Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Thực trạng sản xuất và cơ hội tiếp cận chứng nhận của các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ tại đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.65 MB, 17 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ CƠ HỘI TIẾP CẬN CHỨNG NHẬN
CỦA CÁC HỘ NUÔI TÔM QUY MÔ NHỎ TẠI ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
Phan Thanh Lâm1*
TĨM TẮT
Ni tơm đã trở thành ngành nghề chính của nhiều hộ dân vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL). Tuy nhiên, nghề ni tơm cịn chưa thực sự bền vững. Nghiên cứu này được thực
hiện để đánh giá thực trạng sản xuất và cơ hội của các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ tiếp cận chứng nhận
thực phẩm quốc tế. Khảo sát được tiến hành tại bốn tỉnh ven biển thuộc vùng ĐBSCL, phương pháp
lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng được áp dụng để chọn vùng nghiên cứu và chọn hộ điều tra. Tổng
số 230 hộ nuôi tơm thuộc 5 hệ thống ni tơm điển hình ở ĐBSCL đã được lựa chọn để phỏng vấn
trực tiếp. Kết quả khảo sát cho thấy hiện nay nhiều trang trại ni tơm đã có khả năng đạt được một
số tiêu chí của các chứng nhận quốc tế, như: hệ số FCR (≤1,8 mơ hình ni tơm sú, và ≤1,5 mơ
hình nuôi tôm thẻ chân trắng), mật độ thả giống (≤15 PL/m2 trong hệ thống nuôi tôm quy mô nhỏ
(QMN)), tỷ lệ sống (>25% trong hệ thống nuôi tôm QMN, và > 60% trong hệ thống nuôi tôm quy
mô lớn (QML), khơng sử dụng hóa chất và kháng sinh cấm, khơng sử dụng giống hoang dã, các
mối quan hệ cộng đồng, quyền sở hữu trang trại, bảo vệ tính đa dạng sinh học. Tuy nhiên, vẫn cịn
nhiều tiêu chí chứng nhận mà các trang trại không thể đáp ứng như: quản lý nước thải (hầu hết các
trang trại còn xả chất thải ao nuôi ra môi trường mà không xử lý triệt để, và khu vực chứa bùn cũng
chưa có hoặc đảm bảo khả năng chứa), đăng ký trại (nhiều trang trại chưa tiến hành đăng ký), quản
lý tỷ lệ chết (thiếu phương pháp thích hợp), lao động (thiếu hợp đồng lao động, hoặc chỉ hợp đồng
miệng), vệ sinh trang trại và lưu trữ hồ sơ theo yêu cầu. Khoảng cách từ thực trạng sản xuất tôm đến
các tiêu chuẩn chứng nhận cịn khá xa, vì vậy các trang trại ni tơm đặc biệt là hộ quy mơ nhỏ cần
có những cải thiện để hoàn chỉnh hơn điều kiện cơ sở hạ tầng và kỹ thuật canh tác để xúc tiến việc
áp dụng các chứng nhận quốc tế.
Từ khóa: thực trạng canh tác, hộ quy mô nhỏ, chứng nhận thực phẩm.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghề nuôi tôm nước lợ mặn diễn ra vùng


ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
với các phương thức nuôi khá đa dạng (Vu và
Phan, 2008). Các đối tượng tơm ni đóng góp
một vai trị quan trọng trong ngành nuôi trồng
thủy sản (NTTS) Việt Nam, nuôi tôm không chỉ
đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu thủy
sản mà cịn tạo cơng ăn việc làm và tăng thu
nhập cho người dân địa phương. Hiện nay, số
trang trại nuôi tôm quy mô nhỏ thuộc sở hữu
và quản lý bởi các hộ gia đình vẫn chiếm ưu
thế trong vùng ĐBSCL (Tran et al., 2013). Nuôi
trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi thủy sản quy

mô nhỏ vẫn được coi là rất dễ bị tổn thương
trong chuỗi giá trị ngành hàng tôm (Washington
và Ababouch, 2011). Mặc dù vậy,các trang
trại nuôi tôm quy mô nhỏ vẫn sẽ được duy trì
trong kế hoạch phát triển NTTS thời gian tới,
vì họ chiếm trên 200.000 trang trại nuôi tôm tại
ĐBSCL (Phan et al., 2011; Tran et al., 2013).
Người nuôi tôm quy mô nhỏ chủ yếu sinh sống
ở các khu vực ven biển, và đất đai của họ được
sử dụng chủ yếu cho nuôi tôm. Nuôi tôm là nghề
nghiệp chính của họ, và họ có rất ít cơ hội để đa
dạng sinh kế khác (Tran et al., 2013). Nghiên
cứu của tác giả Irz et al., (2007) đã cho thấy rất

1. Phòng Sinh thái Nghề cá &Tài nguyên Thủy sinh vật, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2.
* Email:


120

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
ít bằng chứng về việc phát triển NTTS sẽ loại
trừ các hộ quy nhỏ ra khỏi ngành nghề này và
thu nhập từ NTTS rõ ràng là có sự chênh lệch
lớn giữa các quy mô trang trại, hộ quy mô nhỏ
thường gặp rất nhiều khó khăn khi gặp những sự
cố trong q trình sản xuất.
Mặt khác, xu hướng thị trường đối với các
sản phẩm thủy sản được chứng nhận đang gia
tăng và khách hàng chú ý nhiều hơn để kiểm
soát chất lượng trên tất cả quá trình sản xuất
của sản phẩm (Corsin et al., 2007; Reilly, 2007;
Yamprayoon và Sukhumparnich, 2010). Gần
đây, chứng nhận thực phẩm trong lĩnh vực
NTTS đã được các vùng nuôi của các Công ty
chế biến thủy sản (CTCBTS) quan tâm thực hiện
(Belton et al., 2011; Bush et al., 2010). Một số
các trang trại lớn thuộc CTCBTS đã đạt được
chứng chỉ như ASC, GAA-BAP và GlobalGAP
để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng của họ
(Fisheries Directorate, 2013; Lam và Truong,
2010). Trong khi đó, các trang trại quy mơ nhỏ
khơng có khả năng để đạt được các chứng nhận
thực phẩm do năng lực hạn chế của họ (Belton
và Little, 2011; Bush và Belton, 2012). Trang

trại quy mô nhỏ thường không quan tâm nhiều
đến việc xin chứng nhận, vì họ cho rằng hiệu
quả kinh tế so với sản phẩm không chứng nhận
là không khác biệt. Hiệu quả kinh tế của sản
xuất được chứng nhận có thể khơng cao hơn
nhiều so với sản xuất khơng cần chứng nhận,
vì đầu tư tốn kém hơn và rất khó khăn để đạt
được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của các chứng
nhận sản phẩm (Dey và Ahmed, 2005; Haugen
et al., 2013). Mặc dù vậy, việc đánh giá tính bền
vững của nghề nuôi tôm dường như chỉ được
thực hiện thông qua các chương trình chứng
nhận sản phẩm. Như vậy, để đánh giá tính bền
vững nghề ni tơm vùng ĐBSCL thì việc phân
tích thực trạng sản xuất nên được đánh giá theo
các phương thức ni tơm, từ đó sẽ xác định
được những rào cản chính để trang trại ni

tơm tiếp cận các chứng nhận sản phẩm. Vì vậy,
nghiên cứu này nhằm phân tích các đặc điểm
chính về sự khác biệt của thực trạng sản xuất
giữa các hệ thống nuôi tôm. Nghiên cứu cũng
nhằm đưa ra những đánh giá về khoảng cách
giữa các phương thức nuôi tôm hiện nay và các
tiêu chuẩn của một số chứng nhận thực phẩm
thủy sản.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Khung chọn mẫu khảo sát
* Lựa chọn địa điểm khảo sát: Dữ liệu về

nuôi tôm của các hệ thống trang trại ở tám tỉnh
của ĐBSCL đã được thu thập và phân tích. Sự
phân bố của các trại ni tơm theo vùng ni
tơm được phân tích, và dựa vào đó các vùng
khảo sát đã được lựa chọn theo phương pháp
chọn mẫu có chủ đích. Các tiêu chí để lựa chọn
địa điểm khảo sát là: 1) Mức độ tập trung của
các hệ thống nuôi tôm (như: hệ thống nuôi tôm
trong rừng ngập mặn (TR) và quảng canh cải
tiến chuyên tôm (QCCT) tại tỉnh Cà Mau; bán
thâm canh/thâm canh (BTC/TC) và hệ thống
luân canh lúa – tôm (TL) ở tỉnh Sóc Trăng; và
hệ thống ni tơm BTC ở Bạc Liêu và Bến Tre;
2) Mức độ tập trung của vùng nuôi tôm (như:
số ao tôm/huyện); và 3) Xu hướng phát triển hệ
thống tôm nuôi ở ĐBSCL.
* Lựa chọn hộ/trang trại để khảo sát: Các
hệ thống trang trại nuôi tôm hiện nay ở ĐBSCL
khá đa dạng và có sự khác biệt lớn về mặt kỹ
thuật và hiệu quả kinh tế (Nguyen et al., 2009;
VIFEP, 2009). Các trang trại nuôi tôm đã được
lựa chọn dựa trên phân loại hệ thống canh tác
như mô tả của VIFEP (2009b) và Nguyen et al.,
(2009). Sáu chỉ số, bao gồm 1) Nguồn giống; 2)
Mật độ thả giống; 3) Chế độ thay nước; 4) Năng
suất; 5) Loại thức ăn; và 6) chỉ số FCR đã được
sử dụng để phân loại các trang trại nuôi tôm
thành 5 hệ thống: TR, QCCT, TL, BTC và TC.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


