6. Quyền bề mặt: .......................................................................................... 68
3.2. Một số kiến nghị trên cơ sở tiếp nhận Luật La Mã: ................................ 70
3.2.1. Kiến nghị về khái niệm tài sản: .............................................................. 70
3.2.2. Kiến nghị về chiếm hữu: .......................................................................... 71
3.2.3. Kiến nghị về địa dịch: .............................................................................. 73
3.2.4. Kiến nghị về cầm cố, thế chấp: ............................................................... 75
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 80

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Luật La Mã là hệ thống luật gắn liền với sự ra đời và phát triển của nhà
nước La Mã, được xây dựng cách đây khoảng hơn 2000 năm. Đời sống và pháp
luật của người La Mã đã có những tác động mạnh mẽ đến xã hội châu Âu lục
địa. Các nguồn của Luật La Mã cho đến thế kỷ 19 vẫn được xem là nguồn luật
pháp quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu. Luật La Mã, đặc biệt là
các chế định trong tư pháp La Mã đã đặt nền móng vững chắc cho q trình xây
dựng luật dân sự hiện đại. Không thể phủ nhận Luật La Mã có sự ảnh hưởng rất

lớn đế n các hệ thống luật trên thế giới và việc nghiên cứu Luật La Mã có vai trị
hết sức quan trọng.
Vật quyền là một chế định cơ bản của Luật tư La Mã, có ảnh hưởng đến
hầu hết các chế định khác của luật dân sự. Khái niệm vật quyền đã tồn tại từ thời
kỳ La Mã, là một phần không thể thiếu trong hầu hết các Bộ luật Dân sự. Ngay
từ Bộ luật Napoléon (1804) - BLDS đầu tiên trên thế giới đến thời hiện đại,
BLDS của Nhật Bản, BLDS của Đức cũng đều quy định về vật quyền.
Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đã có quy định về vật quyền, cụ thể là
phần “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” tại BLDS 2015. BLDS Việt
Nam 2015 đã ghi nhận một số quyền tương tự như các quyền đối vật chính trong
luật La Mã. Thế nhưng, khái niệm vật quyền chưa được quy định chính thức.
Cũng có thể thấy các vật quyền khác ngoài quyền sở hữu ít được chú trọng đến.
Điều này có lẽ có lý do từ sự ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu bao cấp trước đây, đó là không tạo ra được tiền đề cho các loại vật
quyền khác ngoài quyền sở hữu ra đời, tồn tại và phát triển.

3


Sự thiếu vắng lý thuyết về vật quyền có thể gây ra một số khó khăn, hạn
chế trong việc áp dụng pháp luật và trong thực tiễn. Hơn nữa Việt Nam đang
trong giai đoạn đổi mới, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc
ghi nhận chế định vật quyền vào hệ thống pháp luật giúp pháp luật Việt Nam tìm
được tiếng nói chung đối với pháp luật các nước trên thế giới. Luật La Mã, đặc
biệt là chế định vật quyền của Luật La Mã là một nguồn tham khảo quan trọng
mà Việt Nam có thể sử dụng trong quá trình xây dựng chế định vật quyền.
Vì vậy, theo tác giả, nghiên cứu một cách sâu sắc, kĩ lưỡng và có hệ thống
về vật quyền trong Luật La Mã và tiếp nhận chế định này vào hệ thống pháp luật
Việt Nam là cần thiết.
Bởi các lẽ đó tác giả lựa chọn đề tài: “Tiếp nhận Luật La Mã trong việc

xây dựng chế định vật quyền ở Việt nam hiện nay” làm đề tài Luận văn thạc
sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Có thể nói rằng, Luật La Mã đặc biệt là luật tư là cội nguồn của pháp luật
rất nhiều nước trên thế giới. Đối với những nhà làm luật, những người nghiên
cứu luật pháp thì việc tìm hiểu về Luật La Mã là điều cần thiết và gần như không
thể bỏ qua. Việc nghiên cứu và giảng dạy Luật La Mã ở Việt Nam hiện nay đang
dần được quan tâm. Một số cuốn sách viế t về Luật La Mã có thể kể đến như

:

Luật La Mã của Khoa Luật trường đại học Tổng hợp Hà Nội do PTS sử học
Nguyễn Ngọc Đào biên soạn, giáo trình Luật La mã của trường Đại học Luật Hà
Nội, Giáo trình Luật La Mã của TS. Nguyễn Ngọc Điện - Trường Đại học Cần
Thơ. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu sâu về Luật La Mã, về các chế định
cụ thể trong Luật La Mã nói chung và chế định vật quyền nói riêng ở Việt Nam
là khơng nhiều. Cơng trình nghiên cứu về quyền đối vật trong thời gian gần đây

4


có thể kể đến “Quyền đối vật trong luật tư La Mã và ảnh hưởng đối với pháp luật
Việt Nam hiện hành” của Lê Thị Liên Hương - Luận văn thạc sĩ luật học bảo vệ
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010, trong đó tập trung nghiên
cứu về ảnh hưởng của Luật La Mã đến các quy định pháp luật về vật quyền trong
BLDS Việt Nam 2005.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
3.1. Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu vật quyền trong Luật La
Mã, đồng thời xem xét một cách khái quát về chế định tương tự của pháp luật

