Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh phú thọ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ NGỌC QUANG

TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CƠNG TRÁI GIẢ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ NGỌC QUANG

TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CƠNG TRÁI GIẢ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang

HÀ NỘI - 2015

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Hà Ngọc Quang

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các bảng
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ,

7

VẬN CHUYỂN LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU
GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM

1.1.

Những khái niệm có liên quan

7

1.1.1. Khái niệm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả

7

1.1.2. Khái niệm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,

9

ngân phiếu giả, công trái giả

1.2.

Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,

10

ngân phiếu giả, công trái giả với một số tội phạm khác trong
luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,

10

ngân phiếu giả, công trái giả với tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác
1.2.2. Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,

15

ngân phiếu giả, công trái giả với tội rửa tiền
1.3.

Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt

18

Nam về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1985

18


1.3.2. Giai đoạn từ 1985 đến 1999

20

1.3.3. Giai đoạn từ 1999 đến nay

23

4


Chương 2:

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LÀM,

29

TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ,
NGÂN PHIẾU GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

2.1.

Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về tội làm, tàng trữ, vận

29

chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu


29

hành tiền giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả
2.1.2. Chế tài hình sự đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành

34

tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
2.2.

Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội làm, tàng trữ, vận

38

chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ
2.2.1. Những kết quả đạt được trong điều tra, truy tố, xét xử tội làm,

38

tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
2.2.2. Những tồn tại trong điều tra, truy tố, xét xử tội làm, tàng trữ,

52

vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
2.2.3. Những nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại trong điều


55

tra, truy tố, xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, công trái giả
Chương 3:

NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ÁP DỤNG CÁC QUY

62

ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐẤU TRANH VỚI
TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH
TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CƠNG TRÁI GIẢ

3.1.

Hồn thiện pháp luật hình sự đối với tội làm, tàng trữ, vận

62

chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
3.2.

Các kiến nghị, đề xuất khác nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự đấu tranh với tội làm, tàng trữ,
vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả

5


68


3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

68

3.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong

69

điều tra, truy tố, xét xử đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
3.2.3. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan tư pháp với các

70

cơ quan khác của nhà nước, tổ chức xã hội trong đấu tranh
với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả
KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77

6



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Số vụ án, bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội

39

bảng
2.1

làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả giai đoạn 2010- 2014 trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ
2.2

Thống kê về thành phần, nhân thân người phạm tội làm,
tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2010- 2014

7

44


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiền giả trong thực tế đã có một quá khứ tồn tại khá lâu đời. Càng
ngày thì tội phạm càng biết áp dụng những công nghệ hiện đại để làm ra tiền
giả. Tiền giả làm giảm sút kinh tế, gây rối loạn thị trường và rất nhiều thiệt hại
khác không thể kể hết. Ở nước ta, song song với việc làm giả tiền Việt Nam
đồng, thì các loại ngoại tệ, séc, ngân phiếu giả, cơng trái giả, thẻ tín dụng giả
xuất hiện ngày càng nhiều. Thực tế cho thấy, tiền Việt Nam đồng giả được in
chủ yếu ở nước ngoài. Tiền được làm giả chủ yếu theo phương pháp thủ công
như vẽ, khắc và in lưới. Chúng tách đôi tờ tiền thật rồi dán từng mặt vào một
tờ giấy khác. Tờ giấy này được phun màu điện tử giống y như tiền thật. Cách
làm giả này chủ yếu được các đối tượng trong nước sử dụng. Theo thống kê
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thì số lượng tiền giả ngày một tăng, mỗi
năm ngân hàng thu vào hàng chục tỷ tiền Việt Nam đồng giả, chủ yếu là các
loại có mệnh giá cao. Đây là số tiền giả do các ngân hàng, kho bạc phát hiện
và thu giữ. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, thì trên thực tế, số lượng tiền giả
đang lưu hành trên thị trường còn lớn hơn rất nhiều.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập kinh
tế quốc tế, thì việc mở rộng giao lưu kinh tế với Trung Quốc và các quốc gia
láng giềng là điều tất yếu, nên đã có nhiều cửa khẩu quốc tế mới được thơng
thương, các khu kinh tế mở giáp biên giới, chợ đường biên, khách du lịch
tham quan, mua bán, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về thăm thân nhân
cũng lợi dụng đem tiền giả về Việt Nam tiêu thụ. Phần lớn nguồn tiền giả được
vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam qua các cửa khẩu biên giới, Tội phạm
nước ngoài vào Việt Nam cịn nhúng tiền giả vào hóa chất là cho tờ bạc chuyển
sang màu sẫm, tạo cảm giác tiền cũ đã được lưu thông từ lâu. Cách này cũng
"qua mặt" được máy kiểm tra tiền của ngân hàng và các doanh nghiệp.

