Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.39 KB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG ANH THANH

BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG ANH THANH

BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi,
dưới sự chỉ dẫn của thầy hướng dẫn khoa học. Các kết quả nêu trong luận
văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn

Hoàng Anh Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI VÀ QUY ĐỊNH THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................ 8
1.1. Lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.......... 8
1.2. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt
người ..................................................................................................................... 19
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH................................................. 30
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bắt
người ..................................................................................................................... 30
2.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện
pháp ngăn chặn bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ........................................ 45
2.3. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc áp dụng biện pháp
bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................. 52
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ....................................................... 62
3.1. Một số yêu cầu góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................ 62
3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................. 65
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CAND:

Cơng an nhân dân

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CSĐT:


Cảnh sát điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

PCTP:

Phòng, chống tội phạm

TAND:

Tòa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự


VPPL:

Vi phạm pháp luật

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những BPNC thì bắt người chiếm vị trí quan trọng và được áp dụng
thường xuyên để đấu tranh PCTP. Bắt người là một BPNC trong TTHS phục vụ
hiệu quả cho việc ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều
tra, giải quyết VAHS, với mục đích: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có
căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án” [35, tr.101]. Biện pháp bắt
người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ biến trong thực
tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết VAHS. Việc áp dụng
biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan trọng cho việc chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý

cơng minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội cũng như khơng để
lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Tuy nhiên, bắt người là biện pháp
ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, những quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân, nếu bắt oan, sai thì hậu quả của nó rất phức tạp và có
thể khơng lường trước được. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là
vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
một số quyền con người và quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến
pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người...; nó liên quan nhiều đến việc thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó,
những VPPL về biện pháp bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền
con người trong TTHS rất dễ bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tuyên
truyền xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, BLTTHS năm
2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều quy định mới về biện pháp bắt người cũng
chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Quảng Bình là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh,
phía Đơng giáp biển Đơng, phía Tây giáp hai tỉnh Khăm Muộn và Sa Vẳn Na Khệt
1


của nước CHDCND Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị. Quảng Bình có diện tích
tự nhiên là 8.065 km2; dân số đến năm 2019 là 953.914 người. Thời gian qua, trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình, tình hình các loại tội phạm diễn biến phức tạp, có chiều
hướng gia tăng với nhiều loại tội phạm mới, hình thức, thủ đoạn phạm tội hết sức
phức tạp và tinh vi. Theo số liệu báo cáo tổng kết công tác đấu tranh PCTP cho thấy
trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, các lực lượng chức năng trên
địa bàn tỉnh đã phát hiện, khởi tố mới 3.680 vụ phạm pháp hình sự. Theo đó, từ năm
2011 đến năm 2015, Cơ quan CSĐT - Cơng an tỉnh Quảng Bình đã bắt 4.960 đối
tượng, trong đó: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 1.019 đối tượng (chiếm

tỷ lệ 20,54%); bắt người phạm tội quả tang 2.235 đối tượng (chiếm tỷ lệ 45,06%);
bắt người đang bị truy nã 195 đối tượng (chiếm tỷ lệ 3,93%); bắt bị can, bị cáo để
tạm giam 1.511 đối tượng (chiếm tỷ lệ 30,47%) [47, tr.14]. Những số liệu trên đã
cho thấy tính chất cơng tác bắt giữ đối tượng phạm tội là vấn đề được tiến hành
thường xun. Trong khi đó, cơng tác xử lý các vụ án, các đối tượng gây án còn
nhiều bất cập, gặp nhiều khó khăn trong q trình áp dụng các quy định pháp luật
hình sự, nhất là vấn đề áp dụng BPNC bắt người theo pháp luật TTHS.
Về biện pháp bắt người, cho đến nay cũng đã có nhiều cơng trình trong và
ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, do khác nhau về phương pháp tiếp cận, về giới
hạn địa bàn nghiên cứu, về thời gian và phạm vi khảo sát cho nên nhiều vấn đề có
liên quan đến biện pháp bắt người cịn chưa được đề cập, nghiên cứu tới. Vì vậy,
nghiên cứu hoàn thiện lý luận, nâng cao hiệu quả biện pháp bắt người trong TTHS
tại tỉnh Quảng Bình là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh PCTP đảm bảo sự ổn định về TTATXH, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình. Xuất phát từ yêu
cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về nội
dung này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Bắt người theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp
Cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, ở nước ta đã có rất nhiều các cơng trình khoa học, như: giáo
trình, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa
2


học, bài báo khoa học nghiên cứu, đề cập đến biện pháp bắt người theo pháp luật
TTHS Việt Nam, cụ thể như:
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Học viện Cảnh sát nhân
dân, Nxb.CAND, Hà Nội, 2005;
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Phạm Mạnh Hùng

(chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016;
- “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb. CAND, 2008;
- “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự” của GS.TS Võ Khánh Vinh
(chủ biên), Nxb. CAND, 2007;
- “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của TS. Trần Văn
Biên - TS. Đinh Thế Hưng (đồng chủ biên), Nxb. Thế giới, 2017;
- Sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng
Phúc, Nxb. Chính trị quốc gia, 2015;
- Sách chuyên khảo “Hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động của lực lượng
Cảnh sát nhân dân” của TS. Trịnh Văn Thanh, Nxb. CAND, 2001;
- Sách chuyên khảo “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình
sự” của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011;
- Luận án Tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ” của Nguyễn Văn
Điệp, Đại học Luật Hà Nội, 2005;
- Luận văn Thạc sĩ “Vấn đề bắt oan, sai trong hoạt động điều tra vụ án hình
sự và một số giải pháp khắc phục của Cơ quan Cảnh sát điều tra hiện nay” của Võ
Quốc Công, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2005;
- Luận văn Thạc sĩ “Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của Lê Thị
Thu Nguyệt, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017.
Những công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến biện pháp bắt người theo
pháp luật TTHS Việt Nam. Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ cơ
3


sở lý luận về BPNC bắt người, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp

dụng BPNC bắt người. Tuy nhiên, nhìn chung biện pháp bắt người được các nhiều
nhà khoa học nghiên cứu, đề cập ở trên với các mức độ, khía cạnh khác nhau và gắn
với các địa bàn khác nhau. Theo khảo sát của tác giả trong những năm gần đây chưa
có cơng trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng BPNC bắt
người theo pháp luật TTHS Việt Nam tại địa bàn tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật hoàn toàn đáp ứng
được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về BPNC bắt người.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng BPNC bắt người hiện nay trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, tồn tại của việc áp dụng
biện pháp này trong thực tiễn, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt người
và phòng ngừa những vi phạm trong việc áp dụng biện pháp này của cơ quan chức
năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, trong q trình nghiên cứu chúng tôi
sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa và thống nhất nhận thức một số vấn đề lý luận và pháp lý cơ
bản về BPNC bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành.
- Khảo sát thu thập thông tin, số liệu thực tế nhằm phân tích tình hình áp
dụng BPNC bắt người để minh họa cho quá trình thực tiễn áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới của cơ quan chức
năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

4



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy
định tại BLTTHS năm 2003.
- Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy
định tại BLTTHS năm 2015.
- Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu các quy định về biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà
nước và pháp luật nói chung, Nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực
xã hội, mọi hoạt động của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc
hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, Nhà nước pháp
quyền và vấn đề quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong
luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh, phân tích các tài liệu, số
liệu, phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận
5


văn; tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người
trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát.
- Phương pháp thống kê: được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thực tế
thu thập tại địa bàn Quảng Bình nhằm minh họa, làm rõ thực trạng của tình hình áp
dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình từ năm 2015 đến năm 2019 trong chương 2 của luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình (được sử dụng chủ yếu tại
chương 2): Để có cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, đánh giá trong luận văn,
tác giả đã nghiên cứu, tìm hiểu hồ sơ một số vụ án trong đó có áp dụng biện pháp
bắt người đạt kết quả cao hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt
động TTHS tại địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019.
+ Phương pháp trao đổi, tọa đàm: được sử dụng để trao đổi, tìm hiểu một số
thơng tin thực tế từ các cán bộ điều tra, ĐTV của Cơ quan CSĐT Cơng an tỉnh
Quảng Bình có kinh nghiệm trong cơng tác chỉ đạo và tiến hành hoạt động bắt
người theo pháp luật TTHS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hồn thiện lý luận khoa học về
BPNC nói chung, biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng.
Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho
các học viên ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực
tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và

TTHS để ngăn chặn, đấu tranh PCTP trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Luận văn là
cơng trình khoa học đầu tiên khảo sát một cách toàn diện và sâu sắc về thực tiễn áp
dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình từ năm 2015 đến năm 2019. Làm rõ những kết quả đạt được, các hạn chế,
nguyên nhân những hạn chế, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hồn thiện các
quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự, TTHS để thực hiện biện pháp bắt người trong đấu tranh PCTP ở
6


địa bàn tỉnh Quảng Bình. Ngồi ra, luận văn cịn là tài liệu tham khảo cho các giảng
viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan
đến Luật hình sự và TTTHS nói chung, các BPNC nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục phần
nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương.
Chương 1: Lý luận về bắt người và quy định theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp
ngăn chặn bắt người và thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp bắt
người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

7


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI VÀ QUY ĐỊNH
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt

Nam
1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt người
Để làm rõ nội dung pháp lý của biện pháp bắt người trong TTHS chúng ta
cần phải làm rõ một số khái niệm có liên quan như: Biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế trong TTHS.
Thứ nhất, về biện pháp ngăn chặn: Các BPNC trong TTHS được quy định tại
Điều 109, BLTTHS năm 2015 như sau:
“1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị
buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội
hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền THTT trong phạm vi
thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú,
tạm hoãn xuất cảnh. 2. Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị
cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.” [35, tr.101].
Thứ hai, biện pháp cưỡng chế: Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn
ngữ học biên soạn năm 2010: “Cưỡng chế là bắt phải tuân theo bằng sức mạnh
quyền lực” [50, tr.599]. Căn cứ vào loại VPPL khác nhau, cưỡng chế cũng có được
chia thành các loại khác nhau, như: cưỡng chế dân sự, cưỡng chế hành chính, cưỡng
chế hình sự và cưỡng chế TTHS. Các biện pháp cưỡng chế trong TTHS được quy
định tại Điều 126 - BLTTHS năm 2015 như sau: “Để bảo đảm hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan,
người có thẩm quyền THTT có thể áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài
sản, phong tỏa tài khoản” [35, tr.121]. Như vậy, có thể khẳng định rằng biện pháp
bắt người là BPNC mang tính cưỡng chế trong TTHS, là một thuật ngữ đã xuất hiện
từ lâu đời và được mọi người sử dụng thường xuyên trong đời sống xã hội.
8


Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010 thì:

“Bắt là một động từ diễn tả sự nắm lại, giữ lại một người hay một sinh vật nào đó
khơng để cho tự do hoạt động hoặc cử động” [50, tr.60]. Còn theo Từ điển Tiếng
Việt của Nguyễn Như Ý xuất bản năm 1998 thì “Bắt là nắm lại, giữ lại, không để
cho tự do hoạt động hoặc cử động” [53, tr.74].
Như vậy, bắt được bắt đầu khi chủ thể thực hiện hành động nắm, giữ và kết
thúc khi hành động nắm giữ đó chấm dứt. Bắt ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Khi
tiếp cận bắt với tư cách là một BPNC trong TTHS, do chưa có định nghĩa pháp lý
về biện pháp bắt người, cho nên đã có nhiều quan điểm khác nhau, đáng chú ý là
một số quan điểm sau:
ThS. Nguyễn Hữu Hn cho rằng: “Bắt người là BPNC có tính cưỡng chế
nghiêm khắc, vì vậy việc bắt người nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ
tục rất chặt chẽ mà pháp luật quy định” [24, tr.5].
Theo quan niệm của ThS. Nguyễn Hồng Ly: “Bắt người là giữ người phạm
pháp, không cho tiếp tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phịng
người đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại cho việc điều tra. Bắt
người là một trong những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhất của Nhà nước để trấn
áp, ngăn chặn những hành động phạm tội… Bắt người là một trong những BPNC
do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa
bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp
luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi
và đúng pháp luật” [27, tr.31-32].
Theo Từ điển Bách khoa CAND của Nxb. CAND xuất bản năm 2005: “Bắt
người phạm tội là một BPNC trong TTHS, được tiến hành theo quy định của pháp
luật và theo lệnh của CQĐT, VKS, Tòa án nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và
khơng gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc đảm bảo thi
hành luật” [4, tr.35].
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm:
“Bắt nguời là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, nguời đang bị
truy nã và trong truờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với
nguời chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ,

9


ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự.” [45, tr.200].
Cịn theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ xa Đại
học Mở Hà Nội thì: “Bắt người là BPNC trong TTHS do CQĐT, VKS, Tòa án áp
dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn
tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật”
[46, tr.214].
Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm biện pháp bắt người
trong TTHS như sau: “Biện pháp bắt người trong TTHS là BPNC trong TTHS, do
những người có thẩm quyền theo luật định tiến hành áp dụng đối với bị can, bị cáo,
người đang bị truy nã hoặc người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị
khởi tố khi có những căn cứ do luật định, theo trình tự thủ tục nhất định nhằm ngăn
chặn tội phạm và bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật”.
Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối với người
phạm tội mà là BPNC trong TTHS được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội
phạm, chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm
tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của những cơ quan có thẩm quyền THTT. Bắt
người trong TTHS là giữ người thực hiện hành vi phạm tội, khơng cho người đó
tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đề phịng người đó bỏ trốn hoặc gây khó khăn
cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công cuộc đấu tranh PCTP cũng như yêu
cầu tăng cường pháp chế XHCN; bảo đảm quyền con người của cơng dân, kế thừa
có chọn lọc các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật TTHS trước đây.
BLTTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người gồm: Bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Bắt

bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ [35, tr.101].
1.1.2. Những yêu cầu và vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người
1.1.2.1. Những yêu cầu của biện pháp ngăn chặn bắt người
Trong hệ thống các BPNC của TTHS thì bắt người là biện pháp quan trọng
10