121


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Ở mỗi địa điểm được lựa chọn khảo sát, chúng
tôi đã phối hợp với cán bộ địa phương để kiểm
tra danh sách các hộ nuôi tôm của địa phương
và phân loại các trang trại. Sau đó, phương pháp
lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng được sử dụng để
chọn các trang trại nuôi tôm ở mỗi địa phương
để tiến hành phỏng vấn. Các hệ thống nuôi tôm
QCCT, TL là các hệ thống chiếm tỷ lệ lớn về
diện tích ni so với các hệ thống cịn lại. Vì
vậy, quy mơ mẫu lựa chọn là khơng đều giữa
các hệ thống nuôi tôm, và ở mỗi địa phương
chọn cỡ mẫu dao động 5-30 trang trại. Tổng số
hộ/trang trại chọn khảo sát là 230, trong đó có
20 trang trại là hệ thống nuôi TC, 60 hộ BTC, 60
hộ QCCT, 30 hộ TL và 30 hộ TR. Ngoài ra, 30
hộ nuôi tôm thẻ chân trắng BTC đã được phỏng
vấn ở tỉnh Bến Tre, nơi có nghề ni tơm chân
trắng được giới thiệu sớm tại ĐBSCL.
2.2. Thu thập số liệu
Bộ câu hỏi đã được soạn và chuẩn hóa thơng
qua khảo sát thử nghiệm tại một vùng ni
thuộc tỉnh Sóc Trăng. Bộ câu hỏi chuẩn hóa đã
được sử dụng cho các cuộc điều tra hộ/trang trại
nuôi tôm. Tám điều tra viên được đào tạo về kỹ
năng điều tra, ghi chép số liệu và phương pháp

giảm thiểu sai sót trong q trình điều tra phỏng
vấn. Người trả lời phỏng vấn được lựa chọn là
chủ sở hữu, người quản lý hoặc phụ trách kỹ
thuật viên, và đôi khi đối tượng được phỏng vấn
là một nhóm những người cùng làm việc trong
trang trại. Người được phỏng vấn phải có kiến​​
thức khá tốt về các hoạt động của trang trại của
họ. Các phiếu điền thông tin được kiểm tra trong
cùng ngày phỏng vấn bởi cán bộ giám sát, và
những thông tin chưa đầy đủ được bổ sung bằng
điện thoại. Khảo sát được tiến hành từ tháng 10
năm 2010 đến tháng 2 năm 2011 để phỏng vấn
200 hộ nuôi tôm sú, và 30 hộ nuôi tôm chân
trắng trong giai đoạn tháng 11 và tháng 12 năm
2011. Các thông tin và số liệu phục vụ nuôi tôm
gần nhất của trang trại/hộ ghé thăm được thu
122

thập trong nghiên cứu này. Ngồi ra, các dữ liệu
thứ cấp về tình hình ni và các văn bản có liên
quan cũng được thu thập tại các Trạm Thủy sản,
Phịng Nơng nghiệp các địa phương.
2.3. Phân tích số liệu
Tồn bộ số liệu điều tra được mã hóa và
nhập vào cơ sở dữ liệu (CSDL) thiết kế trên phần
mềm Ms. Access, 2007. Phân tích số liệu được
thực hiện theo chủ đề cụ thể để trả lời các câu
hỏi nghiên cứu; các thông tin, số liệu từ CSDL
đã được xuất sang phần mềm thống kê liên quan
như SPSS 21 (SPSS Inc., Illinois, USA ) và Ms.

Excel, 2007 để thực hiện các phân tích thống kê.
Phân tích thống kê mơ tả được sử dụng để ước
tính tần số xuất hiện sự kiện, giá trị trung bình
và độ lệch chuẩn của các yếu tố, chỉ số. Các
phân tích thống kê Chi- square (X2), Kruskal Wallis H và Friedman đã được áp dụng để kiểm
tra sự khác biệt các yếu tố định tính giữa các hệ
thống trang trại, hay giữa các yếu tố cần được so
sánh với nhau. Trong khi, phân tích One wayANOVA và kiểm định T - kiểm tra tính độc lập
đã được áp dụng để kiểm tra sự khác biệt về yếu
tố định lượng có liên quan giữa các hệ thống
trang trại. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được
xác nhận bởi chỉ số *p<0,05.
III. KẾT QUẢ
3.1. Thực trạng nuôi tôm
3.1.2. Một số thông tin về thực trạng kỹ
thuật
* Quản lý nước: Khoảng 50% các hộ ni
tơm có bổ sung thức ăn khi tiến hành chuẩn bị
nước cho ao nuôi trước khi thả giống. Trong khi
các hệ thống TR và QCCT thì lấy nước trực tiếp
vào ao/vng ni và tiến hành thả tơm giống
sau đó 2-3 ngày. Hiện nay, các trang trại nuôi
tôm đang áp dụng phương pháp nuôi tôm hạn
chế thay nước. Các trang trại nuôi tôm quy mô
lớn (QML: nuôi TC/BTC) phổ biến hình thức
“cấp nước bổ sung”, trong khi các trang trại

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
(p<0,05), việc thay nước của mơ hình TR và
QCCT chủ yếu dựa vào chế độ thủy triều, vì vậy
nó thường được thực hiện hai tuần một lần hoặc
hàng tháng, và đây cũng là một nguồn bổ sung
giống tự nhiên và thức ăn tự nhiên cho ao/vng
ni tơm. Trong khi đó, ở các trang trại QML
tần suất thay nước là không thường xuyên và nó
được dựa trên kinh nghiệm của người quản lý
về màu nước, và nguồn nước mới chủ yếu đến
từ các ao lắng hoặc kênh cấp nước nội bộ của
hộ/trang trại.

quy mô nhỏ (QMN: ni TR, TL, QCCT) thì áp
dụng phương pháp “thay nước một phần” là phổ
biến, có sự khác biệt có ý nghĩa về phương pháp
thay nước giữa các hệ thống nuôi (p<0,05).
Việc lựa chọn phương pháp thay nước hạn chế
là do tác động của các điều kiện diễn biến mơi
trường ngày càng khó dự báo và rủi ro từ các
ổ dịch bệnh lây lan từ môi trường, do vậy hầu
hết các trang trại đã không muốn sử dụng nước
trực tiếp từ sông để tránh nguy cơ dịch bệnh cho
ao ni. Có một sự khác biệt đáng kể trong các
tần suất thay nước giữa các hệ thống nuôi tôm

Bảng 1: Thực trạng quản lý nước
Chỉ tiêu
Phương pháp chứa trữ
nước(%)

- Không
- Có sử dụng ao lắng
- Có sử dụng ao chứa
Số ngày chứa trữ nước
tối thiểu trước khi dùng*
Phương thức thay (%)
- Chỉ cấp nước bổ
sung*
- Thay nước một phần*
Tần suất thay nước (%)
- 2 tuần/lần*
- Hằng tháng*
- Dựa vào kinh nghiệm*

Tơm sú
TC
(n=20)

BTC
(n=60)

QCCT
(n=60)

TR
(n=30)

TL
(n=30)


TTCT
BTC
(n=30)

 

 

 

 

 

 

40,00
25,00
35,00

45,00
36,67
18,33

98,33
0
1,67

100,00
0

0

60,00
40,00
0

100,00
0
0

9,85±9,28

16,44±9,35

2,63±3,84

2,07±3,34

6,50±5,39

11,70±2,73

 

 

 

 


 

 

70,00

60,00

28,33

16,67

56,67

100,00

30,00
 
5,00
0
95,00

40,00
 
5,00
0
95,00

71,67
 

40,00
21,67
38,33

83,33
 
50,00
40,00
10,00

43,33
 
3,33
23,33
73,34

0
 
0
0
100,00

* sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05); %: % số hộ liên quan; giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn

* Quản lý thức ăn: Hệ thống nuôi TR và
QCCT không sử dụng thức ăn, trong khi các
loại hệ thống ni tơm cịn lại sử dụng thức ăn
cơng nghiệp cho ni tơm. Hệ số FCR có sự
khác nhau giữa các hệ thống nuôi tôm, nhưng hệ
số này cao hơn so với các thí nghiệm ni tơm

(tức là FCR là khoảng 1,5 cho hệ thống TC, và
khoảng 1,3 cho hệ thống BTC). Nguyên nhân là
do người dân còn nhiều hạn chế trong phương

pháp cho ăn và ước tính FCR. Hầu hết các hộ
nuôi tôm phải mua thức ăn qua đại lý, và hiện
nay phổ biến hình thức thanh tốn tiền là “gối
đầu đến hết vụ”. Hộ nuôi tôm thường phải trả
tiền mặt ở 2 hoặc 3 tháng nuôi đầu, sau đó tùy
vào điều kiện kinh tế họ sẽ có thể mua chịu từ
các đại lý và trả chậm đến cuối vụ thu hoạch
tôm với một lãi suất do đại lý đưa ra. Thơng
thường, đại lý thức ăn tính giá thức ăn cao hơn

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

123


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
cho những người mua thức ăn gối đầu so với
mua thức ăn bằng tiền mặt, chẳng hạn như tổng
chi phí cho mỗi bao thức ăn 20kg là 420.000
đồng khi mua gối đầu/trả chậm ở cuối vụ cao
hơn so với trả bằng tiền mặt (400.000 đồng) và
thường là cao hơn so với giá bình thường tức là
5%. Điều này phản ánh rằng người bán thức ăn
chăn nuôi muốn tránh rủi ro kinh doanh, bởi vì
các trang trại ni tơm có thể thu lợi nhuận từ


giai đoạn sau 2 hoặc 3 tháng nuôi của chu kỳ sản
xuất, sau giai đoạn ni đầu thì nguy cơ rủi ro
do dịch bệnh tôm cũng được giảm đi đáng kể.
Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn trả chậm thức ăn
từ đại lý chỉ dễ dàng với những hộ sản xuất có
uy tín và ni tơm thành cơng nhiều năm, các hộ
làm ăn thất bại rất khó có cơ hội tiếp cận nguồn
vốn này.