Việt Nam hiện hành, chỉ ra một số điểm chưa thực sự hợp lý trong luật Việt
Nam. Trên cơ sở đó nêu ra một số kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện chế
định vật quyền ở Việt Nam.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu tổng quát, luận văn có các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể dưới đây:
- Nghiên cứu khái quát về nhà nước La Mã và Luật La Mã cụ thể là hoàn
cảnh xuất hiện Luật La Mã, khái niệm Luật La Mã, hệ thống Luật La Mã, các
loại nguồn của Luật La Mã;
- Nghiên cứu chế định vật quyền trong Luật tư La Mã, đi sâu làm rõ các
vấn đề liên quan đến vật quyền trong Luật La Mã bao gồm các quy định về vật,
về quyền chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền đối với tài sản của người khác;
- Phân tích và đánh giá thực trạng về chế định tương tự trong pháp luật
dân sự của Việt Nam hiện hành;

5


- Nêu sự cần thiết xây dựng chế định vật quyền cũng như một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về vật quyền ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở tiếp nhận chế
định vật quyền trong Luật La Mã.
4 . Tính mới và những đóng góp của đề tài:
Luận văn nghiên cứu , phân tích các quy định có liên quan đế n vật quyền
trong luật pháp La Mã.
Đồng thời luận văn cịn tìm hiểu các quy định có liên quan đế n vật quyền
được quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành (BLDS 2015), từ đó
chỉ ra một số hạn chế của những quy định pháp luật về vật quyền trong Bộ luật
dân sự Việt Nam 2015, nhằm đưa ra kiến nghị hoàn thiện chế định vật quyền
trong Bộ luật này trên cơ sở kế thừa Luật La Mã.
Luận văn có ý nghĩa thiết thực, là nguồn tài liệu cho mọi người tham khảo

khi tìm hiểu về vật quyền nói chung và Luật La Mã nói riêng trong điều kiện các
tài liệu nghiên cứu sâu Luật La Mã bằng tiế ng Việt còn chưa nhiều.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Chế định vật quyền
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Nội dung luận văn tập trung nghiên cứu
về vật quyền trong Luật La Mã và một số quy định về chế định tương tự trong
BLDS Việt Nam 2015.
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu:
6.1. Nội dung nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu chế định vật quyền trong Luật La Mã và trong BLDS
Việt Nam 2015, từ đó đánh giá và nêu ra một số giải pháp nhằm phần nào hoàn
thiện pháp luật về vật quyền.

6


6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội
và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các
phương pháp chủ yếu bao gồm: phương pháp phân loại, phương pháp phân tích
lịch sử, phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp so sánh pháp luật,
phương pháp tổng hợp.
Phương pháp phân loại: phương pháp này được sử dụng chủ yếu để phân
loại vật và các loại vật quyền trong pháp luật La Mã.
Phương pháp phân tích lịch sử: phương pháp này được sử dụng chủ yếu để
tìm hiểu tổng quát về hoàn cảnh lịch sử, xã hội của La Mã liên quan tới việc xuất
hiện Luật La Mã.

Phương pháp phân tích: phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu các
quy định pháp luật La Mã và các quy định pháp luật Việt Nam về chế định vật
quyền.
Phương pháp so sánh pháp luật: phương pháp này được sử dụng chủ yếu
để là rõ các vấn đề của pháp luật Việt Nam. Từ đó luận văn đưa ra các kiến nghị
phù hợp.
Phương pháp tổng hợp: dựa trên những phân tích, đánh giá về chế định vật
quyền trong pháp luật La Mã và pháp luật Việt Nam hiện hành, luận văn đưa ra
kết luận về sự cần thiết tiếp nhận chế định vật quyền trong luật La Mã vào hệ
thống pháp luật Việt Nam và kiến nghị về việc tiếp nhận.

7


7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề khái quát chung về vật quyền trong Luật tư La
Mã và sự tiếp nhận vật quyền trong pháp luật dân sự.
Chương 2: Chế định vật quyền trong Luật tư La Mã.
Chương 3: Kiến nghị liên quan đến việc xây dựng chế định vật quyền ở
Việt Nam hiện nay trên cơ sở tiếp nhận Luật La Mã.