8



Tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả,
công trái giả (sau đây gọi tắt là "tội phạm về tiền giả") là loại tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, tính chất mức độ của nó gây ra khơng những ảnh
hưởng đến chính sách tiền tệ của Nhà nước ta, trực tiếp phá hoại nền kinh tế
của đất nước mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân
dân. Thời gian qua, do có lợi nhuận cao, dễ thực hiện nên loại tội phạm này
không ngừng gia tăng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, đa dạng hơn gây khơng
ít khó khăn cho cơng tác phịng chống tội phạm này. Tội phạm về tiền giả
không chỉ xảy ra ở khu vực thành phố, thị xã, mà bọn tội phạm còn lợi dụng
các địa bàn như vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, các chợ buôn bán
tiền ở vùng biên giới để thực hiện tội phạm. Đặc biệt, bọn tội phạm đã lợi
dụng một số người khơng có cơng việc làm, những người nghèo, người già,
trẻ em tham gia vào hoạt động phạm tội để kiếm sống làm cho tình hình tội
phạm về tiền giả diễn biến ngày càng phức tạp. Trong khi đó, quan hệ phối
hợp phịng, chống tội phạm về tiền giả giữa các quốc gia còn nhiều hạn chế,
bất cập, cho nên cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này sẽ gặp nhiều
khó khăn.Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả trong Luật hình sự
Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ" làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về tội
làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả.
Loại tội phạm này được đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách
tham khảo như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, (tập 3) của Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2013; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; sách "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999", của Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp,

9



Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2008 do tập thể tác giả biên soạn; sách
"Bình luận khoa học Bộ luật hình sự", do PGS.TS. Trần Minh Hưởng, Học viện
Cảnh sát nhân dân biên soạn, Nxb Hồng Đức, năm 2014; sách "Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự" của ThS. Đinh Văn Quế, Tòa án nhân dân tối cao,
phần các tội phạm, tập VI, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2005; Sách chuyên khảo: "Tội phạm kinh tế thời mở
cửa", do PGS.TS. Nguyễn Xn m, PGS.TS. Nguyễn Hịa Bình làm chủ
biên, Nxb Công an nhân dân, năm 2003; Sách chun khảo: "Chính sách hình
sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam", do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb Tư
pháp, năm 2007…
Ngoài ra, các tài liệu liên quan đến luận văn cịn có các tạp chí chun
đề như: "Một số điểm mới trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế của Bộ luật hình sự 1999" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà đăng trên Tạp chí
Luật học, số 2/2000; Luận án tiến sĩ của tác giả Mai Thế Bày: "Đấu tranh
phòng chống các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế", Học viện Cảnh sát
nhân dân, năm 2006.
Những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới chỉ dừng lại dưới dạng
các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình, sách tham khảo mà chưa nghiên cứu đi sâu vào đánh giá,
phân tích thực tiễn vận dụng pháp luật tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;
cũng như đánh giá những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, những năm gần đây xuất hiện ngày càng
nhiều những vụ án làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, cơng trái giả có quy mơ lớn, mức độ tinh vi, phức tạp và liên quan đến
các đối tượng ở nước ngoài. Do vậy, vấn đề đặt ra với các nhà khoa học là cần
phải tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện, sâu sắc hơn đối với
loại tội phạm này.


