Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

(Luận văn thạc sĩ) xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN NGỌC DUY

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN TOẢN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Ngọc Duy




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC Y TẾ ................................................. 5
1.1.

Khái niệm, vai trò của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế .................................................................... 5

1.1.1. Một số khái niệm có liên quan ............................................................. 5
1.1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế .................................. 9
1.1.3. Vai trò của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế ............................................................................................... 16
1.2.

Chủ thể, thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế ............................................................................. 17

1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế ........................................................................................ 17
1.2.2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế ........... 22
1.2.3. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế ................... 32

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC Y TẾ TỪ NĂM 2005
ĐẾN NAY .......................................................................................... 43
2.1.

Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế ............................................................................................... 43

2.1.1. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế ............................................................ 43


2.1.2. Nội dung các quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế ............................................................................................... 48
2.2.

Thực trạng tổ chức hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế ............................................................................. 53

2.2.1. Hệ thống tổ chức của thanh tra về y tế ............................................... 54
2.2.2. Đội ngũ thanh tra viên y tế ................................................................. 60
2.2.3. Điều kiện bảo đảm cho hoạt động thanh tra y tế ................................ 63
2.2.4. Phương thức và hiệu quả thanh tra y tế .............................................. 65
2.2.5. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế ................... 66
2.3.

Nguyên nhân, hạn chế việc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế ............................................................................. 69

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XỬ

PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC Y TẾ ... 73
3.1.

Dự báo tình hình có liên quan đến xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế trong thời gian tới .................................. 73

3.1.1. Xu hướng phát triển của y tế .............................................................. 73
3.1.2. Tình hình vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực y tế ............. 77
3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế......................................................... 79

3.2.1. Tiếp tục hồn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế ........................................................................................ 79
3.2.2. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế ............................................................ 81
3.2.3. Củng cố tổ chức thanh tra chuyên ngành về y tế và nâng cao chất
lượng đội ngũ thanh tra viên y tế ........................................................ 83
3.2.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, các điều kiện bảo
đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế ......................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng


Trang

Bảng 2.1: Phân loại thanh tra viên, chuyên viên thanh tra và
tình hình cấp thẻ thanh tra viên

61

Bảng 2.2: Phân loại thanh tra viên, cán bộ thanh tra Sở Y tế
chuyên trách theo trình độ chun mơn
Bảng 2.3:

62

Trình độ chun mơn nghiệp vụ của cán bộ đảm
nhiệm công tác thanh tra y tế tại địa phương

63

Bảng 2.4: Kết quả xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực
phẩm trong 9 năm (2005 - 2013)

67

Bảng 2.5: Kết quả xử phạt vi phạm hành chính về dược trong 9
năm (2005 - 2013)

68

Bảng 2.6: Kết quả xử phạt vi phạm hành chính về khám bệnh,
chữa bệnh trong 9 năm (2005 - 2013)


68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế nói riêng là cơng cụ quan trọng trong hoạt động quản lý
nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà
nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của
nhân dân được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm.
Trong những năm qua, cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là những thành
tựu quan trọng trong cơng tác y tế dự phịng, khám bệnh, chữa bệnh, dược,
trang thiết bị y tế và tài chính y tế.
Một trong những nguyên nhân để đạt được các thành tựu trên là Nhà
nước đã sử dụng một cách hiệu quả công cụ pháp luật trong công tác quản lý
nhà nước trong lĩnh vực y tế. Chính phủ có ban hành Nghị định số
45/2005/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, đã
tạo được một công cụ pháp lý vô cùng quan trọng để chấn chỉnh trật tự, kỷ
cương trong quản lý nhà nước về y tế.
Tuy nhiên, với sự phát triển của hệ thống y tế trên cả nước bao gồm cả
y tế nhà nước và y tế tư nhân, thì cũng xảy ra khơng ít các trường hợp vi
phạm pháp luật liên quan đến hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân. Theo
báo cáo công tác thanh tra y tế năm 2013 thì việc thanh tra, kiểm tra đã được
tiến hành thường xuyên nhưng vẫn còn những hạn chế cần phải được nghiên
cứu để hồn thiện các cơng cụ pháp luật liên quan đến vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế.
Từ những yêu cầu khách quan trên, học viên đã chọn vấn đề "Xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận

văn cao học của mình.