Bảng 2: Thực trạng quản lý thức ăn
Tôm sú

TTCT

TC

BTC

QCCT

TR

TL

BTC

(n=20)

(n=60)


(n=60)

(n=30)

(n=30)

(n=30)

1,55±0,16

1,68±0,17





1,63±0,44

1,25±0,13

Nguồn cung cấp thức ăn (%)

 

 

 

 


 

 

- Trực tiếp từ Nhà máy thức
ăn*
- Từ Đại lý thức ăn của Nhà
máy*
- Đại lý tư nhân địa phương*

10,00

0





0

3,33

85,00

88,33






86,67

96,67

5,00

11,67





13,33

0

 

 

 

 

 

 

30,00


6,67





10,00

20,00

70,00

86,66





73,33

80,00

0

6,67






16,67

0

Chỉ tiêu
Hệ số FCR*

Các điều khoản thanh toán
(%)
- Trả hết bằng tiền mặt khi
nhận
- Gối đầu đến cuối vụ
- Hình thức khác

* sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05); %: % số hộ liên quan; giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn

* Quản lý chất thải: Việc xả thải nước dựa
vào sự chênh lệch triều áp dụng chủ yếu trong
hệ thống TR và QCCT, trong khi các hệ thống
ni tơm cịn lại áp dụng phương pháp bơm
nước hoặc cả hai phương pháp. Hầu hết các
trang trại đã báo cáo rằng nước thải không được
xử lý và được xả trực tiếp ra sông và kênh rạch.
Một số nhỏ các trang trại nuôi tôm tái sử dụng
nước thải từ ao ni tơm để ni các lồi khác
trong cùng một ao sau khi tôm đã thu hoạch,
124

hoặc nước thải được tái sử dụng một phần cho
vụ sau vì không thể được tháo hết nước trong

vuông cỡ lớn như TR và QCCT. Bùn thải từ các
ao nuôi tôm chủ yếu được đưa đến bờ ao sau
mỗi vụ nuôi. Mặc dù, các hệ thống nuôi tôm
không cho ăn (TR, QCCT) tích tụ bùn đáy từ
phân tơm khơng nhiều nhưng phù sa và trầm
tích tích lũy từ việc thay nước vẫn được tiến
hành cải tạo và di dời hàng năm. Chỉ có một vài
trang trại ni tơm có khu vực chứa bùn hoặc

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
một số trang trại có những kênh thốt nước nhỏ
và đất trống để lưu trữ bùn. Tuy nhiên, khả năng
chứa bùn của của những chỗ này bị hạn chế và
bùn vẫn còn gián tiếp chảy vào hệ thống sông
và kênh. Việc quản lý chất thải không tốt, và
việc xả chất thải chưa qua xử lý ra sơng rạch
có thể là một ngun nhân gây ra sự lây lan của

dịch bệnh tôm và ảnh hưởng đến hiệu quả sản
xuất của nghề nuôi tôm. Các tác nhân gây bệnh
từ các ao nuôi bị nhiễm bệnh có khả năng lây
lan sang các ao khác nếu việc quản lý chất thải
và dịch bệnh không hiệu quả (Anh et al., 2010;
Oanh và Phuong, 2012).

Bảng 3: Thực trạng quản lý chất thải
Tơm sú


TTCT

TC

BTC

QCCT

TR

TL

BTC

(n=20)

(n=60)

(n=60)

(n=30)

(n=30)

(n=30)

 

 


 

 

 

 

100,00

98,33

95,00

90,00

70,00

100,00

- Xả ra kênh thốt

0

1,67

5,00

10,00


30,00

0

Có xử lý nước thải (%)

0

3,33

0

0

0

0

- 1 lần trong vụ nuôi*

30,00

6,67

15,00

13,33

3,33


0

- Sau mỗi vụ nuôi*

70,00

93,33

85,00

86,67

96,67

100,00

 

 

 

 

 

 

- Đưa đến bờ ao


90,00

100,00

93,33

93,34

100,00

0

- Bớm đến ruộng/vườn của GĐ

10,00

0

0

3,33

0

0

0

0


6,67

3,33

0

100,00

Chỉ tiêu
Nơi xả thải nước ao (%)
- Xả ra nguồn nước cấp *

Tần suất xử lý bùn (%)

Nơi xả thải bùn đáy ao (%)

- Bơm bến khu vực chứa bùn

* sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05); %: % số hộ liên quan

3.1.3. Phân tích hiệu quả sản xuất
Do các kỹ năng quản lý trang trại và kỹ
thuật tốt hơn, các trang trại QML có được tỷ lệ
tơm sống cao hơn so với các trang trại QMN
(p<0,05). Mức độ thâm canh khác nhau dẫn
đến sản lượng tôm khác nhau (p<0,05) và sản
lượng tơm có xu hướng tăng từ hộ QMN đến
hộ QML. TR và QCCT cho năng suất dưới 300
kg/ha/năm, TL đạt khoảng 1.000 kg/ha, trong

khi các trang trại QML (TC và BTC) đạt trên 3
tấn/ha. Có một sự khác biệt lớn trong hiệu quả
kinh tế của vụ nuôi giữa các hệ thống canh tác
tơm (p<0,05) như được trình bày trong bảng 4.

Hệ thống ni tơm QMN có hiệu quả kinh tế
thấp hơn so với các hệ thống nuôi tôm QML.
So với hệ thống ni tơm QML thì các trang
trại QMN thường thu hoạch tơm ở một kích
thước lớn hơn, giá bán cao hơn, và họ cịn có
thêm nguồn thu nhập phụ từ thu hoạch tôm/cá
tự nhiên và cua nuôi. Các hệ thống với mức
độthâm canh thấp, không bổ sung thức ăn cơng
nghiệp và ít sử dụng hố chất có thể là mơ hình
ít rủi ro hơn và bền vững hơn. Vì thế, hệ thống
ni tơm QMN có nhiều tiềm năng để phát
triển theo hướng sản xuất hữu cơ và áp dụng
chứng nhận Naturland.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

125


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

Bảng 4: Phân tích hiệu quả kinh tế
Tơm sú
Chỉ tiêu


TTCT

TC

BTC

QCCT

TR

TL

BTC

(n=20)

(n=60)

(n=60)

(n=30)

(n=30)

(n=30)

Mật độ thả
(PL/m2)*

33,30±10,75


23,06±7,51

2,49±2,26

3,12±3,59

7,08±3,20

83,67±19,78

Tỷ lệ sống
(%/lượng
giống thả)*

69,58±19,40

65,81±19,32 29,74±21,63 23,24±16,03

59,79±15,00

79,47±18,61

0,99±0,71

7,18±4,71

Năng suất
(tấn/ha)*


5,52±4,00

3,62±2,48

0,25±0,29

0,14±0,12

Tổng thu
(triệu
đồng/ha)*

605,07±425,20 467,38±306,91 33,95±45,48 22,32±21,60 130,78±140,47 759,34±542,40

Tổng chi
(triệu đồng
/ha)*

338,38±261,73 232,06±156,48

Lợi nhuận
(triệu đồng
/ha)*

266,69±218,76 235,31±170,89 19,17±45,55

14,78±8,49 10,53±10,10

11,79±23,29


56,66±41,46 405,02±285,84

74,12±104,75 354,33±279,31

* sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05); %: % số hộ liên quan; giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn

3.2. Các vấn đề về chứng nhận sản phẩm
của trang trại1
Kết quả đánh giá so sánh thực trạng sản
xuất hiện nay so với các tiêu chí chứng nhận
sản phẩm phổ biến như GAA-BAP, GlobalGAP,
Shad và Naturland được thể hiện trong bảng 5.
Hiện nay, nhiều trang trại nuôi tôm đã có khả
năng đạt được một số tiêu chí của các chứng
nhận quốc tế, như: hệ số FCR (≤1,8 mơ hình
ni tơm sú, và ≤1,5 mơ hình ni tơm thẻ
chân trắng), mật độ thả giống (≤15PL/m2 trong
hệ thống nuôi tôm QMN), tỷ lệ sống (>25%
trong hệ thống nuôi tôm QMN, và> 60% trong
hệ thống ni tơm QML), khơng sử dụng hóa
chất và kháng sinh cấm, không sử dụng giống
hoang dã, các mối quan hệ cộng đồng, quyền
sở hữu trang trại, bảo vệ tính đa dạng sinh học.

Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều tiêu chí chứng nhận
mà các trang trại khơng thể đáp ứng được như:
quản lý nước thải (hầu hết các trang trại cịn xả
chất thải nước ao ni ra mơi trường mà không
xử lý triệt để, và khu vực chứa bùn cũng chưa
có hoặc chưa đảm bảo khả năng chứa), đăng ký

trại (nhiều trang trại chưa tiến hành đăng ký),
quản lý tỷ lệ chết (thiếu phương pháp thích
hợp), lao động (thiếu hợp đồng lao động, hoặc
chỉ hợp đồng miệng), vệ sinh trang trại, và lưu
trữ hồ sơ theo yêu cầu. Hầu hết các trang trại
đều đã có kiến thức về việc sản xuất theo tiêu
chuẩn chứng nhận thơng qua các khóa đào tạo
kỹ thuật, tuy nhiên với thực tế canh tác hiện nay
thì vẫn có một khoảng cách khá lớn để các trang
trại nuôi tôm tiếp cận và đạt được các chứng
nhận quốc tế.

1. Thơng tin trong ngoặc đơn trình bày các chỉ số của thực trạng nuôi tôm hiện nay

126

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

Bảng 5: So sánh giữa các tiêu chí chứng nhận thực phẩm và thực trạng sản xuất hiện nay
a. Đánh giá về “Quy định chung về trang trại”
Thực trạng nuôi tôm hiện nayb
TT

Các nguyên tắc và
tiêu chí chứng nhậna

TC


BTC

QCCT

TR

TL

BTC

(n=20)

(n=60)

(n=60)

(n=30)

(n=30)

(n=30)

1.

Lựa chọn địa điểm:
Trang trại được đăng
ký như quy định của
luật pháp1


85% số
hộ chưa
đăng ký

Tất cả các
hộ chưa
đăng ký

Tất cả các
hộ chưa
đăng ký

Tất cả các
hộ chưa
đăng ký

Tất cả
các hộ
chưa
đăng ký

Tất cả các
hộ chưa
đăng ký

2. 

Quản lý thức ăn:
eFCR2,3<=1,5 đối với
TTCT và <=1,8 đối

với Tôm sú

Thức
ăn công
nghiệp
với FCR
1,55

Thức
ăn công
nghiệp với
FCR 1,68

Không cho
ăn

Không cho
ăn

Thức
ăn công
nghiệp
với FCR
1,63

Thức
ăn công
nghiệp với
FCR 1,25


3.

Quản lý sức khỏe và
vấn đề an sinh:

 

 

 

- Tất cả người lao động
phải được tập huấn về
phương pháp chăm sóc
ao ni1,2,3
- Tỷ lệ sống3(SR): ao
khơng cho ăn>25%;
ao cho ăn/khơng sục
khí>45%; ao cho ăn/có
sục khí >60%.
- Mật độ thả4 (SD)
<=15 PL/m2/năm và
Năng suất <=1,6 tấn/
ha

- Tất cả
nhân viên
được
huấn
luyện về

kỹ thuật

 
- Tất cả
nhân viên
được
huấn
luyện về
kỹ thuật
sản xuất.
- SR
đến thu
hoạch:
60%

 
- Tất cả
nhân viên
được huấn
luyện về kỹ
thuật sản
xuất.
- SR đến
thu hoạch:
80%

 

sản xuất.
- SR

đến thu
hoạch:
70%
- SD:
33,30PL/
m2

- Tất cả
nhân viên
được huấn
luyện về kỹ
thuật sản
xuất.
- SR đến
thu hoạch:
66%

- Tất cả
nhân viên
được huấn
luyện về kỹ
thuật sản
xuất.
- SR đến
thu hoạch:
30%

 
- Tất cả
nhân viên

được huấn
luyện về kỹ
thuật sản
xuất.
- SR đến
thu hoạch:
23%

- SD:
23,06PL/m2
NS:
3,62tấn/ha

- SD:
2,49PL/m2
NS:
0,25tấn/ha

- SD:
3,12PL/m2
NS:
0,14tấn/ha

NS:
5,52tấn/
ha

- SD:
7,08PL/
m2

NS:
0,99tấn/
ha

- SD:
83,67PL/m2
NS:
7,18tấn/ha

Nguồn: (a)Thông tin/số liệu được trích từ các chứng nhận 1GlobalGAP (2011),2GAA
(2009),3WWF (2011), 4Naturland (2012); (b) Số liệu điều tra của nghiên cứu này

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

127


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 5: So sánh giữa các tiêu chí chứng nhận thực phẩm và thực trạng sản xuất hiện nay
(tiếp theo)
b. Đánh giá về “Các quy định về xã hội và luật lệ”
Thực trạng ni tơm hiện nayb

TT

Các ngun tắc và tiêu chí TC
chứng nhậna
(n=20)

BTC


QCCT

TR

TL

BTC

(n=60)

(n=60)

(n=30)

(n=30)

(n=30)

 1.

Quyền sở hữu và tuân thủ
quy định:Trang trại phải
tuân thủ luật lệ quốc gia
và các quy định về mơi
trường1,2,3

Có giấy
tờ sở hữu
(90%)

Trang
trại được
quản lý
bởi chủ
trang trại
(85%)

Có giấy
tờ sở hữu
(95%)
Trang trại
được quản
lý bởi chủ
trang trại
(98%)

Có giấy
tờ sở hữu
(100%)
Trang trại
được quản
lý chủ
trang trại
(100%)

Có giấy
tờ sở hữu
(87%)
Trang
trại được

quản lý
bởi chủ
trang trại
(100%)

Có giấy tờ sở
hữu (100%)
Trang trại
được quản lý
bởi chủ trang
trại (100%)

Có giấy
tờ sở hữu
(100%)
Trang
trại được
quản lý
bởi chủ
trang trại
(97%)

 2.

Mối quan hệ cộng
đồng:Trang trại không
được ngăn cấm việc sử
dụng tài nguyên thiên
nhiên chung của cộng
đồng địa phương2,3


Tự do
trong việc
sử dụng
tài nguyên
thiên nhiên
chung

Tự do
trong việc
sử dụng
tài nguyên
thiên
nhiên
chung

Lao động trong trang trại:
Tuân thủ các luật lao
động của quốc gia và địa
phương

55% có
thuê LĐ,
chỉ có
thỏa thuận
miệng với
người LĐ.
- Khơng sử
dụng LĐ
trẻ em


30% có
th LĐ,
chỉ có
thỏa thuận
miệng với
người LĐ.
- Khơng
sử dụng
LĐ trẻ em

Số giờ
làm việc
trung
bình
trong
ngày
7,34.
Lương 2
triệu đ/
người/
tháng

Số giờ làm
việc trung
bình trong
ngày 7,38.
Lương 2
triệu đ/
người/

tháng

Số giờ
làm việc
trung
bình trong
ngày 8,00.
Lương 2
triệu đ/
người/
tháng

Tự do
trong
việc sử
dụng tài
ngun
thiên
nhiên
chung
36%
có th
LĐ, chỉ
có thỏa
thuận
miệng
với người
LĐ.
- Khơng
sử dụng

LĐ trẻ
em
Số giờ
làm việc
trung bình
trong
ngày
8,00.
Lương 2
triệu đ/
người/
tháng

Tự do trong
việc sử dụng
tài nguyên
thiên nhiên
chung

 3.

Tự do
trong
việc sử
dụng tài
nguyên
thiên
nhiên
chung
Tất cả

đều có
thuê LĐ,
15% có
ký hợp
đồng với
người
LĐ.
- Khơng
sử dụng
LĐ trẻ em

Tự do
trong
việc sử
dụng tài
ngun
thiên
nhiên
chung
7% có
th
LĐ, chỉ
có thỏa
thuận
miệng
với người
LĐ.
- Khơng
sử dụng
LĐ trẻ

em
Số giờ
làm việc
trung
bình
trong
ngày
8,00.
Lương 2
triệu đ/
người/
tháng

- Lao động trẻ em: tuổi
của lao động trong trang
trại>=181,2,3

 4.

Các điều kiện môi trường
làm việc: Tuân thủ các
luật lao động của quốc
gia để đảm bảo an toàn
lao động, bồi thường và
điều kiện sinh hoạt trong
trang trại. (làm việc 8giờ/
ngày; mức lương đạt mức
tối thiểu như quy định của
Nhà nước)2,3


33% có thuê
LĐ, chỉ có
thỏa thuận
miệng với
người LĐ.
- Khơng sử
dụng LĐ trẻ
em

Số giờ làm
việc trung
bình trong
ngày 7,00.
Lương 2
triệu đ/
người/tháng

Nguồn: (a)Thơng tin/số liệu được trích từ các chứng nhận 1GlobalGAP (2011),2GAA
(2009),3WWF (2011), 4Naturland (2012); (b) Số liệu điều tra của nghiên cứu này

128

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 5: So sánh giữa các tiêu chí chứng nhận thực phẩm và
thực trạng sản xuất hiện nay (tiếp theo)
c. Đánh giá về “Hệ thống quản lý môi trường”
Thực trạng

TT

Các nguyên tắc và
tiêu chí chứng nhậna

ni tơm hiện nayb

TC

BTC

QCCT

TR

TL

BTC

(n=20)

(n=60)

(n=60)

(n=30)

(n=30)

(n=30)


 1.

