Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

(Luận văn thạc sĩ) trách nhiệm bồi thường thiệt hại của viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUỲNH ANH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số:8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:TS. PHẠM MẠNH HÙNG

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Quỳnh Anh

i


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
Lời cam đoan ...................................................................................................... i
Danh mục các bảng .......................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự ................................................... 6
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................................ 6
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................................ 8
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân ............................................................................ 16
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988..... 16
1.2.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 .................................................................. 18
1.2.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến trước khi có
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 .................................................................. 23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................................................... 30
2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân
dân trong hoạt động tố tụng hình sự................................................................ 30
ii


2.2. Điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc bồi thường
thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................ 33
2.3. Trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................ 34
2.4. Thực tiễn hoạt động thụ lý, giải quyết việc bồi thường thiệt hại thuộc
trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự..... 47
2.4.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu cầu bồi thường của Viện
kiểm sát nhân dân các cấp trong 5 năm (từ 01/01/2014 đến 31/12/2018) ...... 47
2.4.2. Một số tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết
yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân 54
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết yêu cầu
bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân .............. 66
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................................................................. 74
3.1. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt
động tố tụng hình sự ........................................................................................ 74
3.2. Chú trọng việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của nhà nước ................................................................................. 76
3.3. Tăng cường quản lý, chỉ đạo, điều hành việc xem xét, giải quyết bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự ............................................ 77
3.4. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực, trình độ

cho đội ngũ Lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên ................................................. 79
3.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với các cơ quan có liên
quan trong việc xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự ........................................................................................ 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 88
iii


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT

Bảng

Nội dung

Trang

Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu cầu bồi
1

Bảng 2.1

thường thiệt hại của cơ quan Viện kiểm sát nhân
dân so với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự

47

(2014-2018)

Tình hình giải quyết các vụ việc yêu cầu bồi thường
2

Bảng 2.2

thiệt hại thuộc trách nhiệm của ngành Kiểm sát
nhân dân (thời điểm từ 01/01/2014 đến 31/12/2018)

iv

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Bảo đảm quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp. Trong giai đoạn hiện nay, với mục
tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ cơng chức có trình độ chun mơn cao, được
đào tạo bài bản đã được chú trọng. Tuy nhiên, những trường hợp bị oan trong
tố tụng hình sự do lỗi của những người tiến hành tố tụng vẫn còn xảy ra.
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta, trong đó
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi có hành vi trái pháp luật của cán bộ,
cơng chức trong q trình thực thi cơng vụ gây ra đã được Hiến pháp năm
1992 ghi nhận khá rõ tại Điều 72 và Điều 74. Quy định này tiếp tục được
khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự”[27]. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, năm 2003 và năm
2015 cũng quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với

người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 quy định: “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái
pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự.Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh
dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp
luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra; Người khác bị
thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền

1


được Nhà nước bồi thường thiệt hại” [30]. Hiện nay, chế định về bồi thường
thiệt hại được Quốc hội quy định cụ thể tại Luật Trách nhiệm bồi thường của
nhà nước năm 2017.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước năm 2017 về cơ bản đã thiết lập cơ chế pháp lý bồi thường của nhà
nước minh bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân bị
thiệt hại. Tuy nhiên, các quy định của luật vẫn còn nhữngbất cập cần tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện. Thực tiễn nhiều năm áp dụng pháp luật để giải
quyết bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm
của Viện kiểm sát nhân dân cho thấy vẫn cịn nhiều hạn chế, khó khăn, vướng
mắc cần được giải quyết. Đó là lý do tác giả chọn làm đề tài “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng
hình sự Việt Nam” để làm rõ các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn
đề bồi thường trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân
dân. Qua đó, đánh giá đúng thực trạng việc giải quyết bồi thường thiệt hại,
xác định những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động này của ngành Kiểm
sát. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về

trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự, bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ các quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự; đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật
về bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự của ngành Kiểm sát; từ đó đề
xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự.
2


Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử.
- Tìm hiểu căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Phân tích điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc
bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự.
- Tìm hiểu về trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đánh giáthực trạng hoạt động giải quyết bồi thường thiệt hại của Viện
kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây, xác định những khó khăn vướng
mắc trong cơng tác này.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động

tố tụng hình sự,
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động
tố tụng hình sự đã được đưa vào giáo trình giảng dạy ở các cơ sở giáo dục,
các sách tham khảo bình luận khoa học, các luận án, các bài báo trên tạp chí.
Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu như: PGS.TS Đỗ Văn Đại và
Thạc sĩ Nguyễn Trương Tín, giảng viên Đại học quốc gia Hồ Chí Minh đã in
thành sách cuốn “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước”, xuất bản năm 2015. PGS.TSKH Lê Văn Cảm đã biên soạn sách
chuyên khảo sau đại học “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự”,
xuất bản năm 2005. Trong đó tác giả xây dựng độc lập nguyên tắc minh oan
trong tố tụng hình sự tkhi bàn về chính sách pháp luật tố tụng hình sự.
3


Trong những năm qua, đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có
đề tài liên quan đến vấn đề bồi thường của Nhà nước đối với người bị thiệt hại
trong tố tụng hình sự như: luận án tiến sĩ“Bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của cơquan tiến hành tố tụng gây ra” của tác giả Lê Mai Anh,
bảo vệ năm 2002 tại trường Đại học Luật Hà Nội; một số luận văn thạc sĩ bảo
vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội như: luận văn thạc sĩ của học viên
Phạm Tiến Dũng “Vấn đề oan và chính sách pháp luật tố tụng hình sự về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự”, bảo vệ năm 2008;
Luận văn thạc sĩ của học viên Vũ Thị Lan Anh “Pháp luật về bồi thường nhà
nước trong hoạt động thực thi công vụ” bảo vệ năm 2010; Luận văn thạc sĩ
của học viên Thang Thanh Hoa bảo vệ năm 2010 về “Xác định thiệt hại và
mức bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”; Luận văn
thạc sĩ của học viên Hoàng Xuân Hoan bàn về vấn đề “Pháp luật Việt Nam và
một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm bồi thường của nhà nước”, bảo
vệ năm 2013; Luận văn thạc sĩ của học viên Đào Thị Hải Yến nghiên cứu về

đề tài“Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường Nhà nước cho
người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”, năm bảo vệ 2016.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Luận văn làm rõ khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đã phân tích làm rõ những quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Trên cơ sở các số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu
cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của ngành Kiểm sát trong 5 năm (20142018), luận văn đánh giá thực trạng hoạt động giải quyết bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây, những khó khăn
vướng mắc trong cơng tác này.
4


- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
nhằm đưa công tác giải quyết yêu cầu bồi thường của nhà nước nói chung và
của ngành Kiểm sát nói riêng ngày càng hiệu quả.
- Kết quả của luận văn có thểcó giá trị tham khảo đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự nói chung và cơ quan Viện kiểm sát nói riêng, là tài
liệu tham khảo trong các cơ sở giáo dục về Luật học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứucủa luận văn là các quy định Bộ luật tố tụng hình
sự, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước; luận văn lấy số liệu về công
tác giải quyết bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân và của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (Tịa án nhân dân, Cơ
quan điều tra) thời điểm từ 2014 đến 2018.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự Việt Nam.

5


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong
hoạt động tố tụng hình sự là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà
nước, ở đây cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thay mặt nhà nước bồi thường
thiệt hại cho người bị oan do lỗi của cán bộ, cơng chức Viện kiểm sát gây ra
trong q trình tiến hành tố tụng.
Có thể xem trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước (cụ thể là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân) là một loại trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt, bởi nó có những đặc thù
riêng là bên có trách nhiệm bồi thường là Nhà nước (do Viện kiểm sát nhân
dân thay mặt) mà không phải trách nhiệm của cá nhân cán bộ, công chức hay

cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, để bảo vệ lợi ích chính đáng của cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại cần phải xây dựng pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước độc lập so với việc điều chỉnh các quan hệ dân
sự, hành chính nhưng cơ chế điều chỉnh phải bảo đảm tính liên thơng hoặc có
khả năng hốn đổi linh hoạt giữa các cơ chế khi cần thiết.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một loại hình trách
nhiệm pháp lý đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ sở pháp
luật cụ thể. Thuật ngữ “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước”được
nhắc đến ở nhiều các văn bản pháp luật nhưng hiện nay vẫn khơng có định
6


nghĩa chính thức về trách nhiệm này. Thơng qua văn bản cũng như thực tiễn
và trên cơ sở lý luận, chúng ta có thể hiểu trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước là việc Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường đối với lỗi do hành vi của
người thi hành công vụ gây ra.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, trong quá
trình giải quyết một vụ án hình sự, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng là
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội. Bộ luật Tố tụng
hình sự Việt Nam đã thể hiện rõ nguyên tắc bảo đảm quyền công dân, xử lý
kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình
sự nói riêng, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh
vực nào cũng khó tránh khỏi những sai sót nhất định.
Đối với trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại (người bị oan)
trong hoạt động tố tụng hình sự thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối
tượng được bồi thường. Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp
lý - Bộ Tư pháp thì “oan”có nghĩa là “bị quy cho tội mà bản thân không
phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu”[44] hay
theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngơn ngữ học thì“oan” là một người “bị

quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vơ lý”[45].Như
vậy, oan trong tố tụng hình sự là việc một người trên thực tế không thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu thành tội phạm nhưng đã bị các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án.
Từ những nhận định trên, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong
hoạt động tố tụng hình sự là trách nhiệm bồi thường Nhà nước mà Nhà nước
7


giao cho Viện kiểm sát thực hiện trong trường hợp người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng của Viện kiểm sát thực hiện hành vi, quyết định tố tụng làm oan
người vô tội, thể hiện ở việc Viện kiểm sát nhân dân phải bồi thường thiệt hại
cho người bị oan theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định nhằm phục hồi
danh dự, khơi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị oan.
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự phát sinh do người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng của Viện kiểm sát đã thực hiện hành vi, quyết định tố tụng làm oan
người vô tội
Trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố
tụng hình sự phát sinh từ các hành vi, quyết định tố tụng của công chức Viện
kiểm sát làm oan người vơ tội (tức là phải có thiệt hại thực tế xảy ra và phải
có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại).
Những hành vi, quyết định tố tụng đócủa người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng của Viện kiểm sát bao gồm [32]:
- Đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định khởi tố

bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị
can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của
cơ quan, người có thẩm quyền xác định khơng có sự việc phạm tội hoặc hành
vi khơng cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không
chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; đã quyết định trả hồ sơ vụ
án để điều tra bổ sung nhưng Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều
tra đối với bị can vì lý do như trên;
- Đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo
khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội
phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
8


- Viện kiểm sát đã có cáo trạng truy tố nhưng Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của
người có thẩm quyền của Viện kiểm sát đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì
khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi khơng cấu thành tội phạm hoặc đã hết
thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
- Viện kiểm sát đã có cáo trạng truy tố nhưngTòa án cấp sơ thẩm quyết
định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tun bị cáo khơng có
tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và
bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
- Viện kiểm sát đã có cáo trạng, quyết định truy tố nhưngTòa án cấp
phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị
cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm;
- Viện kiểm sát đã có cáo trạng, quyết định truy tố nhưng Tòa án cấp
phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm xác
định bị cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi khơng
cấu thành tội phạm và sau đó Tịa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác
định bị cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi khơng
cấu thành tội phạm.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sựthuộc trách nhiệm bồi thường nhà nước được
nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện
Có thể xem Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhân danh nhà nước
thực hiện trách nhiệm bồi thường đối với người bị oan do hành vi, quyết định
tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân gây ra. Như vậy, đây được hiểu là một
loại của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước. Với tính chất là một
9


loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
nhà nước (cụ thể là của Viện kiểm sát nhân dân) chỉ xuất hiện trong những
điều kiện và có cơ sở pháp luật cụ thể. Nhà nước, với tư cách là chủ thể của
quan hệ pháp luật, có những quyền và nghĩa vụ nhất định, đồng thời phải chịu
những hậu quả pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nếu Nhà
nước và các cán bộ, cơng chức trong q trình thực thi cơng vụ có hành vi vi
phạm pháp luật, gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ
chức thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo đó, trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước được phát sinh từ các hoạt động mang tính cơng
quyền, do cơ quan nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức nhân danh Nhà nước
thực hiện [35].
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng gây ra đã quy định: Kinh phí bồi thường thiệt hại là một
khoản trong ngân sách nhà nước; Bộ Tài chính có trách nhiệm quản lý, cấp
phát và quyết tốn kinh phí bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật
về ngân sách nhà nước; căn cứ vào bản án, quyết định của cơ quan có thẩm

quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị oan và quyết định
của cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thương
lượng thành hoặc bản án, quyết định của Toà án về việc bồi thường thiệt hại,
cơ quan có trách nhiệm chi trả phải trả tiền cho người bị oan hoặc thân nhân
của người bị oan. Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 và cá
văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định việc chi trả tiền bồi thường là kết
quả của quá trình giải quyết bồi thường, trên cơ sở xác định thiệt hại, mức bồi
thường, kết quả của quá trình thỏa thuận bồi thường hoặc bản án, quyết định
của Tịa án có thẩm quyền. Số tiền chi trả cho người bị thiệt hại được lấy từ
kinh phí bồi thường trên cơ sở dự toán hàng năm của Bộ Tài chính.
10


Kinh phí chi trả tiền bồi thường thiệt hạ trong tố tụng hình sự bao gồm:
tiền chi trả cho người bị thiệt hại và chi phí cho việc định giá tài sản, giám
định thiệt hại. Hằng năm, căn cứ thực tế số tiền bồi thường, chi phí cho việc
định giá tài sản, giám định thiệt hại đã cấp phát của năm trước, Bộ Tài chính
có trách nhiệm lập dự tốn kinh phí bồi thường của cơ quan giải quyết bồi
thường được bảo đảm kinh phí hoạt động từ ngân sách trung ương, báo cáo
Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật về
ngân sách nhà nước.
Việc quy định nguồn kinh phí để giải quyết bồi thường được lấy từ
ngân sách nhà nước là hoàn toàn phù hợp với chế định về bồi thường của các
nước trên thế giới. Điều này cũng thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với
lỗi gây ra cho người dân. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng: ngân
sách nhà nước bao gồm cả tiền do nhân dân đóng góp, nếu như lấy tiền của
dân để bồi thường cho dân thì có thỏa đáng khơng? Với quan điểm như vậy
mà quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành cơng vụ có lỗi gây
thiệt hại cho người bị oan đã được xây dựng.
Thứ ba, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối

với người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự,đó là những người bị oan
trong q trình Viện kiểm sát giải quyết nguồn tin về tội phạm, khi Viện kiểm
sát thực hiện những hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, cụ thể là những trường hợp sau[32]:
- Người bị bắt trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn
lệnh bắt nhưng người bị bắt khơng có hành vi vi phạm pháp luật;
- Người bị tạm giữ trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân đã phê
chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ nhưng người bị tạm giữ khơng có hành vi vi
phạm pháp luật;
- Bị can trong trường hợp:
11


+ Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh
tạm giam hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia
hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác
định khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc
đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện
tội phạm; Viện kiểm sát nhân dân đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ
sung nhưng căn cứ kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định
đình chỉ điều tra đối với bị can vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi
không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không
chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
+ Viện kiểm sát nhân dân đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm tun bị cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành
vi khơng cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
Những trường hợp vụ án đã chuyển sang giai đoạn xét xử, tuy nhiên lỗi
của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thì đã phát sinh từ giai đoạn trước (giai
đoạn truy tố), bởi vậy các bị cáo mà Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm
bồi thường trong trường hợp này được hiểu là những bị can mà cơ quan Viện

kiểm sát nhân dân truy tố oan, bao gồm những trường hợp sau:
+ Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
nhưng sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị
can đã thực hiện tội phạm;
+ Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
nhưng sau đó tun bị cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc
hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
+ Tịa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm xác định bị cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành
vi khơng cấu thành tội phạm;
12


+ Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm xác định bị cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành
vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tịa án xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tịa án cấp phúc
thẩm xác định bị cáo khơng có tội vì khơng có sự việc phạm tội hoặc hành vi
không cấu thành tội phạm.
Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự
được ghi nhận ngay từ Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam (Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1988). Trải qua hai lần pháp điển hóa, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 và năm 2015 tiếp tục ghi nhận nguyên tắc bồi thường
này ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định
về việc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm

giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật
do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra.
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17/3/2003 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (viết tắt là Nghị quyết 388)
và Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTPBQP-BTC ngày25/3/2004 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Cơng an,
Tịa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị quyết 388 (viết tắt là Thông tư 01) là
những văn bản pháp luật đầu tiên quy định một cách chi tiết, cụ thể mọi vấn
đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.

13


Sau q trình thi hành Nghị quyết 388 và Thơng tư 01 đã bộc lộ một số
tồn tại, vướng mắc. Để khắc phục những hạn chế đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc
hội Khóa XII ngày 18/6/2009, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông
qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2010. Để hướng dẫn áp dụng quy định của Luật này, ngày
01/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tịa án nhân dân tối cao, Bộ
Cơng an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng nghiệp và
Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT hướng dẫn thực
hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình
sự(viết tắt là Thơng tư 05).
Với mục đích hồn thiện hơn nữa khuôn khổ pháp luật về trách nhiệm
bồi thường, đảm bảo phù hợp với Hiến pháp 2013, đồng bộ, thống nhất với
các luật hiện hành; thiết lập cơ chế pháp lý bồi thường của Nhà nước minh
bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt
hại và quyền, lợi ích của Nhà nước; từng bước nâng cao trách nhiệm của
người thi hành công vụ, hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ, đáp ứng yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc
tế. Ngày 20/6/2017, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017
được Quốc hội khóa XIV thơng qua tại kỳ họp thứ 3, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2018 đã thay thế cho Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
năm 2009. Bên cạnh đó, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 68/2018/NĐCP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Để cụ thể hóa Luật và Nghị định,
ngày 29/6/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký Quyết
định số 304/QĐ-VKSNDTC về việc ban hành quy định về quy trình giải
quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc
trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân.
14


Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một dạng
trách nhiệm dân sự nhưng thủ tục thụ lý, xem xét, giải quyết lại theo Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Theo đó, trình tự, thủ tục thực hiện
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự được quy định tại các điều luật sau:Thủ tục tiếp nhận và xử lý
hồ sơ yêu cầu bồi thường (Điều 42), Thụ lý hồ sơ và cử người giải quyết bồi
thường (Điều 43), Chủ động phục hồi danh dự (Điều 57), Trực tiếp xin lỗi và
cải chính cơng khai (Điều 58), Đăng báo xin lỗi và cải chính cơng khai (Điều
59), Tạm ứng kinh phí bồi thường (Điều 44), Xác minh thiệt hại (Điều 45),
Thương lượng việc bồi thường (Điều 46), Quyết định giải quyết bồi thường
(Điều 47), Khởi kiện và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tịa án
(Điều 52), Lập dự tốn kinh phí bồi thường (Điều 61), Cấp phát kinh phí bồi
thường và chi trả tiền bồi thường (Điều 62), tiến hành xem xét trách nhiệm
hoàn trả (từ Điều 65 đến Điều 72).
Thứ năm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân có
mục đích phục hồi danh dự, khơi phục lại những tổn thất về vật chất, tinh thần
đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân bị oan do hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát gây ra.
Khi một người bị oan thì nỗi đau, sự mất mát và tổn thất không chỉ cá
nhân họ phải chịu đựng, mà đó cịn là nỗi đau của cả gia đình, họ hàng, dịng
tộc họ. Hậu quả từ những quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm
quyền gây oan cho người bị thiệt hại không chỉ khiến họ bị tổn thất về mặt vật
chất, mà cá nhân và gia đình họ phải gánh chịu; đó cịn là những tổn thất về
tinh thần không thể bù đắp. Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta đã
được nghe rất nhiều lời tự sự của những người bị oan như: ông Nguyễn Thanh
Chấn ở Bắc Giang, ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận… về những mất mát,
tổn thương mà gia đình, vợ con họ phải hứng chịu, ấy là sự kỳ thị của dân
15


