Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Kiểm sát điều tra vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình (Lv thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG ANH VŨ

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành chương trình thạc sĩ và luận văn này, đầu tiên, tôi xin gửi lời
cảm ơn đến các thầy cô Học viện khoa học xã hội đã tạo mọi điều kiện tốt nhất
và hỗ trợ cho tôi trong suốt thời gian tham gia học tập và thực hiên luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn
trong thời gian qua đã nhiệt tình, dành nhiều thời gian tâm huyết để trực tiếp hướng
dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn này.


Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các cô chú cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình đã chỉ bảo tận tình trong việc thu thập nguồn tư liệu, số liệu cho bài
viết của mình, góp phần giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Hoàng Anh Vũ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu, kết quả nghiên cứu sử dụng trong Luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng trong bất kì công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ trong luận văn đều đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Học viện Khoa học Xã hội.
Tác giả luận văn

Hoàng Anh Vũ


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN..................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát điều tra vụ án cướp tài sản ............................ 8
1.2. Phạm vi, nội dung và hình thức kiểm sát điều tra vụ án cướp tài sản.................. 16
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 24
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
BÌNH ................................................................................................................... 25
2.1. Quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra ................................................ 25
2.2.Thực tiễn kiểm sát điều tra vụ án cướp tài sản ở tỉnh Quảng Bình............... 46

Kết luận chương 2 ............................................................................................... 65
Chương 3. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ
ÁN CƯỚP TÀI SẢN Ở TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................ 67
3.1. Tăng cường triển khai các biện pháp thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 về kiểm sát điều tra các vụ án cướp tài sản ở tỉnh Quảng Bình và tiếp tục
hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều tra các vụ án
cướp tài sản.......................................................................................................... 67
3.2. Các giải pháp khác ....................................................................................... 69
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 78
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số vụ, số người phạm tội cướp tài sản đã khởi tố và tổng số vụ, tổng
số bị can phạm tội nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2013 - 2017
............................................................................................................................. 55
Bảng 2.2. Số vụ án và bị can bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội phạm cướp tài sản
............................................................................................................................. 56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Trong những năm gần đây, mặc dù Đảng và nhà nước đã triển khai đồng
loạt các biện pháp khác nhau để ngăn chặn tệ nạn xã hội trong đó có hành vi
cướp tài sản; tuy nhiên, thực tế bên cạnh những thành tựu đạt được vấn nạn nguy
hiểm này hiện vẫn đang đặt ra nhiều thách thức trên toàn Việt Nam nói chung
cũng như địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng. Tội phạm cướp tài sản không chỉ
tăng nhanh về số lượng mà còn đẩy ngày càng cao mức độ liều lĩnh cũng như

quy mô xâm phạm sở hữu trên thực tế.
Trong thời gian qua Đảng ta đã có những chủ trương hết sức quan trọng
về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra: Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh: Viện kiểm sát các cấp thực hiện
tốt chức năng công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư
pháp…nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến
hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ [1]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đặt
ra nội dung “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra” [2];
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “Cải cách tư
pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm”. Tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bảo đảm tốt
hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Theo quy định Hiến pháp năm 2013 và Điều 4 Luật tổ chức VKSND hiện
hành thì VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm

1


sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan
điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra nhằm góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất, giữ vững được nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong
những năm qua, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự cướp tài sản của VKSND
tỉnh Quảng Bình đã có sự tiến bộ rõ rệt, góp phần đảm bảo cho hoạt động phân
loại xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, hoạt động
điều tra thu thập chứng cứ và lập hồ sơ đề nghị truy tố của Cơ quan Cảnh sát

điều tra được tuân thủ theo quy định của pháp luật; đồng thời thông qua hoạt
động này, VKSND tỉnh Quảng Bình đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa loại tội phạm cướp tài sản ở địa phương. Bên cạnh những kết quả
đạt được, hoạt động của VKSND trong giai đoạn kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự nói chung, các vụ án cướp tài sản nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót
như: Chưa thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra từ đầu, kiểm sát việc lập hồ
sơ vụ án còn chưa thật chủ động, chưa đầy đủ, toàn diện, việc phát hiện những vi
phạm trong hoạt động điều tra của CQĐT chưa được thường xuyên, kiên quyết,
còn hiện tượng nể nang. Do vậy, đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công
tác điều tra.
Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát điều tra và xử lý các
loại tội phạm hình sự nói chung, tội phạm cướp tài sản nói riêng. Đồng thời, góp
phần tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động KSĐT tội phạm này trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình, làm nền tảng để xây dựng cơ sở lý luận cho việc nhận thức và
nâng cao chất lượng công tác KSĐT các vụ án hình sự, tác giả đã chọn đề tài
nghiên cứu: “Kiểm sát điều tra vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn Thạc sĩ Luật học là rất cần
thiết, nhằm đáp ứng cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Đối với vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản và hoạt động kiểm sát điều tra