Kho chứa và xử lý các
nguyên liệu đầu vào:
dầu/xăng, hóa chất,
dầu mỡ cần được lưu
chứa, xử lý an tồn và
có trách nhiệm1,2,3

100% có
kho chứa
lớn

100% có
khu vực
chứa trong
nhà

Trang trại
khơng có
kho chứa

Trang trại
khơng có
kho chứa

Trang trại
khơng có
kho chứa


100% có
khu vực
chứa trong
nhà

 2.

Quản lý nước và đất:
Trang trại nằm trong
vùng quy hoạch phát
triển NTTS1,2,3

Trang trại
thuộc vùng
quy hoạch
tôm

Trang trại
thuộc vùng
quy hoạch
tôm

Trang
trại thuộc
vùng quy
hoạch tôm

Trang trại
thuộc vùng

quy hoạch
tôm

Trang trại
thuộc vùng
quy hoạch
tôm

Trang trại
thuộc vùng
quy hoạch
tôm

3.

Quản lý chất thải:

 

 

 

 

 

 

 


- Trang trại phải chứa
chất thải từ ao nuôi,
kênh và và phải lắng
nước.
- Trang trại phải quan
trắc chất thải và xác
nhận sự tuân thủ các
chỉ tiêu về chất lượng
nước thải2

- 90% đã
đưa bùn
đáy đến bờ
ao.
- Nước
thải không
được xử lý.

- 97% đã
đưa bùn
đáy đến bờ
ao.
- Nước
thải không
được xử lý.

- 92% đã
đưa bùn
đáy đến

bờ ao.
- Nước
thải không
được xử
lý.

- 90% đã
đưa bùn
đáy đến bờ
ao.
- Nước thải
không được
xử lý.

- 97% đã
đưa bùn
đáy đến bờ
ao.
- Nước thải
không được
xử lý.

Tất cả đã
chuyển bùn
đáy đến
khu vực
chứa.
- Nước thải
không được
xử lý.


 4.

Vệ sinh/dịch tễ trang
trại: Chất thải/phân
động vật phải được
phòng tránh việc gây
nhiễm bẩn nguồn nước
ao nuôi2,3

Trang trại
tách biệt
với nhà
ở và khu
dân cư địa
phương.

Trang trại
không
tách biệt
với nhà
ở và khu
dân cư địa
phương.

Trang trại
không
tách biệt
với nhà
ở và khu

dân cư địa
phương.

Trang trại
không tách
biệt với nhà
ở và khu
dân cư địa
phương.

Trang trại
không tách
biệt với nhà
ở và khu
dân cư địa
phương.

Trang trại
không tách
biệt với nhà
ở và khu
dân cư địa
phương.

Nguồn: (a)Thông tin/số liệu được trích từ các chứng nhận 1GlobalGAP (2011),2GAA
(2009),3WWF (2011), 4Naturland (2012); (b) Số liệu điều tra của nghiên cứu này

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

129



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 5: So sánh giữa các tiêu chí chứng nhận thực phẩm và
thực trạng sản xuất hiện nay (tiếp theo)
d. Đánh giá về “An toàn thực phẩm và các vấn đề liên quan chuỗi giá trị”
TT Các nguyên tắc và
tiêu chí chứng nhậna

Thực trạng ni tơm hiện nayb
TC

BTC

QCCT

TR

TL

BTC

(n=20)

(n=60)

(n=60)

(n=30)


(n=30)

(n=30)

1.  Thuốc và hóa chất sử
dụng: Thuốc thú y thủy
sản và hóa chất được
chấp nhận và khơng bị
cấm sử dụng1,2,3

Khơng sử
dụng hóa
chất, kháng
sinh cấm

Khơng sử
dụng hóa
chất, kháng
sinh cấm

Khơng sử
dụng hóa
chất, kháng
sinh cấm

Khơng sử
dụng hóa
chất, kháng
sinh cấm


Khơng
sử dụng
hóa chất,
kháng sinh
cấm

Khơng
sử dụng
hóa chất,
kháng sinh
cấm

2.

Nguồn con giống:
Khơng được phép sử
dụng con giống tự
nhiên từ nguồn KTTS
cho nuôi thương
phẩm1,3

100% là
tôm giống
nhân tạo

100% là
tơm giống
nhân tạo

100% là

tơm giống
nhân tạo,
có thu thêm
giống tự
nhiên thụ
động qua
việc thay
nước

100% là
100% là
tơm giống
tơm giống
nhân tạo,
nhân tạo
có thu thêm
giống tự
nhiên thụ
động qua
việc thay
nước

100% là
tôm giống
nhân tạo

 3.

Nhật ký ghi chép xuất
xứ: Sổ nhật ký ghi chép

cụ thể mỗi loại yếu tố/
chỉ số đối với mỗi ao
nuôi và mỗi vụ nuôi
phải được ghi chép đầy
đủ và lưu giữ1,2,3

Sổ nhật ký
được viết
chi tiết và
thường
xuyên, tuy
nhiên lưu
giữ hồ sơ
chưa tốt.

Sổ nhật ký
được sử
dụng nhưng
chưa viết
chi tiết và
thường
xuyên.

Sổ nhật ký
được sử
dụng nhưng
chưa viết
chi tiết và
thường
xuyên.


Sổ nhật ký
được sử
dụng nhưng
chưa viết
chi tiết và
thường
xuyên.

Sổ nhật
ký được
sử dụng
nhưng
chưa viết
chi tiết và
thường
xuyên.

Sổ nhật
ký được
sử dụng
nhưng
chưa viết
chi tiết và
thường
xun.

Nguồn: (a) Thơng tin/số liệu được trích từ các chứng nhận 1GlobalGAP (2011),2GAA
(2009),3WWF (2011), 4Naturland (2012); (b) Số liệu điều tra của nghiên cứu này


IV. THẢO LUẬN
Người tiêu dùng đang ngày càng lo ngại
về những tác động môi trường và xã hội của
sản xuất lương thực ở các nước đang phát triển
(Belton và Bush, 2014; Brunori et al.,2011;
Bush và Oosterveer, 2007; Bush, 2008; Corsin
et al., 2007; Jespersen et al., 2014; Oosterveer,
2006). Ngoài ra, người tiêu dùng đang quan
tâm đến quá trình sản xuất của một sản phẩm
và chất lượng sản phẩm đó (Brunori et al.,2011;
Corsin et al., 2007; Reilly, 2007; Yamprayoon
và Sukhumparnich, 2010; Younget et al.,
2011). Do đó, chứng nhận thực phẩm đã được
xác định là một cách dễ dàng để đánh giá tính
130

bền vững của một sản phẩm thực phẩm (Bush
và Oosterveer, 2007, 2012; Bush et al., 2010;
Kelling, 2012; Mohan, 2013; Young et al.,
2011). Tôm là đối tượng nuôi chủ lực của Việt
Nam để phục vụ mục tiêu xuất khẩu, và nghề
nuôi tôm đã bắt đầu phát triển theo hướng sản
xuất có trách nhiệm và hướng tới đáp ứng các
tiêu chuẩn thực phẩm khác nhau để duy trì thị
trường truyền thống và thâm nhập vào các thị
trường mới. Bush et al., (2010) cho rằng người
nông dân nuôi tôm là một mắt xích quan trọng
trong chuỗi giá trị sản xuất tơm, vì thế họ cũng
phải đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng và an
tồn thực phẩm để duy trì vị thế của mình trong


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
ngành tơm và thị trường xuất khẩu. Nhiều trang
trại nuôi tôm hiện nay đã có thể đáp ứng một
số tiêu chí chứng nhận như FCR, mật độ thả,
khơng sử dụng hóa chất/kháng sinh bị cấm,
không sử dụng nguồn giống tự nhiên, quyền
sở hữu hợp lệ và bảo vệ đa dạng sinh học. Tuy
nhiên, vẫn cịn nhiều tiêu chí chứng nhận có
thể khơng dễ dàng đạt được bởi việc canh tác
như hiện nay của các trang trại nuôi tôm, như:
quản lý chất thải, đăng ký trang trại, hạn chế
sử dụng bột cá trong khẩu phần ăn, quản lý tỷ
lệ chết, sắp xếp lao động, vệ sinh trang trại và
các yêu cầu lưu trữ hồ sơ. Để đáp ứng được các
yêu cầu ngày càng tăng về an tồn thực phẩm,
chất lượng và tính bền vững của sản xuất thủy
sản, các trang trại nuôi tôm cần có những cải
thiện và sự hỗ trợ phát triển đồng thời của các
bên liên quan trong toàn chuỗi giá trị ngành
hàng tơm. Bên cạnh đó, để tiếp cận với những
tiêu chí chứng nhận người dân ni tơm cũng
cần sự hỗ trợ của cán bộ địa phương thông qua
các hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ về quản lý trang
trại (đăng ký tên, xác nhận quyền sở hữu đất/
chuyển quyền sở hữu v.v).
Reilly (2007) cho rằng trọng tâm của quy