làng, sự miệt thị của dư luận, sự tẩy chay của những người phẫn nộ đến mức
con cái họ không đủ bản lĩnh thể tiếp tục đến trường, không thể tìm kiếm
cơng việc hay dựng vợ gả chồng ở địa phương – nơi mà ai ai cũng biết rằng
họ là con, là vợ, là chồng, là anh em ruột thịt, là họ hàng với người phạm tội.
Thấu hiểu nỗi đau đó, cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người giải quyết
bồi thường phải làm việc bằng cả cái tâm và sự cầu thị trên phương diện của
người đã làm sai và đi sửa sai.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, sự bù đắp có thể khơng tương
xứng với thiệt hại nhưng vẫn có ý nghĩa đối với người bị thiệt hại cũng như
người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại. Với những
tổn thất về tinh thần, sự bù đắp của việc bồi thường thiệt hại có ý nghĩa an ủi,
chia sẻ những mất mát mà người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ phải gánh
chịu, góp phần giúp cho người bị thiệt hại ổn định lại cuộc sống sau những gì
họ phải chịu đựng. Bên cạnh đó, cũng thể hiện thái độ cầu thị, mong muốn
sửa sai, khắc phục những sai lầm của chủ thể gây thiệt hại. Đây cũng là đạo lý
cần được giữ gìn thơng qua sự điều chỉnh của pháp luật.
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988
Pháp luật về cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự có lịch sử lập pháp từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời năm 1945. Mặc dù các quy định còn nhiều hạn chế, nhưng đã
chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân. Do Nhà nước mới hình thành, hệ thống pháp luật chưa
được hồn thiện nên cịn áp dụng một số văn bản pháp luật của chế độ cũ với
những quy định phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Đồng thời, Nhà
16


nước dần từng bước ban hành hệ thống văn bản pháp luật mới, trong đó có
những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề hạn chế oan, sai và bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Đó là:
Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức Đoàn thể luật sư đã cho
phép luật sư của chế độ cũ vẫn được duy trì hoạt động. Tuy nhiên, những
điểm không phù hợp với thể chế chính trị mới phải loại bỏ. Theo quy định
này, các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả toà án từ cấp tỉnh trở lên và trước
các toà quân sự. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946, vấn đề
quyền con người, quyền công dân đã được chú ý, trong đó có các quyền liên
quan đến hoạt động tố tụng hình sự như: “Tư pháp chưa quyết định thì khơng
được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Điều 67 Hiến pháp
1946 cũng quy định:“Các phiên tồ đều phải cơng khai, trừ những trường
hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Như vậy, các quy định pháp luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta đã
chú trọng bảo vệ quyền con người, ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo trong
tố tụng hình sự - một nhân tố quan trọng góp phần hạn chế oan, sai trong xét
xử vụ án hình sự.