10


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá
làm rõ những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng pháp luật đối với tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả. Qua đó đề xuất một số kiến nghị nâng cao
hiệu quả pháp luật quy định loại tội phạm này.
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
Tập trung phân tích quy định của luật hình sự Việt Nam về tội làm,
tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả trong Bộ
luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) ở hai khía cạnh: Trách
nhiệm hình sự và hậu quả pháp lý của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả; nêu ra những tồn tại trong vận dụng quy
định của pháp luật hình sự về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả trong điều tra, truy tố, xét xử từ năm 2010 - 2014
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ và đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy
định pháp luật có liên quan đến tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, công trái giả.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết các vấn đề
cụ thể quy định của Bộ luật hình sự 1999 ở khía cạnh nhiệm vụ hình sự và hậu
quả pháp lý của loại tội phạm này; phân tích thực tiễn vận dụng pháp luật trong
điều tra, truy tố, xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả từ năm 2010 - 2014; phân tích những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả và đề cập đến một số tồn tại
trong quy định của pháp luật về loại tội phạm này. Trên cơ sở đó, luận văn đưa

ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật hình sự về
tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả.

11


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như các thành tựu khoa
học khác như luật hình sự, luật tố tụng hình sự, triết học, những luận điểm
khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết
đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học trong lĩnh vực hình sự.
Luận văn còn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về
mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, trong đó là các phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
lịch sử cụ thể, phương pháp luật so sánh…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn sẽ so sánh, đánh giá những bước phát triển nổi bật của pháp
luật Việt Nam quy định về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả từ năm 1945 cho đến nay; luận giải các dấu hiệu pháp
lý về chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm này theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Trên cơ sở phân tích thực tiễn vận dụng quy định pháp luật hình sự về
tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
trong điều tra, truy tố, xét xử giai đoạn 2010 -2014 và một số tồn tại, vướng
mắc khi áp dụng pháp luật, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật về tội phạm này.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân dân, tầm quan trọng
trong việc xử lý hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân

phiếu giả, công trái giả góp phần ổn định nền kinh tế thị trường và chính sách
tiền tệ của Nhà nước.
- Góp phần bổ sung vào các cơng trình nghiên cứu trong lĩnh vực hình
sự, kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo trong việc hoàn thiện các quy

12


định của pháp luật, nâng cao hiệu quả chính sách hình sự đối với tội phạm về
làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả nói
riêng và tội phạm kinh tế nói chung trong thời gian tới cũng như góp phần
trong áp dụng thực tiễn các quy định của pháp luật khi xử lý loại tội phạm này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự về tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Những kiến nghị, đề xuất áp dụng các quy định của pháp
luật hình sự đấu tranh với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả.

13


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN
LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ

TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN

1.1.1. Khái niệm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
Tiền là "vật đúc bằng kim loại hay in bằng giấy do ngân hàng phát hành,
dùng làm đơn vị tiền tệ" [29, tr. 950]. Hiện nay chưa có khái niệm nào mang tính
pháp lý về "tiền" mà chỉ có các khái niệm về "tiền tệ". Tiền được hiểu là một bộ
phận của tiền tệ. Theo quan điểm của C. Mác, tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc
biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hóa, được dùng để đo lường và biểu hiện
giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội
và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Theo các
nhà kinh tế học hiện đại tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc
thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc để trả nợ. Theo khoản 1, Điều 9 Luật
ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2003 thì "tiền tệ là phương tiện thanh tốn
bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá khác như tiền" [40].
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì tiền là một
loại tài sản phổ biến trong giao lưu dân sự, nó thực hiện các chức năng thanh
tốn thơng dụng nhất và tiền chỉ do Ngân hàng Nhà nước phát hành. Hiện
nay, tiền được lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam là tiền giấy, đơn vị tính là
Việt Nam đồng, được cấu tạo dưới dạng hợp chất polyme khơng thấm nước
và khó bị nhàu nát như tiền giấy trước đây.
Ngân phiếu là "phiếu có ghi số tiền, dùng làm căn cứ nhận tiền tại
ngân hàng hoặc nhận tiền gửi qua bưu điện" [29, tr. 65] Đó là một dạng phiếu
dùng để thay thế tiền mặt, có in mệnh giá và thời hạn lưu hành. Trên thực tế
thì ngân phiếu, đặc biệt là ngân phiếu nhà nước có tác dụng tích cực. Nó làm