được áp dụng rất phổ biến. Việc áp dụng biện pháp bắt người khơng chỉ có ý nghĩa
quan trọng đối với cơng tác đấu tranh PCTP nói chung và việc giải quyết các nhiệm
vụ của q trình TTHS nói riêng mà còn gắn liền với việc hạn chế quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, nhất là các quyền tự do cá nhân được Hiến pháp ghi nhận và
bảo đảm. Do đó, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS, là cơ
sở cho hoạt động bắt người trên thực tiễn, tránh vận dụng biện pháp bắt người một
cách tuỳ tiện, dẫn đến bắt oan người vô tội, bắt khơng đúng thủ tục, bắt trái thẩm
quyền. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS các chủ thể
tiến hành cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Yêu cầu về chính trị
Bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan, sai có ảnh
hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản của cơng dân, do đó biện pháp bắt người
theo TTHS luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, liên quan đến
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, có
rất nhiều những thế lực thù địch, phản động trong và ngồi nước đang tìm mọi cách
để chống phá Nhà nước ta. Hoạt động bắt người phải đảm bảo tốt cho nhiệm vụ
chính trị của Đảng, Nhà nước và của địa phương trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
phát triển của đất nước.
Cơng tác đấu tranh PCTP nói chung và việc áp dụng BPNC bắt người trong
quá trình giải quyết VAHS nói riêng đều nhằm mục đích bảo đảm an ninh chính trị
và trật tự, an tồn xã hội. Xuất phát từ yêu cầy này, Đảng và Nhà nước đã có các
hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động bắt người liên quan đến các đối tượng có ảnh hưởng
lớn đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Khi tiến hành áp dụng BPNC bắt người

đối với những đối tượng này thường tạo ra những luồng dư luận, ảnh hưởng đến
những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế dễ bị những thế lực thù địch lợi dụng
xuyên tạc, tuyên truyền nhằm làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nuớc.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần
vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật và tiên quyết thực hiện theo các chỉ
đạo hướng dẫn của Đảng và Nhà nước về BPNC bắt người với những đối tượng đặc
biệt. Đồng thời, xây dựng kế hoạch hạn chế những tiêu cực xảy ra khi tiến hành.
- Yêu cầu về pháp luật
11


Khoản 2, Điều 20, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013
quy định: “Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của TAND, quyết định hoặc
phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người
do luật định” [32, tr.25]. Tại Điều 10 BLTTHS năm 2015 quy định: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của
Tịa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải
theo quy định của Bộ luật này…” [35, tr.15]. Như vậy, để đảm bảo bắt đúng đối
tượng, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS đây là cơ sở cho
hoạt động bắt trên thực tiễn.
Trong quá trình tiến hành bắt, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần có
tài liệu, chứng cứ cần thiết chứng minh rằng họ là đối tượng bị áp dụng BPNC bắt
người. Hoạt động bắt người được tiến hành không đảm bảo yêu cầu sẽ gây tác hại
nhiều mặt như xâm phạm quyền con người và quyền tự do thân thể của cơng dân,
làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan THTT,
gây hoang mang trong dư luận Nhân dân, là cái cớ để các thế lực thù địch, phản
động cả trong và ngoài nước xuyên tạc để chống lại Nhà nước ta. Vì vậy, những tài
liệu chứng cứ để bắt người cần thu thập qua quá trình điều tra xác minh, cũng có thể
thu thập bằng những biện pháp nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện hoạt động bắt

cần phải tuân thủ đúng các điều kiện do luật định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
Bắt người về bản chất là biện pháp cưỡng chế, tác động trực tiếp đến quyền
tự do thân thể của công dân tuy nhiên lại không nhằm xâm phạm đến thân thể họ
như là sự trừng phạt hành vi họ đã thực hiện mà chỉ nhằm mục đích ngăn chặn tội
phạm diễn ra và hạn chế sự nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, cơ quan THTT không
được xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của người bị bắt; tuyệt đối không thực hiện
hành vi tra tấn, bức cung, nhục hình hoặc là bất kỳ hình thức đối xử vơ nhân đạo
nào khác xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Không được dựa vào các tài liệu chưa được kiểm tra, xác minh hay dựa trên ý chí
chủ quan làm căn cứ để thực hiện hoạt động bắt dẫn đến tình trạng oan, sai, bỏ lọt
tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt. Tuy nhiên, trong quá trình tiến
hành hoạt động bắt người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần phải biết vận
12