định mới từ các thị trường là việc quản lý chặt
chẽ từ trang trại đến bàn ăn, và đặt trách nhiệm
cao cho người sản xuất là phải đảm bảo thực
phẩm sản xuất an toàn. Tuy nhiên các quy định
chung về vệ sinh thực phẩm hiện nay còn mở
rộng đến tất cả các hoạt động liên quan đến
việc sản xuất thực phẩm (Reilly, 2007; Tran et
al., 2013; S. Washington và Ababouch, 2011),
do đó để phát triển bền vững ngành hàng thì
cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan.
Hơn nữa, nước sản xuất thủy sản phải vượt qua
những thách thức, rào cản kỹ thuật từ các nước
nhập khẩu bằng cách liên tục cải thiện chuỗi
sản xuất. Chứng nhận sản phẩm được xem như
một chỉ số đánh giá tính bền vững của ngành
hàng tơm, vì thế để đạt chỉ số bền vững của
ngành hàng tơm thì người nơng dân ni tơm
là những người đầu tiên trong chuỗi giá trị cần
được khuyến khích tham gia thực hiện hướng
sản xuất có trách nhiệm hơn hoặc chứng nhận
(Bush và Belton, 2012; Bush et al., 2010;
Reilly, 2007). Chứng nhận thực phẩm được

yêu cầu là cần thiết thực hiện bởi cấp độ trang
trại nuôi, nhưng việc đảm bảo chất lượng sản
phẩm thì cịn phụ thuộc vào các bên liên quan
khác như thương lái thu mua tôm, Công ty chế
biến v.v. Một số việc gian lận thương mại gần
đây thường không liên quan đến nông dân nuôi
tôm mà là ở khâu trung gian như thương lái vì

mục đích lợi nhuận mà bơm thêm tạp chất để
tăng trọng hoặc do họ thiếu kiến thức về vệ
sinh an toàn thực phẩm (Fisheries Directorate,
2012; VASEP, 2014; Vu et al., 2013). Nhìn
chung, nơng dân thường phải đối mặt với
những khó khăn và rào cản khi áp dụng các
tiêu chí chứng nhận vào sản xuất vì hiện nay
họ rất thiếu kiến ​​thức về chứng nhận quốc tế,
hạn chế trong tiếp cận thông tin, thiếu năng lực
về cải thiện công nghệ nuôi và kỹ năng giám
sát thực hiện (Jespersen et al., 2014; Kelling
et al., 2010; Mohan, 2013; Ponte et al., 2014).
Mặc dù chứng nhận cấp độ trang trại góp phần
thương mại thủy sản bền vững, hiện nay vẫn
còn rất nhiều rủi ro khác ảnh hưởng đến phát
triển bền vững như do các tác động của mơi
trường bên ngồi (ngành nghề khác, các biến
động thị trường, vấn đề lan truyền bệnh v.v.)
(Allsoppet al., 2008; Bush và Belton, 2012;
Bush et al., 2013; Han và Immink, 2013).
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
• Về thực trạng kỹ thuật
Có một sự khác biệt đáng kể trong các
tần suất thay nước giữa các hệ thống nuôi tôm
(p<0,05), việc thay nước của mơ hình TR và
QCCT chủ yếu dựa vào chế độ thủy triều, vì
vậy nó thường được thực hiện hai tuần một lần
hoặc hàng tháng, và đây cũng là một nguồn bổ
sung giống tự nhiên và thức ăn tự nhiên cho ao/

vuông nuôi tôm. Với các trang trại QML tần
suất thay nước là không thường xuyên và nó
được dựa trên kinh nghiệm của người quản lý
về màu nước, và nguồn nước mới chủ yếu đến
từ các ao lắng hoặc kênh cấp nước nội bộ của
hộ/trang trại.
Hệ thống nuôi TR và QCCT không sử dụng
thức ăn, trong khi các loại hệ thống ni tơm
cịn lại sử dụng thức ăn cơng nghiệp cho ni

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

131


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
tơm. Với những hộ ni tơm có bổ sung thức ăn,
thì việc tiếp cận nguồn trả chậm thức ăn từ đại
lý thức ăn chỉ dễ dàng với những hộ sản xuất có
uy tín và nuôi tôm thành công nhiều năm, các hộ
làm ăn thất bại rất khó có cơ hội tiếp cận nguồn
vốn này.
Việc xả nước thải dựa vào sự chênh lệch
triều áp dụng chủ yếu trong hệ thống TR và
QCCT, trong khi các hệ thống ni tơm cịn lại
áp dụng phương pháp bơm nước hoặc cả hai
phương pháp. Chỉ có một vài trang trại ni
tơm có khu vực chứa bùn hoặc một số trang trại
có những kênh thốt nước nhỏ và đất trống để
lưu trữ bùn, nhưng khả năng chứa bùn của của

những chỗ này bị hạn chế. Việc quản lý chất
thải không tốt, và việc xả chất thải chưa qua xử
lý ra sơng rạch có thể là một ngun nhân gây
ra sự lây lan của dịch bệnh tôm và ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất của nghề ni tơm thời
gian qua.
• Về hiệu quả sản xuất
Hệ thống ni tơm QMN có hiệu quả kinh
tế thấp hơn so với các hệ thống nuôi tôm QML.
Tuy nhiên, các hệ thống với mức độ thâm canh
thấp, không bổ sung thức ăn công nghiệp và ít
sử dụng hố chất có thể là mơ hình ít rủi ro hơn
và bền vững hơn.
• Về chứng nhận
Tơm đã trở thành đối tượng nuôi chủ lực
của ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam, và
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Allsopp, Michelle, Paul Johnston, and David Santillo,
2008. Challenging the Aquaculture Industry on
Sustainability: Technical Overview. Greenpeace
Research Laboratories Technical Note 01/2008.
Exeter.
Anh, T. P., C. Kroeze, Simon R. Bush, and Arthur P. J.
Mol, 2010. Water Pollution by Intensive Brackish
Shrimp Farming in South-East Vietnam: Causes
and Options for Control. Agricultural Water
Management 97(6):872–82.
ASC, 2010. ASC Pangasius Standard. Version 1.0.
Aquaculture Stewardship Council (ASC).
Belton, Ben, 2010. The Social Relations of Aquaculture

Development in South and South East Asia. The
University of Stirling.

132

ngành hàng tơm đã đóng góp quan trọng vào
cơ cấu xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Với xu
thế ngày càng gia tăng của người tiêu dùng về
sản phẩm tơm có chất lượng cao và phải đảm
bảo an tồn về thực phẩm, thì việc cải thiện
canh tác hiện nay ở các hệ thống nuôi tôm từ
mức độ đầu tư thấp đến mức độ đầu tư cao cần
được thúc đẩy. Các chứng nhận thực phẩm
quốc tế ngày càng được nhà nhập khẩu quan
tâm và yêu cầu, đây cũng là một chỉ số quan
trọng để đánh giá tính bền vững của ngành
hàng tơm, do vậy việc tiếp cận các chứng
nhận dần trở thành yêu cầu nhất thiết với các
trang trại nuôi tôm. Hiện nay khoảng cách từ
thực trạng sản xuất tôm đến các tiêu chuẩn
chứng nhận cịn khá xa, vì vậy các trang trại
ni tơm đặc biệt là quy mơ nhỏ cần có những
cải thiện để hoàn chỉnh hơn điều kiện cơ sở
hạ tầng, điều kiện canh tác và kỹ thuật canh
tác để xúc tiến việc áp dụng các chứng nhận
quốc tế.
5.2. Kiến nghị
Việc tiếp cận chứng nhận quốc tế đối với
hộ quy mô nhỏ lẻ là rất khó, vì thế cần khuyến
khích phát triển hình thức tổ hợp tác và hợp tác

xã để cùng sản xuất và đạt các chứng nhận theo
nhóm. Để việc thực hiện chứng nhận nhóm có
tính khả thi thì cũng cần những hỗ trợ về kỹ
thuật và chính sách thúc đẩy từ Nhà nước, và
cũng cần xúc tiến chương trình hợp tác công tư
để thúc đẩy và nâng cấp chuỗi giá trị tôm.
Belton, Ben and Simon R. Bush, 2014. Beyond Net
Deficits: New Priorities for an Aquacultural
Geography. The Geographical Journal 180(1):3–14.
Belton, Ben, Mohammad Mahfujul Haque, David C.
Little, and Sinh X. Le, 2011. Certifying Catfish in
Vietnam and Bangladesh: Who Will Make the Grade
and Will It Matter? Food Policy 36(2):289–99.
Belton, Ben and David C. Little, 2011. Contemporary
Visions for Small-Scale Aquaculture. Pp. 151–70
in World Small-scale Fisheries: Contemporary
Visions, edited by R. Chuenpagdee. Delf: Eburon.
Bijman, J., 2007. The Role of Producer Organizations in
Quality-Oriented Agrifood Chains; an Economic
Organization Perspective. Pp. 257–77 in Tropical
food chains. Governance regimes for quality
management, edited by R. Ruben, A. V. Tilburg,
J. Trinekens, and M. V. Boekel. Wageningen

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Academic Publishers.
Brunori, Gianluca et al., 2011. Sustainable Food