8


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẬT QUYỀN
TRONG LUẬT TƢ LA MÃ VÀ SỰ TIẾP NHẬN VẬT QUYỀN TRONG
PHÁP LUẬT DÂN SỰ:
1.1. Khái quát chung về Luật tƣ La Mã:

1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Luật La Mã:
La Mã là tên một quốc gia tồn tại từ thế kỷ thứ VII trước công nguyên đến
thế kỷ VII sau cơng ngun mà nơi phát ngun của nó ở bán đảo Italia. Đây
từng là một quốc gia rộng lớn với sự phát triển rực rỡ cả về kinh tế lẫn văn hóa.
Lịch sử nhà nước La Mã có thể chia thành ba thời kỳ là thời kỳ đế chế trước năm
500 trước cơng ngun, thời kỳ cộng hịa từ năm 500 trước công nguyên đến
năm 44 trước công nguyên, thời kỳ đế chế độc tài từ năm 30 trước công nguyên.
Lịch sử nhà nước La Mã luôn luôn xảy ra những cuộc đấu tranh gay gắt do
sự cách biệt lớn giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp bình dân. Những người bình
dân đấu tranh để chống lại sự áp bức của q tộc, địi quyền lợi của mình về
ruộng đất và chính trị như được vào thị tộc, được hưởng một số quyền nhất định,
đặc biệt được cử người đại diện cho mình tham gia vào bộ máy Nhà nước. Một
trong những hình thức đấu tranh được áp dụng là bỏ nơi cư trú để đi đến những
vùng đất khác. Nhiều cuộc di dân lớn đã diễn ra. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến sức mạnh của nhà nước La Mã bởi tầng lớp bình dân là lực lượng chủ yếu
trong quân đội. Để giải quyết tình trạng này, Đại hội nhân dân đã được triệu tập
vào năm 450 trước Công nguyên tại Aventinus. Đại hội quyết định cử ra một ủy
ban đặc trách gồm mười người (5 người đại diện cho tầng lớp quý tộc và 5 người
đại diện cho tầng lớp bình dân) với nhiệm vụ soạn thảo ra các điều luật nhằm
giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Ủy ban này đã soạn thảo ra các điều luật
và tập hợp thành 12 bảng (Luật XII bảng). Luật XII bảng là văn bản luật đầu tiên

9


của nhà nước La Mã, đặt nền tảng cho sự phát triển của Luật La Mã ở các giai
đoạn sau này.
Như vậy, Luật La Mã ra đời trong hoàn cảnh xã hội có sự phân hóa các
tầng lớp sâu sắc dẫn đến sự đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho tầng lớp của mình.
“Thuật ngữ "luật La Mã" (Roman Law) dùng để chỉ luật pháp của nhà nước La

mã cổ đại - luật pháp La mã chiếm hữu nô lệ. Đối tượng nghiên cứu luật La mã
là những chế định quan trọng về quyền tài sản, các quan hệ gia đình...” [9; tr8].
Vào thời kỳ cộng hịa, Luật La Mã đã có sự phân biệt giữa luật cơng (ius
publicum) và luật tư (ius privatum). “Theo luật gia Upian thì luật công La Mã là
những quy định nhằm điều chỉnh cơ cấu tổ chức nhà nước La Mã, còn tư pháp
La Mã là những quy định về địa vị cá nhân cùng các quyền và nghĩa vụ của họ
trong quan hệ xã hội về tài sản và về nhân thân” [16; tr28,29].
1.1.2. Hệ thống luật tƣ La Mã:
Hệ thống luật tư La Mã (ius privatum) là sự tổng hợp ba hệ thống luật: luật
dành riêng cho công dân La Mã (ius civile hay luật Quiritium), luật của tất cả
công dân trên lãnh thổ La Mã (ius gentium) và luật của các quan (ius
praetorium). Ba hệ thống luật này song song tồn tại và có sự ảnh hưởng lẫn nhau.
Cả ius civile và ius gentium đều tập trung điều chỉnh những quan hệ giữa các
công dân với nhau. “Trong ius civile gồm có các văn bản của Đại hội nhân dân
ban hành (thời cộng hoà gọi là Lex, thời đế chế gọi là Constitucia), của Viện
nguyên lão ban hành thì gọi là Senatuconstum, các văn bản của các quan praetor
ban hành gọi là ius praetorium, các văn bản của quan edill ban hành gọi là
edicta”[19; tr12]. Ius civile là luật chỉ dành riêng cho công dân La mã. Những
người ở nơi khác di cư đến hoặc dân cư ở các vùng bị xâm lược khơng thuộc
Populus Romanus (dân La Mã chính thống). “Vào thời cổ đại, danh dự của công

10


dân La Mã như một biểu trưng tự hào cho những ai cư trú ở La Mã. Do vậy khi
có tranh chấp phát sinh người La Mã được yêu cầu xét xử theo luật ius civile hay
còn gọi là luật Quiritium” [16; tr15,16].
Ius gentium là luật dành cho tất cả cơng dân sống trên lãnh thổ La Mã, có
nội dung khác biệt so với ius civile. Ius gentium ra đời đã khắc phục được những
hạn chế của ius civile do không theo kịp những quan hệ của xã hội ngày một