dụng linh hoạt, đúng pháp luật trong từng trường hợp bắt cụ thể. Để làm được điều
đó cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần nắm vững các quy định của pháp luật
về biện pháp bắt người và áp dụng một cách chính xác, triệt để và đảm bảo an toàn.
- Yêu cầu về nghiệp vụ
Điều tra VAHS là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan của
vụ án nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội. Trong hoạt động điều tra, bắt
người là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn
hành vi phạm tội và có vai trị quan trọng trong cuộc đấu tranh PCTP, trốn tránh
pháp luật cũng như gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS. Trong hoạt động bắt
người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải có trình độ nghiệp vụ chun mơn
vững vàng, có như vậy khi thực hiện việc bắt người mới khơng vấp phải những khó
khăn, vướng mắc. u cầu đối với hoạt động bắt phải đảm bảo tính bất ngờ, khách
quan và chính xác.
Bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng bảo đảm cho việc bắt người được tiến
hành một cách hiệu quả nhất, khi tiến hành hoạt động bắt người không để đối tượng

biết, bỏ trốn, hoặc gây cản trở cho cuộc bắt, hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Yếu tố bất ngờ
được biểu hiện trong kế hoạch bắt người như: bí mật về thời gian, địa điểm sẽ tiến
hành bắt đối tượng, bí mật về sự chuẩn bị lực lượng bắt... Bí mật là yếu tố cần thiết
cho sự thành công của hoạt động bắt người, làm sao để đối tượng bắt chỉ biết là
chúng bị bắt khi lực lượng tiến hành bắt xuất hiện và triển khai lệnh bắt. Muốn đạt
được yêu cầu như vậy, đòi hỏi công tác chuẩn bị cho việc bắt cần phải tỉ mỉ, cẩn
trọng và chu đáo. Trước khi bắt người cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nhân thân của
đối tượng và những tài liệu xác minh ban đầu, phải lập kế hoạch của việc bắt người
chi tiết về thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, công cụ phương tiện hỗ trợ...
đặc biệt cần tính tốn các phương án có thể xảy ra để chủ động, linh hoạt trong quá
trình tiến hành.
Việc bắt người có thành cơng phải đảm bảo tất cả những mục tiêu trong kế
hoạch đã hoạch định trước và linh hoạt trong mọi tình huống có thể xảy ra, khi triển
khai bắt phải tiến hành một cách khẩn trương và nhanh chóng.
1.1.2.2. Vai trị của biện pháp ngăn chặn bắt người
Là một trong những quyền cơ bản, quan trọng bậc nhất của công dân được
13


quy định trong Hiến pháp, tuy nhiên quyền nhân thân, quyền tự do về thân thể rất
dễ bị tác động trực tiếp bởi hoạt động bắt trong TTHS. Vì vậy, cần phải có sự cân
nhắc hết sức quan trọng khi quyết định việc bắt người. Hiệu quả đấu tranh PCTP, sẽ
được nâng cao rõ rệt, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi
trốn tránh pháp luật, đồng thời bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án được thuận lợi nếu việc bắt người đúng pháp luật. Ngược lại, việc bắt người
khơng đúng pháp luật sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nghiêm trọng hơn
nó sẽ xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước
và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực
phản động, thù địch lợi dụng, mượn cớ để xun tạc nói xấu chế độ, nói xấu chính
quyền và chống lại Nhà nước. Quy định và thi hành biện pháp bắt người trong

TTHS có vai trị lớn trong việc giải quyết VAHS, bảo đảm phát hiện chính xác và
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm:
Một là, “BPNC bắt người thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN
trong việc đấu tranh, PCTP” [16, tr.95].
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, khái
niệm tội phạm quy định trong BLHS phải do người có năng lực TNHS hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã
hội mà theo quy định của BLHS hiện hành phải bị truy cứu TNHS. Tội phạm trực
tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến sự bền vững và ổn định của chế độ Nhà nước
XHCN, chế độ chính trị, chế độ kinh tế - xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật XHCN.
Quy định về biện pháp bắt người là thể hiện đường lối, chính sách của Nhà
nước ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội và thể hiện thái độ kiên quyết, triệt
để của Nhà nước trong việc đấu tranh PCTP.
Hai là, “bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền THTT được
thuận lợi, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
PCTP” [16, tr.95].
Khi tiến hành bắt người, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền THTT phải thường xun kiểm tra tính hợp pháp và sự
14


cần thiết của biện pháp bắt người đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi BPNC
bắt người nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn cần thiết nhằm đảm bảo
thực hiện đúng Hiến pháp, đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân theo hiến định. Hiện nay, nhiều vụ án do tính chất phức
tạp, người thực hiện hành vi phạm tội cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do đó, nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả
ngay từ đầu những hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn

cho việc xử lý người phạm tội thì việc áp dụng BPNC bắt người là thực sự cần thiết.
Cùng với đó, việc bắt các đối tượng này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những
khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho q trình giải quyết VAHS.
Ba là, BPNC bắt người giúp việc ngăn chặn tội phạm được kịp thời và hiệu
quả [16, tr.96].
Việc này có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm hậu quả của tội phạm. Kịp
thời ngăn chặn tội phạm góp phần bảo vệ những đối tượng dễ bị tội phạm tác động
tới, đồng thời ngăn chặn và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra.
Bốn là, cơ sở pháp lý để cơ quan, người có thẩm quyền THTT áp dụng
BPNC bắt người trong những trường hợp cần thiết, nhằm đạt được mục đích, nhiệm
vụ của TTHS [16, tr.96].
Việc bắt người có tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do về
thân thể bởi vậy khi áp dụng cần phải tính tốn hợp lý. Bắt người đảm bảo các quy
định của pháp luật TTHS sẽ góp phần tăng cường hiệu quả cuộc đấu tranh PCTP.
Ngược lại, bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại lớn, không những xâm
thêm lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, lực lượng cứu hộ y tế, bác sĩ các
cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận quần chúng Nhân dân, dễ
pháp y, cơ quan quản lý đường sơng, cơ quan quản lý cơng trình đối với vụ tai xấu
chế độ, chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, việc quy định các cơ sở pháp lý đảm bảo
chặt chẽ sẽ góp phần giúp cho việc áp dụng biện pháp bắt người là một yêu cầu cấp
thiết và quan trọng trong TTHS Việt Nam
1.1.3. Bản chất pháp lý biện pháp bắt người
1.1.3.1. Tính cưỡng chế của Nhà nước
Trong xã hội XHCN, giáo dục, thuyết phục là phương pháp chủ yếu, cơ bản
15


để thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trên các phương diện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều này được lý giải từ tính xã hội rộng rãi của
Nhà nước ta: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền

XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân....do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” [32, tr.2], trong đó mọi chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của Nhân
dân. Nhưng bên cạnh biện pháp giáo dục, thuyết phục, việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế là cần thiết, phù hợp với bản chất xã hội rộng rãi của Nhà nước ta, bởi lẽ
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, trong
đó có lợi ích của cá nhân.
Biện pháp bắt người là BPNC nói riêng và là biện pháp cưỡng chế trong
TTHS nói chung. Do đó, bản chất pháp lý của biện pháp bắt người chính là sự
cưỡng chế của Nhà nước mang tính ngăn chặn được áp dụng trong những trường
hợp cần thiết của hoạt động TTHS nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh
PCTP. Về tính chất của sự cưỡng chế, áp dụng biện pháp bắt người chính là sự tác
động trực tiếp của Nhà nước và xã hội lên đối tượng bị áp dụng. Sự tác động này
thể hiện ý chí đơn phương của Nhà nước mà khơng bị cản trở hay phụ thuộc vào ý
chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Các quyết định, lệnh bắt người của cơ quan,
người có thẩm quyền THTT có tính chất bắt buộc đối với người tham gia tố tụng,
các cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Quyết định, lệnh bắt người làm phát
sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa một bên là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện
pháp bắt người và một bên là người bị bắt, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp
lý của các bên. Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, chủ thể có
thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người chủ yếu là người có thẩm quyền THTT.
Bên cạnh đó, cịn có sự tham gia của chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức và
các cá nhân khác, như: chính quyền địa phương tham gia hỗ trợ việc bắt người,
chứng kiến việc bắt người, lập biên bản và giải người bị bắt phạm tội quả tang đến
CQĐT; đại diện của cơ quan, tổ chức tham gia với tư cách là người chứng kiến; cá
nhân tham gia vào việc bắt người với tư cách là người chứng kiến hoặc là người
trực tiếp bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã. Trong trường hợp
người bị bắt chống đối, khơng chấp hành thì chủ thể có thẩm quyền bắt người có thể
16



áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo đảm, thậm chí cả việc sử dụng vũ
lực để khóa trói, vơ hiệu hóa sự kháng cự, chống đối từ phía người bị bắt.
Về nội dung của sự cưỡng chế, áp dụng biện pháp bắt người chính là sự tác
động lên thân thể, tư tưởng, tâm lý và hành vi của chính người bị bắt, qua đó hạn
chế quyền tự do cá nhân của người bị bắt. Áp dụng biện pháp bắt người thực chất là
sự tác động lên thân thể của người bị bắt bằng việc giữ và giải người bị bắt về cơ
quan có thẩm quyền; thậm chí trong trường hợp người bị bắt có hành vi chống đối,
chống trả thì lực lượng thi hành biện pháp bắt người được phép sử dụng vũ lực để
khống chế, trấn áp và vơ hiệu hóa sự chống cự của đối tượng. Khi áp dụng biện
pháp bắt người, các quyền thiết thân nhất của người bị bắt bao giờ cũng bị hạn chế
ở mức độ nhất định. Do đó, biện pháp bắt người phải được áp dụng với đầy đủ các
căn cứ luật định, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thẩm quyền và thủ tục áp
dụng. Biện pháp bắt người cùng với biện pháp tạm giữ người, tạm giam người có
mức độ hạn chế quyền tự do cá nhân của đối tượng bị áp dụng nhiều hơn so với các
BPNC khác, bởi vì nó cách ly đối tượng ra khỏi cộng đồng trong một khoảng thời
gian nhất định. Do đó, bắt người là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc.
1.1.3.2. Tính ngăn chặn
Nhìn chung, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn các
quy định về BPNC so với các quy định trong BLTTHS năm 2003 theo hướng quy
định cụ thể và chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công
dân cho người bị buộc tội, cũng như đảm bảo cho q trình tố tụng được cơng bằng
và hiệu quả. Biện pháp bắt người không chỉ là biện pháp cưỡng chế trong TTHS mà
còn là một BPNC. Bản chất ngăn chặn của biện pháp bắt người được thể hiện trước
hết ở việc ngăn chặn tội phạm. Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế khác
nhau để ngăn chặn mọi hành vi VPPL nói chung và tội phạm nói riêng. Trong đó,
biện pháp bắt người là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm ngăn chặn
tội phạm có hiệu quả. Ngăn chặn tội phạm ở đây là sự ngăn chặn không để cho
người phạm tội thực hiện tội phạm được đến cùng. Bên cạnh đó, tính ngăn chặn của

biện pháp bắt người còn thể hiện ở phương diện ngăn chặn người bị buộc tội tiếp
tục phạm tội, ở chỗ diễn biến tâm lý cũng như thái độ chủ quan của người bị buộc
17


tội cũng rất phức tạp. Bên cạnh những người tỏ rõ sự ăn năn hối lỗi, nhận thức rõ về
lỗi lầm cũng như hành vi phạm tội của mình, cịn có khơng ít người có thái độ
ngoan cố, tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội, như: chuẩn bị công
cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội mới; kích động, xúi giục người khác
phạm tội… Vì vậy, việc áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp này còn là
ngăn chặn người bị buộc tội tiếp tục phạm tội.
Ngoài ra, bản chất ngăn chặn của biện pháp bắt người còn thể hiện việc ngăn
chặn người bị buộc tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Bên cạnh việc nhiều
đối tượng tự nguyện chấp hành, hợp tác tích cực với các cơ quan, người có thẩm
quyền THTT thì cũng có rất nhiều đối tượng tìm đủ mọi cách để trốn tránh sự trừng
phạt của pháp luật, như: bỏ trốn; có dấu hiệu bỏ trốn. Việc điều tra, truy tố, xét xử
sẽ khơng cịn ý nghĩa giáo dục và răn đe nếu người phạm tội tránh được sự trừng
phạt của pháp luật, việc áp dụng biện pháp bắt người sẽ ngăn chặn được hành vi bỏ
trốn của người bị buộc tội nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
BPNC bắt người chính là biện pháp bảo đảm ngăn chặn kịp thời hành vi cản
trở việc xác định sự thật của vụ án. Cản trở việc xác định sự thật của vụ án được
biểu hiện ở nhiều dạng hành vi khác nhau, như: tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu,
đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục
người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đe dọa, khống chế, trả
thù người làm chứng, bị hại… Đây rõ ràng là những hành vi cần phải được ngăn
chặn ngay để đảm bảo tính khách quan của những thơng tin, tài liệu, chứng cứ thu
thập được, góp phần giải quyết vụ án được chính xác, kịp thời.
Như vậy, bản chất ngăn chặn luôn được thể hiện ở biện pháp bắt người, trong
mọi trường hợp bắt người. Tuy nhiên, mức độ thể hiện tính ngăn chặn được thể hiện
khác nhau ở các trường hợp bắt người, như: bắt người phạm tội quả tang thể hiện rõ

tính ngăn chặn tội phạm; bắt người đang bị truy nã, bắt tạm giam bị cáo tại phiên
toà thể hiện rõ sự ngăn chặn việc người bị buộc tội trốn tránh sự trừng phạt của
pháp luật;…
1.1.4. Mối quan hệ giữa biện pháp bắt người với các biện pháp ngăn chặn
khác trong tố tụng hình sự
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, các BPNC bao gồm: giữ
18