14



giảm khối lượng tiền mặt trong q trình lưu thơng tiền tệ, giúp đối phó với
một số thời điểm khó khăn do hệ thống ngân hàng thiếu tiền mặt tức thời
trong thanh tốn. Ở Việt Nam thì ngân phiếu được giao cho Ngân hàng nhà
nước Việt Nam phát hành.
Công trái là "hình thức nhà nước vay vốn của các tầng lớp nhân dân,
người cho vay được quyền thu lại vốn và hưởng lãi theo quy định" [29, tr. 2014].
Công trái được Nhà nước phát hành bằng một giấy tờ gọi là phiếu công trái.
"Giả" theo Từ điển tiếng Việt là "không phải là thật mà là được làm ra
với vẻ bề ngoài giống như cái thật" [29, tr. 369]. Theo hướng dẫn áp dụng
một số quy định của pháp luật hình sự của Hội đồng thẩm phán Tịa án nhân
dân tối cao tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP thì "tiền giả bao gồm tiền
Việt Nam đồng giả và ngoại tệ giả; ngân phiếu giả, công trái giả bao gồm
ngân phiếu, công trái giả ngân phiếu, công trái của Việt Nam hoặc của nước
ngồi phát hành nhưng có giá trị thanh tốn tại Việt Nam" [49].
Đến nay vẫn chưa có một tài liệu khoa học nào đưa ra định nghĩa thế
nào là tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả mặc dù tiền giả có một lịch sử tồn
tại khá lâu đời, ngay từ khi xuất hiện một loại tài sản làm cơ sở để giao dịch
thơng thương là tiền thì cũng có sự xuất hiện của tiền giả.
Theo định nghĩa tại Bách khoa tồn thư mở Wikipedia thì "tiền giả là
tiền được sản xuất mà khơng có chế tài pháp lý của nhà nước hoặc chính
phủ". Tại Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 30/6/2003 của Thủ tướng Chính
phủ về bảo vệ tiền Việt Nam thì tiền giả được hiểu là "tiền được làm giống
như tiền Việt Nam nhưng không phải do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ
chức in, đúc, phát hành" [8]. Đối với một số nước trên thế giới, tiền giả được
giải thích cụ thể hơn, đó là: tiền giả là bất cứ vật gì khơng phải là tiền thật
(tiền giấy, tiền xu) mà được làm giống hay cố tình làm giống hoặc làm cho
được chấp nhận như là một đồng tiền thật; hoặc tiền giả là tiền thật nhưng bị
sửa đổi bằng cách can dán, cạo sửa hoặc in lại.

15



Định nghĩa trên cũng chưa thể hiện được tính đầy đủ về bản chất của
tiền giả theo pháp luật hình sự Việt Nam bởi ngoài tiền của Nhà nước Việt
Nam phát hành thì cịn có các đối tượng tiền giả là tiền của nước ngồi nhưng
có giá trị thanh tốn tại Việt Nam.
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về
tiền giả, ngân phiếu giả và công trái giả như sau: "Tiền giả" là vật đúc bằng
kim loại hay in bằng giấy không phải do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát
hành hoặc nước ngồi phát hành nhưng có giá trị thanh tốn tại Việt Nam;
"Ngân phiếu giả" là phiếu có ghi số tiền dùng làm căn cứ nhận tiền tại ngân
hàng hoặc nhận tiền gửi qua bưu điện không phải do Ngân hàng nhà nước
Việt Nam phát hành mà là được làm giả với vẻ bề ngồi giống như cái thật;
"Cơng trái giả" là phiếu công trái không phải do các cơ quan chức năng phát
hành mà là được giả với vẻ bề ngoài giống như cái thật.
1.1.2. Khái niệm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả
Tiền giả xuất hiện từ rất lâu đời ngay từ khi xuất hiện tiền trong lưu
thông tiền tệ. Ngay từ khi giành được độc lập năm 1945, song song với các
vấn nạn, tệ nạn xã hội thì nạn tiền giả đã xuất hiện nhiều và Chính phủ đã
phải xây dựng chính sách hình sự về loại tội phạm này.
Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả được quy định tại Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi,
bổ sung năm 2009) hiện hành. Tuy nhiên khái niệm về làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả chưa có một văn bản
pháp lý nào đưa ra khái niệm về những hành vi này.
Theo Từ điển tiếng Việt "làm" có nghĩa là: dùng cơng sức tạo ra cái
trước đó khơng có [29, tr. 518]; "tàng trữ" có nghĩa là: cất giữ một khối
lượng [29, tr. 858]; "vận chuyển" có nghĩa là: Mang chuyển đồ vật từ nơi này
đến nơi khác, bằng phương tiện hoặc bằng sức [29, tr. 1067]; "lưu hành" có