phát sinh đa dạng trong xã hội La Mã thời bấy giờ. Điều này thể hiện ở việc ius
gentium bổ sung thêm những quy phạm giải quyết những vấn đề pháp lý phát
sinh trong quan hệ về tài sản và nhân thân giữa công dân La Mã và những người
không phải cơng dân La Mã. Ngồi ra ius civile và ius gentium còn được bổ
sung bởi ius praetorium bao gồm những quy tắc được các thẩm phán rút ra từ các
hoạt động xét xử. Đến thời hoàng đế Justinian (thế kỷ VI sau công nguyên), các
công dân sống trên lãnh thổ La Mã hồn tồn bình đẳng với nhau về phương
diện dân sự, ius civile và ius gentium được hợp thành một hệ thống pháp luật
thống nhất gọi là Luật dân sự La Mã.
Tư pháp La Mã là hệ thống luật điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân với nhau
trong quan hệ tài sản và nhân thân như quan hệ mua bán, vay, mượn, cho thuê tài
sản... Các quy định về tư pháp cho phép các bên được thỏa thuận nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ của mình miễn là khơng trái với ngun
tắc chung của luật cơng, khơng xâm phạm lợi ích của nhà nước La Mã, của các
công dân khác và đối tượng, công việc trong quan hệ không bị pháp luật cấm lưu
thông, cấm thực hiện.
1.1.3. Đối tƣợng điều chỉnh của Luật tƣ La Mã
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp La Mã bao gồm các quan hệ về tài sản,
các quan hệ về nhân thân:

11


Quan hệ về nhân thân: Quan hệ về nhân thân trong luật tư La Mã bao
gồm: quan hệ về quyền gia trưởng; về danh dự, uy tín, đổi họ của người phụ nữ
khi kết hôn; về tước danh dự do phạm tội và đã bị kết án… “Quan hệ nhân thân
do Luật La Mã điều chỉnh mang tính chất phi tài sản khơng tuyệt đối. Vì nó cịn
bị sự trừng phạt về kinh tế chi phối [16; tr4].”
Quan hệ về tài sản trong luật tư La Mã bao gồm: quan hệ về vật quyền;
quan hệ về trái quyền (nghĩa vụ); quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng; quan hệ về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; quan hệ về thừa kế.
Chế định trái quyền trong Luật La Mã quy định về nghĩa vụ và hợp đồng,
bao gồm các vấn đề: “căn cứ xác lập nghĩa vụ theo hợp đồng (ex contractu),
nghĩa vụ ngoài hợp đồng (ex delictu); phân biệt nghĩa vụ phát sinh từ chuẩn khế
ước, từ chuẩn vi phạm; điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mức
bồi thường do hành vi vi phạm hợp đồng và vi phạm quyền tư pháp khác của
công dân” [16; tr23]. Các loại hợp đồng thông dụng cũng được quy định cụ thể
trong chế định này.
Chế định thừa kế của Luật La Mã quy định hai hình thức thừa kế là thừa
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Ngoài ra, chế định vật quyền cũng là một chế định quan trọng thuộc sự
điều chỉnh của tư pháp La Mã. Chế định vật quyền trong Luật La Mã quy định
về các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu và các quyền của người khác không
phải là chủ sở hữu trên tài sản (quyền đối với tài sản của người khác). Nội dung
của chế định sở hữu trong Luật La Mã đã phản ánh một cách tương đối đầy đủ
các quan hệ liên quan đến sở hữu phát sinh trong đời sống thực tế của xã hội La
Mã thời bấy giờ. Luật La Mã quy định về các căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền
sở hữu tài sản, quyền sở hữu tài sản của người khác theo thời hiệu; phát sinh

12


quyền sở hữu trên cơ sở chế tạo, liên kết hỗn hợp vật của nhiều chủ sở hữu; hạn
chế về quyền sở hữu. Luật La Mã cũng quy định về chiếm hữu trong sự phân
biệt với quyền sở hữu mặc dù trong hầu hết các trường hợp chủ sở hữu đều là
người chiếm hữu đồ vật. Bên cạnh đó chế định vật quyền cũng bao gồm cả
những quy định về quyền đối với tài sản của người khác.
Như vậy có thể thấy, pháp luật La Mã điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ
thuộc lĩnh vực luật tư xoay quanh các quan hệ giao dịch giữa các cá nhân với
nhau liên quan đến các quyền về nhân thân và tài sản. Trong các quan hệ đó,

phần lớn các quy định được xây dựng để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
tài sản, bởi lẽ, vào thời kỳ này, quan hệ giữa con người được xác lập chủ yếu
thông qua tài sản.
1.1.4. Nguồn của Luật tƣ La Mã:
Để có thể tìm hiểu một cách đầy đủ và khái quát về vật quyền, trước hết
cần xác định được các loại nguồn của tư pháp La Mã trong đó chứa đựng các
quy phạm quy định về vật quyền.
“Có thể hiểu nguồn luật La Mã như là nguồn gốc nội dung các quy phạm
pháp luật, hình thức cấu thành các quy phạm pháp luật và cơ sở nhận thức pháp
luật” [9; tr11].
Từ các cơng trình nghiên cứu Luật La Mã, chúng ta có thể thấy nguồn của
tư pháp La Mã bao gồm: tập quán pháp (thường luật); đạo luật; sắc dụ của các
quan chấp chính; hoạt động của các luật gia La Mã và hệ thống hóa Luật La Mã
của hồng đế Justinian.
1.1.4.1. Tập quán pháp (thường luật):
Tập quán của người La Mã hình thành trong đời sống và quá trình lao
động, sản xuất, trở thành những chuẩn mực chung đối với hành vi của mọi