người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh [35, tr.101]. Bắt người và các
BPNC khác đều thể hiện bản chất pháp lý là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được
thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực Nhà nước, gắn liền với việc hạn chế quyền
tự do của đối tượng bị áp dụng. Giữa biện pháp bắt người và các BPNC khác luôn
tồn tại mối quan hệ nhất định. Bắt người là BPNC độc lập nhưng có mối quan hệ
tác động qua lại với các BPNC khác. Trong mối quan hệ này, biện pháp bắt người
thường được áp dụng liền trước hoặc “là tiền đề cho việc áp dụng BPNC khác” [40,
tr.20]. Tất nhiên không phải mọi trường hợp bắt người đều dẫn đến việc áp dụng
các BPNC khác như tạm giữ, tạm giam; đồng thời không phải mọi BPNC đều bắt
nguồn từ việc áp dụng biện pháp bắt người, chưa kể đến có BPNC được tiến hành
trước, khởi đầu cho việc áp dụng biện pháp bắt người như biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp. Mối quan hệ tố tụng liên quan đến thẩm quyền quản lý
hành chính với trách nhiệm, quyền hạn TTHS trong các cơ quan tiến hành TTHS,
nhận thức rõ về mối quan hệ giữa biện pháp bắt người với các BPNC khác trong
TTHS là cơ sở để áp dụng đúng biện pháp bắt người, vì đây một BPNC có vai trị
quan trọng trong việc ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người bị buộc tội tiếp tục
phạm tội hoặc có những hành vi cản trở, gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS.
1.2. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp bắt người
1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ

luật tố tụng hình sự năm 1988
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa ra đời, cùng với việc củng cố chính quyền cịn non trẻ, thiết lập trật tự xã
hội mới, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật,
trong đó có các văn bản pháp luật TTHS. Nhằm đấu tranh chống Việt gian, phản
động và những tội phạm nguy hiểm khác, thời kỳ này Nhà nước ta đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật quy định về các BPNC, trong đó có BPNC bắt người và bắt
người được xem là phương tiện sắc bén để đấu tranh. Tuy nhiên, có thể thấy rằng
giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 chưa có các văn bản pháp luật
quy định riêng, cụ thể, chi tiết về BPNC bắt người mà mới chỉ được đề cập, quy
19


định xen kẽ trong một số văn bản pháp luật và một số cơ quan tư pháp, bảo vệ pháp
luật được hình thành, ra đời liên quan đến việc bắt người, cụ thể:
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán quy định:
"Ban Tư pháp xã khơng có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng khơng có quyền bắt
bớ, giam giữ ai trừ khi có trát nã của một Thẩm phán hay khi thấy người phạm tội
quả tang". Theo điều luật này, bắt người được coi là một hoạt động thuộc lĩnh vực
tư pháp, có 2 trường hợp bắt người là bắt người theo trát nã và bắt người phạm tội
quả tang và chỉ Thẩm phán mới có quyền ra lệnh bắt người. Sắc lệnh số 40/SL ngày
29/3/1946 về bảo vệ tự do cá nhân.
Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của Nhân dân; Sắc luật số
002/SLt ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những
trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang.
Sắc lệnh 23/SL ngày 21/02/1946 của Chủ tịch nước về việc thành lập Việt
Nam Công an vụ (tiền thân của Bộ Cơng an). Theo Sắc lệnh này thì lực lượng Cơng
an vụ có nhiệm vụ “Điều tra về những hành động trái phép và truy tìm người can

phạm để giúp Tòa án trong sự trừng trị”; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/07/1946 về tổ
chức bộ máy Tư pháp Công an tại Điều thứ 2: “Tư pháp Cơng an có nhiệm vụ truy
tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang
chứng, bắt giao người phạm pháp cho các Tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn
định”; Sắc lệnh số 85/Sl ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp thì: “Tư pháp
Cơng an có nhiệm vụ bắt người phạm pháp và giao cho các Tòa án xét xử” [49,
tr.34]. Nội dung của các văn bản trên thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là tôn trọng và bảo vệ quyền tự do thân thể của Nhân dân
đối với các phần tử xâm phạm đến lợi ích và sự an tồn của Nhà nước.
Sau ngày miền Bắc hồn tồn giải phóng năm 1954, nước ta tạm thời chia
làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 qua sông Bến Hải, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
làm ranh giới. Đây là giai đoạn tiến hành khôi phục, phát triển kinh tế, tiến hành cải
tạo XHCN ở miền Bắc, chuẩn bị cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961 - 1965). Để đáp ứng nhiệm vụ chính trị và xã hội trong thời kỳ
20


×