1


2. Tình hình nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế
Trên thế giới các đề tài nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính nói
chung và có liên quan đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
y tế bói riêng đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, vấn đề xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế dường như vẫn chưa nhận được
sự quan tâm, nghiên cứu nhiều.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có một số tác giả quan tâm
nghiên cứu đến vấn đề quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối
với ngành, lĩnh vực nói riêng nhưng lại ít nghiên cứu đến vấn đề xử phạt vi
phạm hành chính - một cơng cụ trong hoạt động quản lý nhà nước.
Với cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, đây là cơng trình tập trung vào
nghiên cứu các vấn đề cả về lý luận và thực tiễn pháp luật liên quan đến hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến xử phạt vi phạm hành
chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế nói riêng.
- Đánh giá thực trạng soạn thảo, ban hành pháp luật và tổ chức triển
khai thi hành văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực y tế trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2014.
- Dự báo những yếu tố tác động và đề xuất một số giải pháp nâng

2


cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực y tế, xử phạt
vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế;
- Các tài liệu, cơng trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực y tế, quản lý
nhà nước, quản lý nhà nước bằng pháp luật và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế;
- Các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề về thực hiện công tác xử
phạt vi phạm hành chính nói chung và cơng tác xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế nói riêng;
- Các tài liệu khác có liên quan đến cơng tác xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế;
- Hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc chủ thể
và đối tượng của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Khảo sát từ năm 2005 đến nay.
- Về không gian: Trên phạm vi toàn quốc, bao gồm Bộ Y tế, Bộ Công
thương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac - Lê

nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt đường lối, quy định nghị quyết Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân trong tình hình mới.

3


5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp: Phương pháp này chủ yếu tập
trung nghiên cứu, tham khảo, phân tích các sách, tài liệu, cơng trình nghiên
cứu khoa học, các số liệu khoa học đã được cơng bố ở trong và ngồi nước có
liên quan đến luận văn.
- Phương pháp khảo sát thực tiến: Để đánh giá thực trạng công tác xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế một cách khách quan, trung thực
và đánh giá tính khả thi của các giải pháp được xây dựng.
- Các phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác: Để tăng thêm độ tin cậy
của các thông tin đã thu thập được từ các phương pháp khác, Luận văn còn sử
dụng thêm một số phương pháp bổ trợ khác như so sánh, quy nạp diễn giải và
tiến hành thu thập, phân tích ý kiến của các chun gia có kinh nghiệm về
quản lý, chính sách, pháp luật về y tế …
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và
mục lục, nội dung của Luận văn được kết cấu thành 03 chương sau đây:
Chương 1. Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
y tế.
Chương 2. Thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế từ năm 2005 đến nay.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế.


4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC Y TẾ
1.1. Khái niệm, vai trị của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế
1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
Để hiểu được khái niệm pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế trước hết cần phải tìm hiểu một số khái niệm liên quan:
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến
hàng ngày trong đời sống xã hội, kinh tế, từ những hành vi nhỏ như vứt rác
không đúng nơi, đúng chỗ, đến những hành vi có tính chất, mức độ lớn hơn
như điều khiển môtô, xe máy đi vào đường một chiều, vượt đèn đỏ, hoặc
những hành vi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh như tiến hành kinh
doanh mà không đăng ký theo quy định của pháp luật, trốn thuế, thay đổi trụ
sở của doanh nghiệp mà không thông báo, hay những hành vi trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường như vận chuyển và xử lý chất thải, các chất gây ô nhiễm
môi trường không đúng theo quy định về bảo vệ môi trường; những hành vi
trong lĩnh vực thương mại như xuất nhập khẩu hàng hóa khơng đúng giấy
phép... Tóm lại, những hành vi vi phạm pháp luật trên thể hiện rất đa dạng,
phong phú, ở hầu hết các lĩnh vực của quản lý nhà nước, song đều có chung
một số đặc điểm sau:
Một là, vi phạm hành chính đều là hành vi trái pháp luật, xâm phạm các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước.
Hai là, chủ thể của hành vi vi phạm hành chính là do cá nhân, tổ chức
thực hiện do cố ý hoặc vơ ý. Đối với tổ chức, thì hành vi này được thực hiện