13


người, chi phối các quan hệ xã hội. Khi của cải trở nên dư thừa dẫn đến sự phân
hóa giai cấp, các quan hệ kinh tế xã hội trở nên đa dạng, phức tạp, xã hội bắt đầu
xuất hiện nhu cầu tập hợp những điều kiện chung về sinh hoạt, sản xuất thành
quy tắc chung bắt buộc mọi người thực hiện.
Nếu những quy tắc đã được áp dụng trong cuộc sống thường nhật nhưng
lại khơng được chính quyền nhà nước cơng nhận và bảo vệ thì chúng chỉ là tập
qn, nhưng khi chúng được cơng nhận và bảo vệ thì đương nhiên chúng sẽ trở
thành tập quán pháp (hay còn gọi là thường luật), thậm chí cịn mang hình thức
của một đạo luật [9; tr14].

1.1.4.2. Đạo luật:
Nói về lịch sử phát triển của Luật La Mã, ngay trong các chế định của
Justinian đã có sự phân biệt giữa luật thành văn (ius csriptum) và luật không
thành văn (ius non csriptum). Luật thành văn là đạo luật và những quy phạm do
các cơ quan quyền lực đặt ra và ghi nhận bằng các văn bản cụ thể [9; tr14]. Đạo
luật đã được sử dụng thay thế cho thường luật không thành văn khi thường luật
khơng cịn là hình thức phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Thời kỳ cộng hòa, các đạo luật được Hội nghị nhân dân thông qua được
gọi là leges. Tuy số lượng các đạo luật thời kỳ này chưa nhiều nhưng chúng cũng
đã đóng một vai trò quan trọng đối với việc ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội.
Thời kỳ quân chủ, nhà vua ra các sắc dụ (Constitutio) có tính chất bắt
buộc một tầng lớp hoặc toàn thể nhân dân La Mã phải tuân theo. Các sắc dụ thể
hiện ở các dạng: “chiếu chỉ cho các thần dân; sắc chỉ cho từng vụ việc; sắc dụ
cho các quan lại và sắc lệnh giải quyết các tranh chấp” [16; tr15].

14


1.1.4.3. Sắc dụ của các quan chấp chính:
Sắc dụ của các quan chấp chính (Edict magistratum) có tính chất bắt buộc
và hiệu lực của nó kéo dài theo nhiệm chức của quan.
Trong thực tiễn xét xử, một số quy phạm pháp luật cổ khơng cịn phù hợp
đã được điều chỉnh hoặc thay đổi. Điều này đã khắc phục được các hạn chế của
luật civile nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, giải quyết các vấn đề
mới phát sinh trong xã hội mà luật chưa thay đổi kịp để điều chỉnh.
Hoạt động sáng tạo luật pháp của các quan tòa đã làm xuất hiện một hệ
thống các quy phạm pháp luật mới mẻ có tên gọi là ius honorarium (từ honores
dùng để chỉ những người có chức sắc) hoặc còn gọi là ius praetorium – Luật
quan. Hoạt động sáng tạo luật pháp của các quan tòa còn dẫn đến sự xuất hiện

một loạt những học thuật mới như: legitimus (hợp pháp), bonorum possessio
(chiếm hữu theo luật quan), iudicium legitimum – theo luật civile, iustae causae
(căn cứ chính xác, hợp đạo), legitimum tempus (thời hạn luật pháp) [9; tr17].
1.1.4.4. Hoạt động của các luật gia:
Các luật gia La Mã đóng vai trị khơng nhỏ trong việc bổ sung, sáng tạo và
hoàn thiện các quy phạm pháp luật. Theo Xi-xê-ron, hoạt động của các luật gia
gồm các hình thức: respondere, cavere, agere và scribere.
Respondere - là hoạt động tư vấn giúp cho các công dân hiểu rõ hơn các
điều luật khi họ có những việc liên quan tới luật pháp. Cavere – hoạt động giúp
công dân ký kết các thỏa thuận để tránh những thiếu sót có thể gây thiệt hại về
quyền lợi. Scribere – là hoạt động giúp các công dân lập biên bản hợp đồng và
các loại văn bản khác liên quan tới pháp luật. Agere – là hoạt động phụ trách tố
tụng của các bên (nhưng không với tư cách là luật sư bào chữa) [9; tr18].

15


Đến thời kỳ Prinxipat (từ năm thứ 27 TCN đến năm 193 SCN), hoạt động
sáng tạo luật pháp của các luật gia La Mã được cơng nhận một cách chính thức.
Các luật gia La Mã đã đóng vai trị khơng nhỏ trong việc sáng tạo ra các quy
phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội mới nảy sinh.
1.1.4.5. Hệ thống hóa Luật La Mã của hồng đế Justinian:
Justinian là tên của Hồng đế Đơng La Mã, lên ngôi vào năm 527. Từ năm
528 ông thành lập một ủy ban pháp luật nhằm hệ thống các quy phạm Luật La
Mã thành Corpus Juris Civilis (Tập hợp các chế định luật dân sự). Ngoài việc hệ
thống, ủy ban này cũng có quyền thay đổi nội dung các quy phạm cho phù hợp.
Corpus Juris Civilis bao gồm 4 bộ phận cấu thành: Codex Constitutionum
(Bộ luật Justinian), Institutiones (Sách giáo khoa Luật La Mã), Digesta (Tổng
luận luật học Justinian) và Novellae (Tập hợp luật mới) [19; tr17].
1.2. Khái quát chung về vật quyền trong Luật La Mã:

1.2.1. Khái niệm và bản chất vật quyền:
Thông thường, luật dân sự là khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ tài sản
được phân chia thành hai loại: (1) quan hệ giữa con người với nhau hay chính là
quan hệ nghĩa vụ được gọi là trái quyền và (2) quan hệ giữa con người với vật
được gọi là vật quyền. Chế định nghĩa vụ luôn bao gồm trái quyền, còn vật
quyền thuộc phạm vi của chế định tài sản. Nói một cách đơn giản về vật quyền
thì vật quyền cho phép người có quyền được thực hiện hành vi một cách trực
tiếp, không cần phải thông qua trung gian tác động lên tài sản là đối tượng của
vật quyền đó. Vật quyền dùng để chỉ mối quan hệ giữa một người xác định là
chủ thể quyền với một vật cụ thể là đối tượng của quyền.
Vật quyền là quyền của một người đối với vật, cho phép người đó được
phép tác động trực tiếp lên vật nhằm đáp ứng các nhu cầu của mình. Vật quyền

16


khơng chỉ cho phép người có quyền được tác động lên chính đối tượng của vật
quyền, mà theo Edward C.Abell Jr thì vật quyền cịn được xem như một cơng cụ
chống lại tất cả những người khác trên thế giới. Khái niệm về vật quyền cũng
được PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện xây dựng như sau: “Vật quyền. Tính chất trực
tiếp và tức thì của việc thực hiện vật quyền được thể hiện ngay trong cách thức
tác động bằng hành vi vật chất (cả hành vi pháp lý) của chủ thể lên đối tượng của
quyền”.
Quan hệ vật quyền hình thành từ hai yếu tố: chủ thể quyền và đối tượng
của quyền. Chủ thể quyền bao giờ cũng là một người xác định, có quyền loại trừ
với tất cả những người cịn lại trong quan hệ với đối tượng của vật quyền cũng là
một vật xác định. Chủ thể của vật quyền được thực hiện đầy đủ các quyền năng
đối với vật cũng như quyền tác động trực tiếp lên vật bao gồm quyền kiểm sốt,
sử dụng, được lợi từ vật mà khơng cần thơng qua bất cứ một người nào khác.
“Tính chất trực tiếp và tức thì của việc thực hiện vật quyền được thể hiện ngay

trong cách thức tác động bằng hành vi vật chất (và cả hành vi pháp lý) của chủ
thể lên đối tượng của quyền”[14]. Chẳng hạn, chủ sở hữu đồ vật có thể tự do sử
dụng hoặc đem cho mượn, cho th mà khơng cần có vai trò trung gian của
người nào khác. Tương tự, người được hưởng quyền địa dịch được phép thực
hiện quyền của mình mà không cần xin phép chủ sở hữu cũng không cần sự hỗ
trợ pháp lý của người khác. Tuy nhiên người có vật quyền cũng phải tơn trọng
các quyền lợi chính đáng của người khác và phải chịu trách nhiệm nếu gây thiệt
hại khi thực hiện quyền của mình.
Trong hệ thống các vật quyền thì quyền sở hữu được coi là vật quyền lớn
nhất làm khuôn mẫu cho việc xác lập nên các loại vật quyền khác. Do các vật thể
vật chất hay còn gọi là các vật chất liệu là một trong những phương tiện thiết yếu

17


giúp con người tồn tại cũng như đáp ứng các nhu cầu của mình trong cuộc sống.
Để có thể khai thác được các công dụng của các vật thể vật chất này nhằm phục
vụ cho mục đích của mình, con người cần được thừa nhận quyền đối với vật
cũng như quyền “ngăn cản hay loại trừ người khác từ việc tiếp cận tới vật thể vật
chất đó, đến việc quản lý và khai thác nó… Pháp luật đã hỗ trợ cho người nắm
giữ hay tạo lập vật thể vật chất (mà pháp luật cho rằng họ nắm giữ hay tạo lập
hợp pháp) ngăn cản hay loại trừ tất cả những người khác bằng cách xây dựng chế
định quyền sở hữu để cho người này thống trị đối với vật thể vật chất. Do vậy,
quyền sở hữu được coi là quyền thống trị của một người đối với vật thể vật chất
của mình và loại trừ tất cả những người khác, nên được gọi là vật quyền hay
quyền đối vật”[8].
Ngoài ra, khi xã hội phát triển, nhu cầu của con người nhiều khi khơng
cịn bó hẹp trong phạm vi vật thuộc sở hữu của mình dẫn đến việc cần sử dụng
sản phẩm của người khác hoặc cho người khác sử dụng sản phẩm của mình để
thu lại lợi nhuận. Chủ sở hữu có thể cho phép người khác có một hoặc một vài