16


nghĩa là: Đưa ra sử dụng rộng rãi từ người này, nơi này qua người khác, nơi
khác trong xã hội [29, tr. 580]. Theo quan điểm của ThS. Đinh Văn Quế thì
"Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là
hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đổi, mua bán các loại tiền
giả, ngân phiếu giả và công trái giả" [30, tr. 359].
Từ các khái niệm và quan điểm trên đây, có thể đưa ra một định nghĩa
khoa học về tội "làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả,
công trái giả" là hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đổi, mua
bán các loại tiền giả, ngân phiếu giả và công trái giả không phải do cơ quan,
Nhà nước Việt Nam phát hành hoặc nước ngồi phát hành có giá trị thanh
tốn tại Việt Nam.
1.2. PHÂN BIỆT TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH
TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM
KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.2.1. Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
séc giả, các giấy tờ có giá giả khác
Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả và tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá
giả khác là hai tội phạm được tách từ tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành
tiền giả, tội phá hủy tiền tệ quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985.
Trước đây tội phạm này được coi là tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia.
Nay, Bộ luật hình sự năm 1999, Luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật
hình sự năm 2009 quy định tội phạm này tại chương các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế. Tuy là được tách ra cùng một tội, nhưng giữa hai tội này có

nhiều sự khác biệt cơ bản.
Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái
giả và Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả

17


khác là hai tội độc lập quy định tại Điều 180 và Điều 181 Bộ luật hình sự năm
1999 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009. Trước
đây, hai tội phạm này được quy định chung trong một điều luật Điều 98 Bộ
luật hình sự năm 1985 "tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá
hủy tiền tệ". Về tên gọi, Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ thể hiện các
hành vi phạm tội làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ, nhưng về
nội dung của điều luật thì khoản 1 lại nêu rõ: "Người nào làm, tàng trữ, lưu
hành tiền giả, séc giả, phiếu công trái giả hoặc phá hủy tiền tệ thì bị phạt tù từ
năm năm đến mười năm" [31]. Đối tượng của tội phạm được quy định ở tên
tội danh chỉ là tiền gồm: tiền giả và tiền thật, nhưng đối tượng của tội phạm
được liệt kê ở nội dung của điều luật lại bao gồm cả séc giả, phiếu công trái giả.
Như vậy, ở đây thiếu sự thống nhất giữa tên tội danh và nội dung của điều
luật. Hơn nữa tính chất của hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả nguy hiểm cho xã hội cao hơn hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
séc giả nên việc Bộ luật hình sự năm 1999 tách Điều 98 Bộ luật hình sự năm
1985 thành hai tội khác nhau với khung hình phạt khác nhau ở Điều 180 và
181 là có cơ sở pháp lý. Hơn nữa, trên thực tế, ngoài tiền giả, ngân phiếu giả,
cơng trái giả, séc giả thì cịn một số loại giấy tờ có giá khác được sử dụng để
làm phương tiện thanh toán đã bị làm giả cần được xử lý về hình sự.
Về phương diện lý luận, sự khác biệt lớn nhất của hai tội phạm này là
ở đối tượng tác động của tội phạm và chế tài hình sự đối với các hành vi phạm
tội được nêu trong nội dung của điều luật.
Về đối tượng tác động của tội phạm, đối tượng tác động của tội làm,

tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là tiền,
ngân phiếu, công trái. Tiền, ngân phiếu, cơng trái có thể là của Việt Nam hoặc
của nước ngoài phát hành. Theo hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp
luật hình sự của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết
số 02/2003/NQ-HĐTP thì "tiền giả bao gồm tiền Việt Nam đồng giả và ngoại