5


bởi cá nhân nhưng dưới danh nghĩa tổ chức (do tổ chức giao, phân công hoặc
thực hiện hành vi nhân danh tổ chức đó). Các chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành
chính. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức vi phạm hành chính là
pháp nhân, tổ hợp tác và hộ gia đình theo quy định của Bộ luật dân sự thực
hiện hành vi vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức nước ngồi vi phạm hành
chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay
mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ Việt Nam thì bị xử phạt hành
chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Trách nhiệm pháp lý hành chính phát sinh như một tất yếu khách
quan, có nghĩa là khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính cá nhân, tổ chức
phải chịu những hình thức xử lý do pháp luật quy định. Trách nhiệm hành
chính tồn tại dưới hình thức các chế tài hành chính, thơng thường là phạt
tiền, cảnh cáo và có thể đồng thời còn áp dụng các biện pháp hành chính
khác. So với trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính phong phú hơn,
song ít nghiêm khắc hơn.
Ba là, mức độ nguy hiểm của hành vi thấp hơn tội phạm. Đây là dấu
hiệu cơ bản nhất để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm. Tuy nhiên,
tính chất và mức độ xâm hại của hành vi vi phạm hành chính mặc dù nguy
hiểm cho xã hội song chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định
tại Bộ luật hình sự.
Bốn là, pháp luật quy định hành vi đó phải bị xử phạt vi phạm hành
chính. Vi phạm hành chính cũng như mọi hành vi vi phạm pháp luật khác đều
xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác, khách
thể của vi phạm hành chính là quan hệ xã hội về quản lý nhà nước trong các


6


lĩnh vực bị hành vi vi phạm xâm hại. Khách thể của vi phạm pháp luật chính là
yếu tố quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi vi phạm pháp luật loại này. Do các quan hệ trong quản lý nhà nước rất đa
dạng và phong phú nên khách thể của hành vi vi phạm pháp luật hành chính
cũng rất phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực của quản lý nhà nước. được quy
định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật. “Vi phạm hành chính là
hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” [32, Khoản 1, Điều 2].
1.1.1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử lý hành chính thực chất là một loại hoạt động quản lý hành chính
nhà nước. Đó là loại hoạt động đặc biệt và rất phức tạp bao gồm một loạt các
hành vi cụ thể liên quan mật thiết với nhau như phân tích, đánh giá tính chất,
mức độ của vi phạm hành chính, xác định thẩm quyền xử phạt, đối chiếu với
quy định của pháp luật, áp dụng hình thức và mức phạt và ra quyết định xử
phạt hành chính.
Quyết định xử lý hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả
pháp lý đặc biệt, làm phát sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính, tức là buộc họ phải chịu hậu quả bất lợi trước Nhà nước về
tinh thần (bị hạn chế quyền) hoặc về tài sản (bị phạt tiền, bị tịch thu tang vật,
phương tiện...).
Xử phạt vi phạm hành chính có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế
nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước. Tính cưỡng chế và tính quyền lực
nhà nước thể hiện ở chỗ hoạt động xử lý hành chính ln ln được các cơ
quan hoặc cán bộ có thẩm quyền thực hiện. Chỉ có các cơ quan hoặc cán bộ