Consumption and Production in a ResourceConstrained World. 3rd SCAR Foresight Exercise,
Standing Committee on Agricultural Research
(SCAR), European Commission. Luxembourg.
Bush, S. R., Paul A. M. Van Zwieten, et al., 2010.
Scenarios for Resilient Shrimp Aquaculture in
Tropical Coastal Areas. Ecology and Society
15(2):15.
Bush, S. R. et al., 2013. Certify Sustainable Aquaculture.
Science 341(September):1067–68.
Bush, S. R., N. T. Khiem, and N. M. Chau., 2010.
Is There a Business Case for Small-Holders
in Vietnamese Pangasius? Aquaculture Asia
Magazine XV(4):18–23.
Bush, Simon R., 2008. The Social Science of
Sustainable Bioenergy Production in Southeast
Asia. Biofuels, Bioprod. Bioref 2:126–32.
Bush, Simon R. and Ben Belton, 2012. Out of the
Factory and Into the Fish Pond Can Certifi
Cation Transform Vietnamese Pangasius? Pp.
257–90 in Food practices in Transition: changing
food consumption, retail and production in the
Age of reflexive modernity, edited by and A. L.
Gert Spaargaren, Peter Oosterveer. New York:
Routledge.
Bush, Simon R. and Peter Oosterveer, 2007. The
Missing Link: Intersecting Governance and Trade
in the Space of Place and the Space of Flows.
Sociologia Ruralis 47(4):385–99.
Bush, Simon R. and Peter Oosterveer, 2012. Linking
Global Certification Schemes and Local Practices

in Fisheries and Aquaculture. SPC Traditional
Marine Resource Management and Knowledge
Information Bulletin 29:15–21.
Cannon, James and Howard Johnson, 2013.
Assessment of the Vulnerability of the Mekong
Delta Pangasius Catfish Industry to Development
and Climate Change in the Lower Mekong Basin.
Report Prepared for the Sustainable Fisheries
Partnership.
CBI, 2012. The Vietnamese Seafood Sector A Value
Chain Analysis. Wageningen.
Corsin, Flavio, Simon Funge-Smith, and Clausen
Jesper, 2007. A Qualitative Assessment of
Standards and Certification Schemes Applicable
to Aquaculture in the Asia – Pacific Region. RAP
PUBLICATION 2007/25. FAO Regional Office
for Asia and the Pacific. Bangkok, Thailand.
Dannson, A., 2004. Strengthening Farm-Agribusiness
Linkages in Africa, Agricultural Management,
Marketing and Finance Service. Occasional Paper
6, FAO. Rome.
Dey, Madan M. and Mahfuzuddin Ahmed., 2005.
Aquaculture—Food and Livelihoods for the

Poor in Asia: A Brief Overview of the Issues.
Aquaculture Economics & Management 9(12):1–10.
Fisheries Directorate, 2012. Report on the Vietnam
Shrimp Production and Consumption in 2012
and Plan of 2013 (in Vietnamese). Ministry of
Agriculture & Rural Development. Ha Noi.

Fisheries Directorate, 2013. Review on the
Achievements of 2012 Plan and Implementation
of 2013 Plan (in Vietnamese), Ministry of
Agriculture & Rural Developemnt. Ha Noi.
Francesconi, G. N., 2009. Cooperation for CompetitionLinking Ethiopian Farmers to Markets.
Wageningen University, the Netherlands.
GAA, 2009. Aquaculture Facility Certification: Shrimp
Farms. Best Aquaculture Practices Certification
Standards, Guidelines. Global Aquaculture
Alliance (GAA).
GAA, 2010. Aquaculture Facility Certification:
Pangasius Farms. Best Aquaculture Practices
Certification Standards, Guidelines. Global
Aquaculture Alliance (GAA).
Gereffi, G., J. Humphrey, and T. J. Sturgeon, 2005. The
Governance of Global Value Chains. Review of
International Political Economy 12(1):78–104.
GlobalGAP, 2011. Control Points and Compliance
Criteria: All Farm Base. Code Ref: IFA V4.0
March11; Edition AF 4.0-1; English Version.
Grunert, Klaus G. et al, 2005. “Market Orientation of
Value Chains: A Conceptual Framework Based
on Four Case Studies from the Food Industry.”
European Journal of Marketing 39(5/6):428–55.
Han, Han and Anton Immink, 2013. “A Zonal
Approach for Aquaculture Sustainability.”
INFOFISH International 26–28. Retrieved
(.
s3.amazonaws.com/2013/11/26/26 - 28 _ Han
Han - A zonal approach for aquaculture-2bdfaec03.pdf).

Haugen, A. S., S. Bremer, and M. Kaiser, 2013.
Assessment of Costs and Benefits of Mandatory
and Voluntary Certification Schemes Applied to
Asian Producers. SEAT Deliverable 8.5,Centre
for the Study of the Sciences and Humanities,
University of Bergen. Bergen.
Henson, S., S. Jaffee, J. Cranfield, and P. Siegel, 2008.
Linking African Smallholders to High-Value
Markets: Practitioner Perspectives on Benefits,
Constrains, and Interventions. Policy Research
Working Paper, the World Bank.
Hoa, Tran Thi Tuyet, Mark P. Zwart, Nguyen Thanh,
Just M. Vlak, and Mart C. M. De Jong, 2011.
“Transmission of White Spot Syndrome Virus in
Improved-Extensive and Semi-Intensive Shrimp
Production Systems : A Molecular Epidemiology
Study.” Aquaculture 313(1-4):7–14.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

133


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Irz, Xavier, James R. Stevenson, Arnold Tanoy,
and Pierre Morissens, 2007. “The Equyty and
Poverty Impacts of Aquaculture: Insights from
the Philippines.” Development Policy Review
25(April 2004):495–516.
Jespersen, Karen Sau, Ingrid Kelling, Stefano Ponte, and

Froukje Kruijssen, 2014. “Institutional Frameworks
and the Governance of Aquaculture Value Chains:
Lessons from Asia.” Food Policy in press.
Kambewa, E. V., 2007. “Balancing the People, Profit
and Planet Dimensions in International Marketing
Channels - A Study on Coordinating Mechanisms
in the Nile Perch Channel from Lake Victoria.”
Wageningen University, the Netherlands.
Kariuki, L., 2006. “Participation of Smallholders
in International Trade.” Agro-food Chains and
Network for Development 14:41–48.
Kelling, Ingrid, 2012. “Knowledge Is Power? A Market
Orientation Approach to the Global Value Chain
Analysis of Aquaculture: Two Cases Linking
Southeast Asia and the EU.” The University of
Stirling.
Kelling, Ingrid, Froukje Kruijssen, and Chen Oai
Li, 2010. Review of Trade, Regulation and
Certification Issues Related to Farmed Aquatic
Animals. SEAT Deliverable 2.7, The WorldFish
Center. Penang.
Key, N. and D. Runsten, 1999. “Contract Farming,
Smallholders, and Rural Development in Latin
America: The Organization of Agro-Processing
Firms and the Scale of out Grower Production.”
World Development 27(2):381–401.
Khiem, Nguyen T., Simon R. Bush, Chau M. Nguyen,
and Loc T. T. Vo, 2010. Upgrading Small-Holders
in the Vietnamese Pangasius Value Chain. Final
Report, ODI grant number RO334, An Giang.

Khoi, Le Doan Nguyen, 2011. “Quality Management
in the Pangasius Export Supply Chain in Vietnam:
The Case of Small-Scale Pangasius Farming in the
Mekong River Delta.” University of Groningen.
Lam, X. T. and M. H. Truong, 2010. Current Status
of Best Aquaculture Practices (BAP) Certification
Apply for the Black Tiger Shrimp (Penaeus
Monodon) Culture in the Mekong River Delta.
College of Aquaculture & Fisheries, Can Tho
University, Can Tho.
Le, Sinh Xuan, 2009. “Social Impacts of Coastal
Aquaculture in the Mekong Delta.” Pp. 95–107
in Measuring the contribution of small-scale
aquaculture: an assessment. FAO Tecnical paper
534, edited by M. Bondad-Reantaso M.G.; Prein.
Rome: FAO.
Mohan, C. V., 2013. “Aquaculture Certification:
Producer Compliance Constraints.” in VIETFISH
2013: Trade Show and Conference in Vietnam,
Vietnam Association of Seafood Exporters and

134

Producers. Ho Chi Minh.
Murray, F. J. et al., 2011. Report on Boundary Issues.
SEAT Deliverable 2.8. SEAT project, Institute of
Aquaculture, The University of Stirling, Stirling.
Naturland, 2012. Naturland Standards for Organic
Aquaculture. Naturland - Association for Organic
Agriculture, Registered Association. Gräfelfing,