18


tệ giả; ngân phiếu giả, công trái giả bao gồm ngân phiếu, công trái giả, ngân
phiếu, công trái của Việt Nam hoặc của nước ngồi phát hành nhưng có giá trị
thanh toán tại Việt Nam" [49].
Như vậy, đối tượng tác động của tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển
tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả theo quy định của Điều 180 Bộ luật hình
sự năm 1999 là các loại tiền Việt Nam đồng và ngoại tệ; ngân phiếu, công trái
do Việt Nam hoặc nước ngồi phát hành nhưng có giá trị thanh toán ở Việt
Nam. Tiền giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả về cơ bản có những đặc điểm
giống như tiền thật, công trái thật, ngân phiếu thật. Tội phạm này tác động
đến đối tượng của chúng bằng các hành vi cụ thể được nêu rõ trong Điều 180
là: làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả.
Làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là thực hiện mọi công việc cần
thiết để phát hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Người phạm tội có
thể tham gia vào cả q trình làm ra tiền giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả
hoặc chỉ tham gia vào một công đoạn của q trình làm ra tiền giả, ngân phiếu
giả, cơng trái giả nêu trên như: vẽ theo mẫu, làm bản in, hoặc thực hiện việc
in ấn... Tàng trữ tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là cất giữ các đối tượng
nêu trên ở bất cứ chỗ nào như nơi ở, nơi làm việc, mang theo người, trong
hành lý của người phạm tội. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa
đối với việc định tội. Vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là việc
đưa các đối tượng trên từ nơi này sang nơi khác bằng đường bộ, đường thủy

nội địa, đường hàng không, đường biển, đường sắt, bằng cách vận chuyển trực
tiếp hoặc gửi. Lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là hành vi sử
dụng tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả theo nghĩa lưu thông tiền tệ, ngân
phiếu, công trái. Đó là các hành vi như đổi chác, cho vay, mua bán, tặng...
Đối tượng tác động của tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
séc giả, các giấy tờ có giá giả khác theo quy định tại Điều 181 Bộ luật hình sự
là séc, giấy tờ có giá. Hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn chính thức thế

19


nào là séc giả, giấy tờ có giá giả. Theo Luật các Cơng cụ chuyển nhượng Việt
Nam năm 2005 thì "séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho
người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được
phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài
khoản cung ứng của mình để thanh toán cho người thụ hưởng" [42].
Như vậy, một cách khách quan, séc là một lệnh vô điều kiện của
người chủ tài khoản mở tại ngân hàng yêu cầu ngân hàng trích từ tài khoản
của mình một số tiền nhất định để trả cho người hưởng lợi séc hoặc cho người
cầm séc. Séc được sử dụng thay thế tiền làm chức năng thanh tốn và lưu
thơng. Giấy tờ có giá là những văn bản chứa đựng một nội dung và có giá trị
bằng một khoản tiền nhất định.
Người phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy
tờ có giá giả khác có thể thực hiện một trong các hành vi sau: làm séc giả, các
giấy tờ có giá giả khác; tàng trữ séc giả, các giấy tờ có giá giả khác; vận
chuyển séc giả, các giấy tờ có giá giả khác; lưu hành séc giả, các giấy tờ có
giá giả khác.
Về chế tài hình sự, đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, công trái giả, Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999, Luật sửa
đổi bổ sung năm 2009 quy định ba khung hình phạt đối với người phạm tội:

Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, cơng trái giả, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.
Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm
đến mười hai năm. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai
mươi năm hoặc tù chung thân [43].
Chế tài hình sự đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả,
các giấy tờ có giá giả khác thì Điều 181 Bộ luật hình sự cũng quy định ba
khung hình phạt chính và một hình phạt bổ sung áp dụng với người phạm tội

20


này trong từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, ở mỗi khoản lại thể hiện khung
hình phạt nhẹ hơn so với các nhóm hành vi tương tự của tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Cụ thể như sau:
Đối với trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 của Điều 181 Bộ luật
hình sự 1999 là cấu thành cơ bản của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
séc giả, các giấy tờ có giá giả khác, người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm. Như vậy, so với khoản 1, Điều 180 thì khoản 1, Điều 181
là điều luật nhẹ hơn.
Đối với trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của Điều 181 Bộ
luật hình sự 1999: Phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng thì người phạm
tội có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. Như vậy khoản 2, Điều 180
và khoản 2, Điều 181 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) đều
quy định chế tài như nhau đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng.
Đối với hành vi phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng thì so với khoản 3, Điều 180, tại khoản 3, Điều 181 chế tài
hình sự có sự khác nhau. Nếu phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
séc giả, các giấy tờ có giá giả khác trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc

đặc biệt nghiêm trọng thì chỉ bị phạt tù mức cao nhất của khung hình phạt là
hai mươi năm nhưng nếu phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, cơng trái giả thì khung hình phạt cao nhất có thể bị phạt
tù chung thân. Đối với loại tội phạm tiền giả, trước đây tại Bộ luật hình sự,
đối với phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội
có thể phải chịu mức hình phạt cao nhất là tử hình. Tuy nhiên hình phạt tử
hình đã bỏ khi sửa Luật hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Hình phạt bổ sung đối với hai loại tội phạm này là như nhau và đều
được quy định tại khoản 4 của điều luật. Theo đó, người phạm tội có thể bị
phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản.

21


Như vậy, căn cứ quy định về chế tài hình sự tại hai điều luật như đã phân
tích ở trên có thể khẳng định tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, cơng trái giả có mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn hơn nhiều so
với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác.
1.2.2. Phân biệt tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả với tội rửa tiền
Nếu như tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả được quy định trong chương XVI, các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế thì tội "rửa tiền" được quy định tại mục B - nhóm tội xâm
phạm trật tự cơng cộng thuộc chương XIX - Các tội xâm phạm an tồn cơng
cộng, trật tự cơng cộng. Cả hai tội phạm này đều có cấu thành hình thức,
nghĩa là các tội phạm này được coi là hoàn thành kể từ khi thực hiện hành vi
nào đó được quy định trong từng điều luật, với số lượng, giá trị cụ thể được
quy định ngay trong điều luật, với số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Nếu như tội "làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả" xuất hiện trong lịch sử pháp luật hình sự từ năm 1950 thì
tội "rửa tiền" lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật hình sự 1999 với tên gọi là
"tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có". Hai tội này đều có đối
tượng tác động của tội phạm là tiền. Nếu như tội "làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả" nhà làm luật không mô tả các
hành vi cụ thể cũng như khơng có khái niệm về tội thì tội "rửa tiền" được mơ
tả bằng các hành vi "tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính,
ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm
tội mà có nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó" [36], đây
có thể xem như khái niệm về "rửa tiền" theo pháp luật Việt Nam. Cả hai loại
tội phạm này đều được thể hiện bằng những hành động cụ thể, với nhiều thủ
đoạn khác nhau. Tuy nhiên hai tội phạm này có đặc điểm khác nhau rất riêng

22


biệt. Tội "làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, cơng
trái giả" có khách thể là trật tự quản lý kinh tế của đất nước, xâm phạm đến
những quy định của Nhà nước về phát hành và lưu hành tiền tệ, ngân phiếu,
công trái. Khách thể của tội "rửa tiền" là trật tự xã hội, gây khó khăn cho việc
phát hiện, điều tra xử lý người phạm tội cũng như việc thu hồi tài sản, tiền do
bọn tội phạm chiếm đoạt.
Mặt khách quan của hai tội phạm đều được thực hiện bằng những
hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, an toàn trật tự xã hội
của đất nước.
Về mặt chủ quan của tội phạm thì cả hai tội đều được thực hiện dưới
hình thức lỗi cố ý. Nếu như ở tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả được thực hiện nhằm thu lời bất chính, hợp pháp
hóa tiền, ngân phiếu, cơng trái giả thành thật để lưu thơng tiền tệ thì tội "rửa

tiền" nhằm mục đích " tẩy trắng" đồng tiền, tài sản do phạm tội mà có, "rửa
tiền" nhằm che giấu nguồn gốc phi pháp của những tài sản đó.
Về chủ thể tội phạm, cả hai tội phạm đều được thực hiện bởi bất kỳ
người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 trở lên theo
quy định tại Điều 12 và Điều 13 Bộ luật hình sự.
Ngồi những điểm chung nêu trên thì tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả và tội rửa tiền cịn có những
điểm giống và khác biệt cơ bản.
Tại khoản 1 của Điều 180 và Điều 251 Bộ luật hình sự đã cho thấy
khởi điểm khung hình phạt của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, công trái giả (phạt tù từ 03 năm đến 07 năm) cao hơn so
với tội rửa tiền (phạt tù từ một năm đến năm năm).
Nếu như tại khoản 2 Điều 180 Bộ luật hình sự quy định phạt tù từ 05
năm đến 12 năm khi phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì tại khoản 2
Điều 251 Bộ luật hình sự đã quy định cụ thể các tình tiết cấu thành tăng nặng:

23


phạt tù từ 03 năm đến mười năm khi có một trong các tình tiết sau: có tổ
chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn, phạm tội nhiều lần, có tính chất chuyên
nghiệp... Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong việc quy định các tình tiết
tăng nặng giữa hai tội trên bởi lẽ, đối với tội rửa tiền, thực tiễn trong những
năm gần đây cho thấy chủ thể của loại tội phạm này rất đa dạng, hơn nữa
không chỉ là người Việt Nam mà đã xuất hiện nhiều công dân nước ngồi,
người khơng quốc tịch, núp dưới danh nghĩa các doanh nhân, các tập đồn tư
bản để thơng qua hình thức đầu tư liên doanh, liên kết với nước ta xây dựng
nhà máy, đầu tư các hạng mục cơng trình…
Tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự cũng quy định mức hình phạt
nhẹ hơn Điều 180 Bộ luật hình sự. Nếu như khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự

ngồi việc quy định tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng cịn có quy định tình tiết thu lời bất chính lớn hoặc đặc biệt lớn;
tiền, tài sản có giá trị đặc biệt lớn. Việc đánh giá mức độ của hậu quả do tội
phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
còn phải tùy vào từng trường hợp cụ thể bởi lẽ việc xác định hậu quả thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra nằm ngoài giá trị tài sản do phạm tội mà có.
Khoản 4 Điều 251 và khoản 4 Điều 180 Bộ luật hình sự đều quy định
người phạm tội có thể phải chịu hình phạt bổ sung. Tuy nhiên mức phạt ở hai
tội này có sự khác biệt. Tại khoản 4 Điều 180 Bộ luật hình sự thì người phạm
tội có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, tịch thu một phần
hoặc tồn bộ tài sản thì tại khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự, mức phạt tiền
được mở rộng hơn " người phạm tội có thể bị tịch thu tài sản, phạt tiền đến ba
lần số tiền hoặc giá trị tài sản được hợp pháp hóa ". Ngồi ra đối với loại tội
này người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm cơng việc nhất định từ một đến năm năm.
Tóm lại, mặc dù có những điểm khác biệt, tuy nhiên tội rửa tiền và tội
làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả đều

24


có đối tượng tác động của tội phạm là tiền, đều gây ảnh hưởng xấu đến việc thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh quốc gia, đến trật tự an toàn xã hội, đến an toàn hệ thống tài chính,
tiền tệ quốc gia, đến trật tự quản lý kinh tế và các hậu quả phi vật chất khác.
1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH
TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ

1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1985

Từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đã mở ra thời kỳ mới cho đất nước
Việt Nam, xóa bỏ hoàn toàn chế độ nửa thuộc địa phong kiến, lập nên Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước của nhân dân lao động do Đảng
lãnh đạo. Cùng với việc củng cố, bảo vệ chính quyền non trẻ, Đảng và Nhà
nước ta đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng và áp dụng pháp luật để bảo
vệ Tổ quốc. Do chưa thể có ngay các văn bản pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội ở đất nước mới được giải phóng, Chính phủ nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 47 ngày 10 tháng 10 năm 1945 về
việc tạm thời sử dụng luật lệ cũ với điều kiện không được trái với nguyên tắc
độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hịa. Sắc lệnh này là
biện pháp hết sức kịp thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những xáo trộn
trong cuộc sống của nhân dân, đồng thời đảm bảo duy trì trật tự xã hội, không
phương hại đến nền độc lập và nền dân chủ cộng hịa của đất nước mới giành
được chính quyền. Do hoàn cảnh chiến tranh và sự thiếu kinh nghiệm xây
dựng pháp luật, trong suốt một thời gian dài, để điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong xã hội, các chế tài hình sự ở giai đoạn này, là một tập hợp các văn
bản đơn hành với nhiều hình thức tên gọi như sắc lệnh, thông tư, điều lệ... mà
chưa thể cho ra đời một chính sách Luật hình sự được pháp điển hóa.
Ngay khi nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời, tiền đồng cũng
chính thức được in và lưu thông để khẳng định chủ quyền của đất nước tự do.

25


×