nhà nước nào được Nhà nước trao thẩm quyền xử lý hành chính và được ghi

7


rõ trong các văn bản pháp luật có quy định về xử lý hành chính mới có
quyền quyết định xử lý. Xử lý hành chính là phản ứng của Nhà nước trước
các hành vi xâm hại quy tắc quản lý nhà nước. Biểu hiện của phản ứng đó
chính là việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. Việc áp dụng các biện
pháp xử phạt này có tác dụng trực tiếp điều chỉnh hành vi xử sự của con
người vi phạm, tức là buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi trước
Nhà nước và có tác dụng đình chỉ vi phạm hành chính qua đó mà bảo vệ và
duy trì trật tự quản lý nhà nước.
Hai là, cơ sở để xử phạt hành chính là vi phạm hành chính. Chỉ có hành
vi nào xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức phải truy cứu
trách nhiệm hình sự do các cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực hiện với
lỗi cố ý hay vơ ý mới bị xử phạt hành chính. Đặc điểm có tính ngun tắc trên
đây đã được khẳng định tại Điểm d Khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành
chính: "Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính
do pháp luật quy định".
Từ quy định trên, khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ
quan hoặc cán bộ nhà nước có thẩm quyền phải xác định rõ có vi phạm hành
chính xảy ra hay khơng, tính chất và mức độ của vi phạm như thế nào, hành vi
vi phạm đó có quy định trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành
chính hay chưa.
Ba là, hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành qua nhiều khâu,
nhiều giai đoạn nhưng kết quả của hoạt động này phải được thể hiện bằng
quyết định xử phạt hành chính. Trong xử phạt hành chính, các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành xử phạt luôn được thực hiện hai loại hành vi: 1- hành vi
ban hành quyết định xử phạt. Quyết định xử phạt hành chính phải được thể

hiện bằng văn bản hay bằng một hình thức khác do pháp luật quy định; 2hành vi hành chính khác, như nhằm đình chỉ hành vi vi phạm, lập biên bản vi

8


phạm, giải thích hành vi vi phạm và thơng báo điều khoản văn bản pháp luật
được áp dụng cho cá nhân hoặc tổ chức vi phạm...
Hai loại hành vi trên ln có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó, hành vi ban hành quyết định xử phạt là cơ bản và chủ yếu
nhất. Các hành vi hành chính khác được thực hiện nhằm hướng tới việc ra
quyết định xử phạt hoặc thực hiện trên cơ sở quyết định xử phạt. Đặc biệt, khi
ban hành quyết định xử phạt sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là làm phát sinh trách
nhiệm hành chính. Quyết định xử phạt hành chính là hình thức thể hiện cơng
khai ý chí và thái độ của Nhà nước phản ứng trước các hành vi vi phạm hành
chính và mức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
Bốn là, hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành trong khuôn khổ pháp
luật và phải tuân theo pháp luật về trình tự, thủ tục hành chính. Tất cả các cơ quan,
cán bộ có thẩm quyền xử phạt hành chính khi thực hiện các hành vi xử phạt đều
phải tuân theo các trình tự, thủ tục hành chính do pháp luật quy định chứ không
tuân theo các quy định về tố tụng hình sự kể cả trường hợp Tịa án nhân dân thực
hiện quyền xử phạt hành chính. “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có
thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính” [32, Khoản 2, Điều 1]
1.1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
Hoạt động y tế có những đặc thù riêng vì bản chất của các hoạt động
này là mang tính nhân đạo, nhân văn, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính
mạng con người. Do đó, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động y tế
là rất cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu trong chăm sóc sức khỏe mà Nghị

quyết số 46-NQ/TW ngày 23/ 02/2005 của Bộ Chính trị về cơng tác bảo vệ,

9


chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Nghị quyết Đại
hội Đảng tồn quốc lần thứ X và các văn kiện khác của Đảng đã chỉ ra là:
Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khỏe, tăng
tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nịi, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực, hình thành hệ thống
chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở và thói quen
giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [1, tr.3].
Từ khái niệm vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật hành chính cùng
với những phân tích ở trên có thể hiểu khái niệm vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế như sau: vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là những hành
vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm các quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế được quy
định cụ thể tại Điều 1 của Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 (sau
đây viết tắt là Nghị định 176/2013/NĐ-CP) của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, Điều 1 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP
ngày 14/11/2013 (sau đây viết tắt là Nghị định 176/2013/NĐ-CP) của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm và các văn bản
pháp luật khác có quy định hành vi và chế tài xử phạt mà văn bản đó có xác lập
thẩm quyền xử phạt cho cơ quan y tế, bao gồm:
+ Vi phạm các quy định về y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS;
+ Vi phạm các quy định về khám bệnh, chữa bệnh;
+ Vi phạm các quy định về dược, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế;

+ Vi phạm các quy định về bảo hiểm y tế;
+ Vi phạm các quy định về dân số;
+ Vi phạm hành chính về an tồn thực phẩm.