Germany.
Nguyen, Phuong T. and Oanh T. H. Dang, 2009.
“Striped Catfish Aquaculture in Viet Nam: A
Decade of Unprecedented Development.” Pp.
133–50 in Success Stories in Asian Aquaculture,
edited by S. S. De Silva and F. B. Davy. Springer
and IDRC, Canada, Drodecht, The Netherlands.
Nguyen, T. T. et al., 2009. Project on Development
Planning for Aquaculture Sector in the Mekong
Delta up to 2015 and Strategic Planning up to
2020 (in Vietnamese). Ministry of Agriculrue &
Rural Development. Ho Chi Minh.
Nhuong, Tran V. et al., 2003. The Shrimp Industry in
Vietnam: Status, Opportunities and Challenges.
Research Institute for Aquaculture No.1, Ha Noi.
Nietes-Satapornvanit, Arlene, 2014. “Sustainable
Development of Export-Orientated Farmed
Seafood in Thailand.” The University of Stirling.
Oanh, Dang Thi Hoang and Nguyen Thanh Phuong,
2012. “Serious Diseases in Marine Shrimp and
Freshwater Prawn Farming in the Mekong River
Delta.” Science Journal of Can Tho University
22c:106–18.
Oosterveer, Peter. 2006, “Globalization and
Sustainable Consumption of Shrimp: Consumers
and Governance in the Global Space of Flows.”
International Journal of Consumer Studies
(September):465–76.
Page, S. and R. Slater. 2003, “Small Producer
Participation in Global Food Systems: Policy

Opportunities and Constraints.” Development
Policy Review 21(5-6):641–54.
Pham, Anh T., Simon R. Bus, Arthur P. J. Mol,
and Carolien Kroeze, 2011. “The Multi-Level
Environmental Governance of Vietnamese
Aquaculture: Global Certification , National
Standards , Local Cooperatives.” Journal of
Environmental Policy & Planning 13(4):373–97.
Phan, Lam T. et al. 2009. “Current Status of Farming
Practices of Striped Catfish, Pangasianodon
Hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam.”
Aquaculture 296(3-4):227–36.
Phan, Lam T., Phuong T. Nguyen, Francis J. Murray,
and David C. Little. 2011. Development Trends
and Local Sustainability Perceptions for the
International Trade in Seafood Farmed in
Vietnam. SEAT Deliverable 2.1, The University of
Stirling. Stirling.
Ponte, Stefano, Ingrid Kelling, Karen Sau Jespersen,

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
and Froukje Kruijssen. 2014. “The Blue
Revolution in Asia: Upgrading and Governance in
Aquaculture Value Chains.” World Development
64:52–64.
Reardon, T. and C. P. Timmer. 2006. “Transformation
of Markets for Agricultural Output in Developing

Countries Since 1950: How Has Thinking
Changed?” in Handbook of Agricultural
Economics, edited by T. Reardon and C. P.
Timmer. Elsevier.
Reilly, Alan. 2007. “From Farm to Fork – New
European Food Hygiene Regulations.” Pp. 47–
57 in International seafood trade: challenges
and opportunities, edited by W. Einarsson, H.;
Emerson. Akureyri, Iceland: FAO Fisheries &
Aquaculture proceeding 13. FAO.
Ruben, R., A. V. Tilburg, J. Trinekens, and M. V.
Boekel. 2007. “Linking Market Integration,
Supply Chain Governance, Quality and Value
Added.” Pp. 13–46 in In Tropical Food Chains:
Governance Regimes for Quality Management,
edited by R. Ruben, A. V. Tilburg, J. Trinekens,
and M. V. Boekel. Wageningen: Wageningen
Academic Publishers.
Segura, S. F. 2006. “Contract Farming in Costa Rica.
Opportunities for Smallholders?” Wageningen
University, the Netherlands.
SFP. 2013. “Vietnamese Pangasius Aquaculture
Improvement Project.” Sustainable Fisheries
Partnership.
Retrieved
(http://www.
sustainablefish.org/aquaculture-improvement/
pangasius/pangasius-aquaculture-improvementpartnership).
Siar, Susana V. and Percy E. Sajise. 2009. “Access
Rights for Sustainable Small-Scale Aquaculture

and Rural Development.” Pp. 87–95 in Measuring
the contribution of small-scale aquaculture: an
assessment. FAO Tecnical paper 534, edited by
M. Bondad-Reantaso M.G.; Prein. Rome: FAO.
De Silva, Sena S. and Phuong T. Nguyen. 2011. “Striped
Catfish Farming in the Mekong Delta, Vietnam: A
Tumultuous Path to a Global Success.” Reviews in
Aquaculture 3(2):45–73.
Sriwichailamphan, T., 2007. “Global Food Chains
and Environment: Agro-Food Production and
Processing in Thailand.” Wageningen University,
the Netherlands.
Subasinghe, Rohana, Doris Soto, and Jiansan Jia, 2009.
Global Aquaculture and Its Role in Sustainable
Development. Reviews in Aquaculture 1(1):2–9.
Tran, Nhuong, Conner Bailey, Norbert Wilson, and
Michael Phillips, 2013. Governance of Global
Value Chains in Response to Food Safety and
Certification Standards: The Case of Shrimp from
Vietnam. World Development 45(202374):325–36.

Trifković, Neda, 2013. The Role of Food Standards
in Development: An Empirical Perspective.
University of Copenhagen.
Umesh, N. R. et al., 2009. Shrimp Farmer in India:
Empowering Small Scale Farmer through a
Cluster-Based Approach. Pp. 43–65 in Success
Stories in Asian Aquaculture, edited by S. S. De
Silva and F. B. Davy. Springer and IDRC, Canada,
Drodecht, The Netherlands.

VASEP. 2014, Report on Vietnam Seafood Export in
2013 (in Vietnamese). Vietnam Association of
Seafood Exporters and Producers. Ha Noi.
VIFEP, 2009. Project on Development Planning for
Crustacean Production and Consumption of
Vietnam Upto 2020 (in Vietnamese). Vietnam
Institute of Fisheries & Economic Plan. Ha Noi.
VIFEP, 2015. Project on Development Planning for
Crustacean Production and Consumption of
Vietnam Upto 2020 (in Vietnamese). Vietnam
Institute of Fisheries & Economic Plan. Ha Noi.
Vo, L. T. T., S. R. Bush, and S. X. Le., 2009. Assessment
of Value Chains for Promoting Sustainable
Fisheries Development in the Mekong Basin: Cases
of Pangasius in Vietnam and Cambodia. Vietnam
Economic Management Review 26(5-6):32–42.
Vu, An V. and Lam T. Phan, 2008. Inland Fisheries
and Aquaculture in the Mekong Delta: A Review.
Research Institute for Aquaculture No.2, Ho Chi
Minh.
Vu, T. A. et al., 2013. Status of Small-Scale
Environmentall Friendly Shrimp Production in
the Ca Mau Province, the Mekong Delta, Vietnam.
GIZ Vietnam, Ca Mau.
Washington, S. and L. Ababouch, 2011. Private
Standards and Certification in Fisheries and
Aquaculture: Current Practice and Emerging
Issues. Food and Agriculture Organization, Rome.
Washington, Sally and Lahsen Ababouch, 2011.
Private Standards and Certification in Fisheries

and Aquaculture: Current Practice and Emerging
Issues. FAO Fisher. Rome: Food and Agriculture
Organization of United Nations.
WWF, 2011. Draft Stabdards for Responsible
Shrimp Aquaculture. Version 3.0 for Guidance
Development and Field Testing, ShAD.
Yamprayoon, Jirawan and Krissana Sukhumparnich.
2010, Thai Aquaculture: Achieving Quality and
Safety through Management and Sustainability.
Journal of the World Aquaculture Society
41(2):274–80.
Young, James A., Ian Goulding, and Roderick L. Stirrat.
2011,Post-Harvest to Consumer Driver Review of
the Aquatic Supply Chain. Driver Review-DR17/
Foresight Project on Global Food and Farming
Futures. London.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016

135


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

FARMING PRACTICES AND CHALLENGES TO REACH FOOD
STANDARDS OF SMALL-SCALE SHRIMP FARMS
IN THE MEKONG DELTA
Phan Thanh Lam1*
ABSTRACT
Shrimp culture becomes main occupation of many farmers in the coastal areas of the Mekong

River Delta (MKD); however, shrimp farming has not really sustainable. This study is to assess
the current farming practices and challenges to reach international food standards of small-scale
shrimp farms. This study was carried-out in four coastal provinces in the MKD,A randomized
stratified sampling method was used to select survey-sites and survey-farms for interview. The
230 belongings to five typical shrimp farming systems in the MKD were selected for face-to-face
interviewing. The findings show that many shrimp farms were likely to reach several standard
criteria such eFCR (≤1.8 in Black Tiger Shrimp culture, and ≤1.5 in White-legged Shrimp culture),
stocking density (≤15PL/m2 in the lower investment shrimp system), survival rate (>25% in the
lower investment shrimp system, and >60% in the higher investment shrimp system), no banned
chemical/drug and wild-seed source use, community relationships, property rights, and biodiversity
protection. However, there are still many standard criteria that farms could not meet such as criteria
for effluent management (most farms release their waste water without any treatment and had no
sediment basins), registration of farms (many farms were not legally registered), shrimp mortality
management (lack of proper methods), labor arrangements (verbal contracts), farm hygiene, and
recordkeeping requirements.With these current shrimp farming practices, it is still far behind to
reach criteria of the food standards; therefore, the shrimp farms, especially small-scale farms
need to be strengthened and to improved their infrastructure conditions and farming techniques to
promote the adoption of international food standards.
Keywords: farming practices, small-scale farm, food standards.



Người phản biện: TS. Vũ Anh Tuấn
Ngày nhận bài: 18/11/2015
Ngày thông qua phản biện: 18/12/2015
Ngày duyệt đăng: 25/12/2015

1. Department of Fisheries Ecology &Aquatic Resources, Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:


136

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016



×