Tiếp đó, Điều 101 Hiến pháp 1959 và những văn bản pháp luật khác
ban hành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh
thống nhất đất nước đã tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
hạn chế những oan, sai trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, việc bồi thường thiệt
hại cho người bị oan thì chưa được quy định cụ thể trong luật.
Để thống nhất về hoạt động bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự,
ngày 23/3/1972, Tịa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 173/UBTP
hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có việc bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. Tuy khơng trực tiếp
quy định việc bồi thường trong tố tụng hình sự, nhưng Thơng tư 173/UBTP là
17


văn bản pháp luật duy nhất tạo cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại do
làm oan trong thời kỳ này. Cùng với việc bồi thường thiệt hại, người tiến
hành tố tụng có hành vi vi phạm dẫn đến làm oan người vô tội cũng bị xử lý
tuỳ theo mức độ khác nhau, nặng nhất là phải chịu truy cứu trách nhiệm hình
sự. Tuy chỉ là văn bản của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nhưng
Thông tư 173/UBTP đã trở thành văn bản đầu tiên đặt nền móng và cơ sở cho
việc bồi thường thiệt hại, trong đó có bồi thường thiệt hại cho người bị oan
trong tố tụng hình sự.
Như vậy, có thể thấy vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự đã được Nhà nước quan tâm và đã có những quy
định tại văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoàn cảnh đất nước
thời kỳ này nên những quy định pháp luật về oan, sai và bồi thường thiệt hại
cho người bị oan trong tố tụng hình sự cịn thiếu quy định cụ thể, đặc thù. Vì
vậy, việc áp dụng pháp luật trong thực tế còn hạn chế.
1.2.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến
trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Một bước đột phá quan trọng trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam đó

là việc Nhà nước ban hành Bộ luật Tố tụng hình sựnăm 1988, đánh dấu một
bước tiến mới của q trình pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự, đồng
thời cùng với Bộ luật Hình sự năm 1985 là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự. Tại Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đã nêu lên
nhiệm vụ của Bộ luật là “xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”[28]. Đồng thời, quyền
công dân tiếp tục được bảo đảm qua các nguyên tắc cơ bản và những quy định
cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đó là các ngun tắc “bảo đảm
quyền khiếu nại tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng”; “cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và
18


bồi thường cho người bị thiệt hại”[28]. Đây là lần đầu tiên vấn đề bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định cụ
thể trong một văn bản pháp luật. Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng không
những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải thực hiện các biện pháp như:
khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị thiệt hại.
Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng
được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời
sống xã hội, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà
nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi
hành công vụ. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị
truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất
và phục hồi danh dự” (Điều 72); “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp
thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật
chất và phục hồi về danh dự” (Điều 74). Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do
cơng chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành

tố tụng gây ra. Theo Nghị định số 47/CP, việc bồi thường thiệt hại được giải
quyết theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Nguyên tắc “người bị thiệt
hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường
cho mình thiệt hại do cơng chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra hoặc yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của mình” (Điều 3) [12]. Về cơ bản cách thức giải quyết này là
phù hợp. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật và cách thức giải quyết
bồi thường có thể thấy tính chất bình đẳng của quan hệ bồi thường thiệt hại
khơng thể hiện rõ và đúng với tính chất của quan hệ dân sự. Dù có những quy
định khá tiến bộ, nhưng chưa thật sự tạo điều kiện cho người bị thiệt hại thực
19


hiện quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình sau khi bị oan sai, khơng ít
vụ việc giải quyết chưa thực sự khách quan và thường phải kéo dài sang trình
tự tư pháp.
Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng,
chống tội phạm, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, các Nghị quyết của
Đảng về cải cách tư pháp đã có những chỉ đạo khá cụ thể. Nghị quyết 08/NQTW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ quan tư pháp đối với
các trường hợp oan, sai nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân.
Thể chế hố các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước đã ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật nêu rõ trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng và quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 đã quy định: “Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Thủ
trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn mà gây ra thiệt hại thì Viện kiểm sát nhân dân nơi người đó cơng tác

phải có trách nhiệm bồi thường. Những người đã gây ra thiệt hại phải có
trách nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp
luật” (Điều 46) [33].
Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật về giải quyết bồi thường thiệt
hại do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra cho người bị
oan trong thời kỳ này về cơ bản đã được hình thành. Các đạo luật đã quy định
cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, các quy định về việc bồi thường cho người bị oan do
người có thẩm quyền tố tụng hình sự gây ra và trách nhiệm hoàn trả của
20


×