10


1.1.2.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là thuật ngữ pháp lý
dùng để chỉ việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là hoạt động do cơ
quan y tế hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định
tiến hành đối với cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế có lỗi cố ý hoặc vô ý mà không phải là
tội phạm theo các quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Xuất phát từ khái niệm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế ở trên cho thấy, ngoài các đặc điểm chung của xử phạt vi phạm
hành chính thì xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế có một số
đặc điểm riêng sau:
Một là, căn cứ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là các
văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan ban hành gồm:
- Quốc hội ban hành các luật trong đó có nhiều quy định về xử phạt
vi phạm hành chính hoặc các biện pháp xử phạt hành chính khác. Ví dụ, tại
Điều 6 của Luật an toàn thực phẩm, hay tại Luật bảo vệ môi trường, Luật
thương mại....
Năm 2012, Quốc hội ban hành Luật xử phạt vi phạm hành chính xác
định các hành vi vi phạm hành chính, thời hiệu xử phạt hành chính, nguyên
tắc xử phạt hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính,
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính... và khung phạt vi phạm hành chính
về y tế được quy định như sau:

+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm hành chính về
dân số là 30.000.000 đồng đối với cá nhân và 60.000.000 đồng đối
với tổ chức.
+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm hành chính về

11


y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS là 50.000.000 đồng đối
với cá nhân và 100.000.000 đồng đối với tổ chức.
+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm hành chính về
bảo hiểm y tế là 75.000.000 đồng đối với cá nhân và 150.000.000
đồng đối với tổ chức.
+ Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm hành chính về
khám bệnh, chữa bệnh, dược, mỹ phẩm, trang thiết bị y tế và an toàn
thực phẩm là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng
đối với tổ chức [19, Khoản 1, 2, 3, 4, Điều 1].
- Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật xử
phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước (51 Nghị định),
trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước về y tế, các nghị định quy định về chế
độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. Cụ thể như Nghị định số
176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2014 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế, Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày
14/11/2014 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an tồn
thực phẩm, Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2014 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch
và quảng cáo, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...
Hai là, vi phạm pháp luật hành chính diễn ra phổ biến hàng ngày, hàng

giờ trong đời sống xã hội dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Và việc
áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật hành chính do nhiều cơ quan,
nhiều người có thẩm quyền thực hiện (ví dụ, bộ đội biên phòng, quản lý thị
trường, một số thanh tra chuyên ngành...). Hơn nữa việc áp dụng pháp luật xử
phạt vi phạm hành chính được thực hiện trực tiếp với người dân, với các tổ

12


chức và cũng trực tiếp động chạm đến các quyền con người và quyền cơ bản
của cơng dân, vì vậy cơng tác giám sát, kiểm tra rất khó thực hiện sâu sát và
có hiệu quả. Điều này địi hỏi người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính trong khi thực thi cơng vụ phải có tinh thần trách nhiệm, tính tự giác và
ý thức kỷ luật cao. Áp dụng các biện pháp hành chính phải phù hợp với quy
định của Luật xử lý vi phạm hành chính, nghị định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế và các văn bản pháp luật hiện hành về tổ chức hoạt
động, chức năng nhiệm vụ của cơ quan y tế. Người có thẩm quyền phải thực
hiện đúng mục đích và yêu cầu của văn bản pháp luật cụ thể quy định xử phạt
vi phạm hành chính.
Ba là, trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà
nước trong từng lĩnh vực, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật và xử phạt vi phạm hành chính để đáp ứng nhu
cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế. Ngồi Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 được Quốc hội ban
hành theo thẩm quyền, Chính phủ có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật quy định hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu
quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực về y tế và lĩnh
vực khác có liên quan đến lĩnh vực y tế. Luật này cũng không cho phép Hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh trở xuống được ban hành văn
bản quy định về hành vi, chế tài xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp

xử lý hành chính. Điều này đã cho thấy, việc ban hành quy định xử phạt vi
phạm hành chính chỉ thuộc về thẩm quyền của cơ quan Nhà nước ở trung
ương, các cơ quan nhà nước ở địa phương có trách nhiệm thực hiện những
quy định, xử phạt vi phạm hành chính về y tế do các cơ quan quản lý nhà
nước ở Trung ương quy định.
Bốn là, khi thực hiện xử phạt vi phạm pháp luật hành chính, người có