quyền nhất định trên vật thuộc sở hữu của mình. Những người khơng phải chủ sở
hữu tài sản cũng có thể có một số quyền năng của chủ sở hữu. Khi chủ sở hữu
cho phép một người được sử dụng và thu hoa lợi từ vật thì người này có quyền
hưởng dụng, nếu được sử dụng vật mà khơng hưởng hoa lợi thì chỉ có quyền sử
dụng. Ngồi ra còn tồn taị các loại quyền khác đối với vật như quyền địa dịch,
quyền cầm cố…
Trên một vật có thể có nhiều quyền được thiết lập. Bởi pháp luật nhiều khi
phải nói chung tới tất cả các quyền trên vật mà bao gồm cả quyền sở hữu và các
quyền này, nên người ta gọi chung chúng là “vật quyền” hay “quyền đối vật”.
Các quyền này được gọi như vậy từ xa xưa, có ý nghĩa quan trọng trong việc

18


phân biệt với một loại quyền khác là quyền đối nhân (quyền yêu cầu của trái chủ
đối với người thụ trái xác định) [8]. Sự phân biệt này mang lại rất nhiều lợi ích.
Trên cơ sở sự phân biệt vật quyền và trái quyền, người làm luật có điều kiện xây
dựng các chế độ pháp lý tương ứng cho mỗi quyền tài sản có tính chất khác biệt:
chế độ pháp lý về vật quyền đặc trưng bằng các quy tắc chỉ định ứng xử của chủ
thể trong quá trình tác động lên tài sản đối tượng của quyền; chế độ pháp lý về
trái quyền đặc trưng bởi các quy tắc chỉ định hành vi ứng xử trong giao tiếp giữa
hai bên [14]. Hay nói một cách cụ thể hơn thì, pháp luật ra đời tạo ra một khung
pháp lý cho các quan hệ pháp luật được tiến hành. Trong quan hệ vật quyền,
pháp luật quy định cụ thể về các quyền của chủ thể đối với vật, còn quan hệ trái
quyền, pháp luật là quy chuẩn cơ bản cho cách ứng xử giữa mọi người với nhau
trong quan hệ.
Như vậy, hiểu một cách khái quát, vật quyền (jus in re) là quyền của một
người chi phối, tác động trực tiếp lên vật không cần thông qua người trung gian.
1.2.2. Phân loại vật quyền trong Luật La Mã :
Vật quyền trong Luật La Mã có thể được chia thành hai loại là quyền trên

tài sản của mình (có thể gọi là quyền sở hữu) và quyền trên tài sản của người
khác. Người có quyền sở hữu được xác lập quyền tuyệt đối và đầy đủ trên tài sản
của mình. Quyền trên tài sản của người khác được gọi là dịch quyền (servitude),
có được là do chủ sở hữu cho phép một người nào đó được phép hưởng lợi trên
tài sản của mình. Dịch quyền bao hàm bên trong nó hai nội dung chính là dịch
quyền thuộc người (personal servitudes), và dịch quyền thuộc vật (real servitude
hay predial servitude). Dịch quyền thuộc người bao gồm quyền hưởng dụng;
quyền sử dụng, quyền ngụ cư, quyền thuê dài hạn, quyền bề mặt. Bên cạnh các

19


vật quyền này còn tồn tại quyền chiếm hữu được xem như một quan hệ thực tế.
Tất cả các loại quyền này là các vật quyền chính.
Vật quyền chính là các vật quyền cho phép người có quyền kiểm sốt vật
chất và khai thác vật. Trong các vật quyền chính yếu, quyền sở hữu là vật quyền
đầy đủ cho phép người có quyền thu được lợi ích từ vật thơng qua việc khai thác
một cách trọn vẹn các khả năng kinh tế của vật [17]. Có thể thấy, vật quyền
chính yếu đặc trưng bởi sự cho phép chủ thể quyền được tác động trực tiếp lên
vật nhằm sử dụng hoặc khai thác giá trị của vật. Và quyền sở hữu thể hiện một
cách đầy đủ cũng như tối ưu nhất các đặc điểm của vật quyền chính. ”Quyền sở
hữu là vật quyền thống trị và làm cơ sở cho việc phân chia và xác định các vật
quyền khác mà các vật quyền này thường được gọi là các chi phân của quyền sở
hữu. Các vật quyền chính yếu khác được gọi là chi phân của quyền sở hữu bởi
chúng là quyền sở hữu bị tiết giảm đi thành tố nào đó.”[6]
Vật quyền chính được phân biệt với vật quyền phụ thuộc. Vật quyền phụ
thuộc (hay vật quyền bảo đảm) phát sinh trên cơ sở trái quyền với mục đích đảm
bảo cho việc thực hiện trái quyền nhằm bảo vệ quyền lợi cho người có trái
quyền. Một số vật quyền phụ thuộc có thể kể đến như quyền cầm cố, quyền thế
chấp… Người có vật quyền phụ thuộc thực hiện quyền của mình đối với vật

trong phạm vi hạn chế hơn so với người có vật quyền chính yếu.
1.2.3. Bảo vệ vật quyền :
Vật quyền được pháp luật La Mã công nhận và bảo vệ một cách tuyệt đối,
người có vật quyền được phép chống lại bất cứ người nào có hành vi cản trở việc
thực hiện quyền của mình. Khơng ai có thể tự ý hạn chế, tước đoạt trái pháp luật
hoặc xâm phạm đến quyền sở hữu cũng như các quyền hợp pháp trên tài sản của
người khác. Có hai hình thức bảo vệ được pháp luật La Mã công nhận và cho