13


thẩm quyền xử phạt chỉ được thực hiện quyền xử phạt của mình trong phạm
vi mà pháp luật đã quy định.Trong trường hợp quyết định xử phạt hoặc quyết
định áp dụng biện pháp hành chính khác vượt thẩm quyền được pháp luật quy
định cho phép là vi phạm pháp luật và phải bị xử lý. Ví dụ như khoản 1 Điều
46 của Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 quy định:
1. Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh
tra chuyên ngành đang thi hành công vụ có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 1% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực
tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá
500.000 đồng;.... [32, Khoản 1, Điều 46].
Năm là, kết quả của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế thể hiện ở các quyết định xử phạt hành chính, quyết định áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Việc quyết định áp
dụng các hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành
chính thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, qua đó giáo dục ý thức tuân thủ
pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế.
Biện pháp xử lý hành chính khác trong lĩnh vực y tế như các biện pháp
khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính về y tế gây ra. Về bản chất, biện

pháp này khơng có tính chất trừng phạt người vi phạm hành chính mà chỉ
nhằm mục đích khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính để lại trên thực tế.
Biện pháp này gồm: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; Buộc tháo dỡ
cơng trình, phần cơng trình xây dựng khơng có giấy phép hoặc xây dựng
khơng đúng với giấy phép; Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ơ
nhiễm mơi trường, lây lan dịch bệnh; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương

14


tiện; Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật
nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; Buộc cải
chính thơng tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm
trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; Buộc thu
hồi sản phẩm, hàng hóa khơng bảo đảm chất lượng; Buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền
bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán,
tiêu hủy trái quy định của pháp luật [32, Khoản 1, Điều 28]; Buộc tổ chức
thực hiện các biện pháp tẩy uế, khử khuẩn chất thải, quần áo, đồ dùng, môi
trường xung quanh, phương tiện vận chuyển người bệnh; Buộc tiếp nhận
người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A; Buộc thực hiện việc cách ly y
tế, cưỡng chế cách ly y tế, xử lý y tế đối với người, phương tiện vận tải, hàng
hóa mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A; Buộc tiếp nhận
người nhiễm HIV, tiếp nhận và thực hiện việc mai táng, hỏa táng đối với thi
hài, hài cốt người nhiễm HIV; Buộc xin lỗi trực tiếp hoặc cơng khai trên
phương tiện thơng tin đại chúng; Buộc hồn trả số tiền đã vi phạm vào tài
khoản thu của quỹ bảo hiểm y tế hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Buộc
hoàn trả số tiền lãi của số tiền bảo hiểm y tế chưa đóng, chậm đóng vào tài
khoản thu của quỹ bảo hiểm y tế; Buộc hoàn trả số tiền lãi cho khoản tiền

chênh lệch do kê khai sai hoặc khoản tiền nộp chậm; Buộc hoàn trả chi phí
khám bệnh, chữa bệnh theo phạm vi quyền lợi và mức hưởng bảo hiểm y tế
mà đối tượng đã phải tự chi trả. Trường hợp khơng hồn trả được cho đối
tượng thì nộp vào ngân sách nhà nước; Buộc xóa bỏ, gỡ bỏ nội dung về
phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn; Buộc tháo dụng cụ tử
cung, thuốc cấy tránh thai; Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu
hồi thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng, thẻ bảo hiểm y tế, số tiếp nhận phiếu
công bố, rút số đăng ký lưu hành thuốc [19, Điều 3]; Buộc thực hiện kiểm tra

15


vệ sinh thú y đối với sản phẩm động vật trên cạn chưa qua kiểm tra vệ sinh
thú y trước khi sản xuất, chế biến thực phẩm; Buộc chuyển đổi mục đích sử
dụng hàng hóa vi phạm; Buộc hủy bỏ kết quả kiểm nghiệm được thực hiện từ
mẫu thực phẩm bị đánh tráo hoặc giả mạo hoặc phiếu kết quả kiểm nghiệm
được cấp sai quy định; Buộc tiêu hủy giấy tờ giả; Buộc chịu mọi chi phí cho
việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm
trong trường hợp xảy ra ngộ độc thực phẩm [20, Khoản 3 Điều 3].
1.1.3. Vai trò của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế

Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là một bộ
phận của pháp luật xử lý vi phạm hành chính, và là tổng thể các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh do có hành vi vi phạm hành chính về y tế, bao gồm các quy phạm quy
định hình thức xử phạt vi phạm và một số biện pháp xử lý hành chính trong
lĩnh vực y tế.
Với tư cách là một yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có
vai trị quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội. Điều
này được thể hiện cụ thể đối với pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực y tế đó là:
+ Bảo đảm giữ vững kỷ cương pháp chế trong quản lý nhà nước về lĩnh
vực y tế. Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là tổng thể
các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính về y tế bao gồm các hình
thức xử phạt vi phạm và một số biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực y
tế. Như vậy, Nhà nước sử dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế như một phương tiện để thực hiện quyền lực của mình trong
quản lý, kiểm tra, thanh tra các hoạt động của các đối tượng tham gia hoạt
động y tế. Nhờ có sự quy định chặt chẽ của pháp luật xử phạt vi phạm hành

16


chính trong lĩnh vực y tế mà các đối tượng tham gia hoạt động y tế thực hiện
một cách nghiêm túc bảo đảm thực hiện đường lối, chủ trương của đảng, pháp
luật của nhà nước; bảo đảm thực hiện tốt cải cách hành chính nhà nước, giảm
phiền hà, tiêu cực trong hoạt động y tế bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh
kinh tế, trật tự an toàn xã hội đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế cịn góp
phần giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ công chức cũng như các đối tượng
tham gia hoạt động y tế bởi với các quy định chặt chẽ các chủ thể buộc phải
tự giác chấp hành nếu không sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đồng
thời, pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế cũng là các
biện pháp ngăn chặn hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật y tế; góp phần
hồn thiện pháp luật, bộ máy cán bộ công chức y tế.
1.2. Chủ thể, thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế
1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế

Các chủ thể được nhà nước trao cho thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính và được ghi rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc xử phạt vi
phạm hành chính được giao cho nhiều chức danh cụ thể có thẩm quyền khác
nhau thực hiện theo quy định của pháp luật.
Các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong tất cả các
lĩnh vực quản lý nhà nước gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, chiến sĩ
Công an nhân dân đang thi hành công vụ, trạm trưởng, đội trưởng, trưởng
Công an cấp xã, Trưởng đồn Công an, Trạm trưởng Trạm Công an cửa khẩu,
khu chế xuất, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Giám đốc Sở Cảnh sát phòng cháy,
chữa cháy, Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ, Cục trưởng Cục An ninh
kinh tế, Cục trưởng Cục An ninh văn hóa, tư tưởng, Cục trưởng Cục An ninh

17


thông tin, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cục
trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Cục trưởng Cục Cảnh
sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Cục trưởng Cục
Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý, Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông
đường bộ, đường sắt, Cục trưởng Cục Cảnh sát đường thủy, Cục trưởng Cục
Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ, cứu nạn, Cục trưởng Cục Cảnh
sát bảo vệ, Cục trưởng Cục Theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp,
Cục trưởng Cục Cảnh sát phịng chống tội phạm về mơi trường, Cục trưởng
Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Cục trưởng Cục
Quản lý xuất nhập cảnh, Chiến sĩ Bộ đội biên phịng đang thi hành cơng vụ,
Trạm trưởng, Đội trưởng, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải
đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng biên
phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh, Chỉ huy
trưởng Hải đồn biên phịng trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Cảnh
sát viên Cảnh sát biển đang thi hành công vụ, Tổ trưởng Tổ nghiệp vụ Cảnh

sát biển, Đội trưởng Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển, Trạm trưởng Trạm Cảnh
sát biển, Hải đội trưởng Hải đội Cảnh sát biển, Hải đoàn trưởng Hải đoàn
Cảnh sát biển, Chỉ huy trưởng Vùng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Cảnh sát
biển, Công chức Hải quan đang thi hành công vụ, Đội trưởng thuộc Chi cục
Hải quan, Đội trưởng thuộc Chi cục kiểm tra sau thông quan, Chi cục trưởng
Chi cục Hải quan, Chi cục trưởng Chi cục kiểm tra sau thông quan, Đội
trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Đội trưởng Đội kiểm sốt chống bn lậu, Đội trưởng Đội thủ tục
Hải quan, Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển và Đội trưởng Đội kiểm
soát bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thuộc Cục điều tra chống bn lậu Tổng cục
Hải quan, Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra
sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên

18


tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan,
Kiểm lâm viên đang thi hành công vụ, Trạm trưởng Trạm Kiểm lâm, Hạt
trưởng Hạt Kiểm lâm, Đội trưởng Đội Kiểm lâm cơ động và phòng cháy,
chữa cháy rừng, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm, Đội trưởng Đội Kiểm lâm
đặc nhiệm thuộc Cục Kiểm lâm, Cục trưởng Cục Kiểm lâm, Công chức Thuế
đang thi hành công vụ, Đội trưởng Đội Thuế, Chi cục trưởng Chi cục Thuế,
Cục trưởng Cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Kiểm sốt viên thị
trường đang thi hành cơng vụ, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường, Chi Cục
trưởng Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Cơng thương, Trưởng phịng
chống bn lậu, Trưởng phịng chống hàng giả, Trưởng phịng kiểm sốt chất
lượng hàng hóa thuộc Cục Quản lý thị trường, Cục trưởng Cục Quản lý thị
trường, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành đang thi hành công vụ, Chánh Thanh tra sở, Chánh Thanh tra Cục
Hàng không, Chánh Thanh tra Cục Hàng hải, Chánh thanh tra Cục An toàn

bức xạ và hạt nhân, Chánh thanh tra Ủy ban chứng khoán Nhà nước; Chi cục
trưởng Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Chi cục trưởng Chi cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế, Chi cục trưởng Chi cục về bảo vệ thực
vật, thú y, thủy sản, quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, thủy lợi, đê
điều, lâm nghiệp, phát triển nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Giám đốc Trung tâm Tần số khu vực và các chức danh tương
đương được Chính phủ giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, Cục
trưởng Cục Dự trữ Nhà nước khu vực, Cục trưởng Cục Thống kê, Cục trưởng
Cục kiểm sốt ơ nhiễm, Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và các chức danh tương đương được Chính phủ giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, Chánh Thanh tra bộ, cơ quan ngang
bộ, Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng
cục Thống kê, Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng,

19


Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi,
Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản,
Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản, Tổng cục trưởng Tổng
cục Môi trường, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai, Giám đốc Kho
bạc Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Tổng cục trưởng
Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch
hóa gia đình, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài,
Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Trưởng Ban Tơn giáo Chính
phủ, Cục trưởng Cục Hóa chất, Cục trưởng Cục Kỹ thuật an tồn và mơi
trường cơng nghiệp, Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam, Cục trưởng Cục
Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, Cục
trưởng Cục Hàng khơng Việt Nam, Cục trưởng Cục An tồn bức xạ và hạt
nhân, Cục trưởng Cục Thú y, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, Cục trưởng
Cục Trồng trọt, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Cục trưởng Cục Quản lý chất

lượng nông lâm sản và thủy sản, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển
nông thôn, Cục trưởng Cục Chế biến, thương mại nông lâm thủy sản và nghề
muối, Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Cục trưởng Cục Tần số vô
tuyến điện, Cục trưởng Cục Viễn thơng, Cục trưởng Cục Quản lý phát thanh,
truyền hình và thơng tin điện tử, Cục trưởng Cục Báo chí, Cục trưởng Cục
Xuất bản, Cục trưởng Cục Quản lý dược, Cục trưởng Cục Quản lý khám,
chữa bệnh, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Cục trưởng Cục Y tế dự
phịng, Cục trưởng Cục An tồn vệ sinh thực phẩm và các chức danh tương
đương được Chính phủ giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành,
Trưởng đại diện Cảng vụ hàng hải, Trưởng đại diện Cảng vụ hàng không,
Trưởng đại diện Cảng vụ đường thủy nội địa, Giám đốc Cảng vụ hàng hải,
Giám đốc Cảng vụ hàng không, Giám đốc Cảng vụ đường thuỷ nội địa thuộc
Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Thẩm phán chủ tọa phiên toà, Thẩm phán

20


×