20


phép chủ thể được áp dụng đó là phương pháp tự bảo vệ và phương pháp kiện
vật quyền (actio in rem).
Chủ thể của vật quyền có quyền tự bảo vệ, ngăn cản các hành vi xâm
phạm đến quyền của mình cũng như truy đòi tài sản là đối tượng của vật quyền
đang bị người khác chiếm giữ, sử dụng không có căn cứ pháp luật.
Vật quyền được pháp luật bảo vệ bất kể vật đang nằm trong tay người nào.
Luật gọi đó là quyền theo đuổi. Trên nguyên tắc, tất cả những ai đang nắm giữ
vật, dù với tư cách nào, đều phải tôn trọng các quyền năng của người có vật
quyền, một cách khơng điều kiện: người có quyền sở hữu tài sản được quyền yêu
cầu người nắm giữ tài sản phải giao tài sản cho mình và người sau này phải giao
nếu không muốn bị coi là người chiếm giữ tài sản trái phép; chủ sở hữu tài sản
thế chấp phải tôn trọng quyền kê biên tài sản của chủ nợ nhận thế chấp; chủ sở
hữu bất động sản chịu địa dịch về lối đi qua phải tôn trọng quyền về lối đi qua
của người hưởng địa dịch... [13].
Ngoài biện pháp tự bảo vệ, vật quyền được pháp luật La Mã bảo vệ bởi
hình thức kiện actio in rem (kiện vật quyền). Theo hình thức này, người có vật
quyền được phép khởi kiện người có hành vi xâm phạm đến quyền của mình
hoặc người chiếm giữ vật bất hợp pháp. Khi xảy ra những hành vi nhằm chiếm
hữu trái pháp luật tài sản của người khác hay những hành vi được tiến hành

nhằm cản trở việc chủ sở hữu khai thác các quyền năng của mình trên vật, chủ sở
hữu có quyền u cầu tịa án giải quyết vụ việc, bảo vệ quyền sở hữu cũng như
vật quyền chính đáng của mình đã được xác lập trên vật.
Nếu như vật quyền được pháp luật La Mã bảo vệ một cách tuyệt đối thơng
qua hình thức kiện actio in rem - quyền kiện người thứ ba bất kỳ vi phạm vật
quyền, thì trái quyền được pháp luật bảo vệ tương đối bằng kiện actio in

21


personam. Actio in personam được coi là tương đối bởi nó chỉ bảo vệ quyền của
đương sự trong một mối quan hệ trái quyền cụ thể với một hoặc nhiều cá nhân
khác.
Trên thực tế có rất nhiều chủ thể bị xâm phạm tới các vật quyền hợp pháp
đã được xác lập trên vật. Chính vì vậy mà Nhà nước La Mã đã quy định về việc
bảo vệ vật quyền hay cả người chiếm hữu hợp pháp thông qua các phương thức
bảo vệ vật quyền trên. Các phương thức bảo vệ vật quyền chính là các biện pháp
tác động cứng rắn và tuyệt đối đối với các hành vi xử sự của con người, ngăn
ngừa những hành vi xâm hại đến chủ thể có vật quyền khi người này thực hiện
quyền của mình.
1.3. Sự tiếp nhận vật quyền trong pháp luật dân sự :
Có thể nói Luật tư La Mã là cơ sở, nền tảng của pháp luật dân sự hầu hết
các nước trên thế giới. Luật dân sự La Mã bao gồm nhiều chế định khác nhau
như sở hữu, nghĩa vụ - hợp đồng, thừa kế, hôn nhân và gia đình… Trong đó,
quyền đối vật là một chế định rất quan trọng, được tiếp thu trong pháp luật dân
sự của rất nhiều quốc gia. Sự tiếp nhận lý thuyết về vật quyền của Luật La Mã có
các đặc trưng khác nhau ở mỗi quốc gia. Vật quyền được ghi nhận thơng qua
hành động lập pháp hoặc cũng có thể qua các học thuyết pháp lý. Hầu hết các
quốc gia trên thế giới, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều ghi nhận chế định vật quyền
vào bộ luật dân sự của mình trong tương quan sự phân biệt với trái quyền.

Tùy thuộc vào chính sách pháp lý cũng như truyền thống của mỗi quốc gia
mà danh sách các vật quyền [32] cũng như các nguyên tắc chi phối quan hệ vật
quyền của mỗi quốc gia có sự khác biệt nhất định [17]. BLDS của Pháp và Đức
chịu sự ảnh hưởng sâu sắc từ Luật La Mã và cũng là hai bộ luật tiêu biểu cho
việc tiếp nhận vật quyền vào trong luật dân sự.

22


×