2


của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay có khá nhiều đề tài nghiên cứu đề cập đến.
Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về loại tội phạm này dưới
những phạm vi và góc độ khác nhau như:
- Đoàn Tạ Cửu Long (2015), Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra
vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Luận án tiến sĩ, Thành phố Hồ Chí
Minh. Luận án đã làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động của Viện kiểm sát

trong điều tra vụ án vụ án hình sự như khái niệm thực hành quyền công tố và
khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự; Mối quan hệ
giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án
hình sự cũng như hoạt động của Viện công tố trong giai đoạn điều tra ở một số
nước trên thế giới; đánh giá thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án
hình sự và việc áp dụng ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
luận án đã đề xuất được một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp [17].
- Nguyễn Quang Tuấn (2016), Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Luận
văn Thạc sĩ. Luận văn đã đưa ra khái niệm kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; phân tích và làm rõ được
các quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ; khái quát được thực trạng thực hiện
quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bắc Ninh và đưa ra được hai nhóm giải
pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Bắc Ninh [37].
- Nguyễn Anh Thương (2017), Kiểm sát điều tra tội giết người theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn

3


Thạc sĩ. Luận văn đã làm rõ một số vấn đề chung và đặc điểm, nội dung của
công tác kiểm sát điều tra tội giết người; làm rõ thực trạng công tác kiểm sát điều
tra tội giết người trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và chỉ ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát điều tra tội giết người trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh [31].
- Lương Hải Yến, “Một số vấn đề hoạt động kiểm sát việc lập hồ sơ điều tra
vụ án hình sự”, trang thông tin điện tử của Trường Đại học Kiểm sát. Bài viết chỉ
rõ, yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên sẽ định hướng để Điều tra viên lựa chọn,
áp dụng các biện pháp điều tra phù hợp thu thập, củng cố chứng cứ làm sáng tỏ
sự thật vụ án không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội, bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, một số Kiểm sát viên chưa xác
định được hết ý nghĩa của hoạt động này, thực hiện chưa thật sự sát sao, thiếu
khoa học; kiến thức pháp luật, khả năng, tư duy đánh giá chứng cứ còn hạn chế,
nên yêu cầu điều tra tràn lan, không xác định được những vấn đề mấu chốt của
vụ án. Bên cạnh đó, một số Điều tra viên lại chưa có kinh nghiệm thực tiễn và
kiến thức điều tra chuyên sâu, dẫn đến tình trạng nhiều vụ án hết thời hạn điều
tra vẫn không thu thập được đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị
can hoặc khi kết thúc điều tra mới phát hiện hồ sơ còn thiếu chứng cứ, thủ tục tố
tụng chưa đầy đủ ...Đây là một trong những nguyên nhân tình trạng án trả điều
tra bổ sung còn xảy ra nhiều [63].
Lê Hữu Thể (chủ biên), Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường (2008), Quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Sách chuyên khảo, NXB Tư pháp, Hà
Nội. Nội dung cuốn sách chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận chung về thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; mối quan hệ giữa hai chức
năng ngày trong tố tụng hình sự cũng như quyền công tố trong pháp luật của một
số nước trên thế giới mà không nghiên cứu thực tiễn hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự [28].

4


Ngoài ra còn có các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí như:: "Nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy
mạnh cải cách tư pháp" của tác giả Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

lập pháp, số 1/2000; Bàn về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các tội phạm về đất đai của tác giả Nguyễn Thanh Mai đăng trên tạp chí Nghề
luật số 03/2015; bài viết: Bàn về mối quan hệ phối hợp công tác giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự của tác giả Đoàn Tạ
Cửu Long đăng trên tạp chí kiểm sát số 14/2013…
Về cơ bản các công trình nghiên cứu đối với tội danh cướp tài sản và hop tài sản.
Hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành cần được lãnh đạo cơ quan duy trì
trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự để hạn chế thấp nhất các vi phạm,
thiếu sót có thể xảy ra. Đặc biệt, từ giai đoạn đầu tiên của vụ án, khi nhận thông
tin tố giác tội phạm, lãnh đạo các đơn vị đã phải xem xét và căn cứ vào năng lực,
trách nhiệm, yêu cầu nghiệp vụ đối với từng vụ án để phân công Điều tra viên,
Kiểm sát viên cho thật phù hợp. Đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, có tính
chất phức tạp, thì Lãnh đạo cơ quan điều tra, kiểm sát phải đặc biệt thận trọng

73


trong việc xem xét, chọn lựa những cán bộ có năng lực và giàu kinh nghiệm trực
tiếp tiến hành giải quyết vụ án.
- Thứ năm, bảo đảm số lượng, chất lượng Kiểm sát viên
Tỉnh Quảng Bình có tất cả 08 huyện, 01 thị xã và 01 thành phố, ngoài Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh ra còn có 08 đơn vị Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc
(cấp huyện). Mỗi một đơn vị Viện kiểm sát cấp huyện trên địa bàn tỉnh đến nay
vẫn còn thiếu cán bộ, Kiểm sát viên là một vấn đề cấp thiết, đáng báo động. Số
lượng Kiểm sát viên ở một đơn vị Viện kiểm sát không nhiều (từ 13 đến 20
người). Có đơn vị chỉ 05 Kiểm sát viên đồng thời là lãnh đạo đơn vị, dẫn đến
một Kiểm sát viên có thể “quá tải” trong công việc nên chất lượng không cao, vì
thế cần phải thu hút lực lượng (con người) vào công tác trong ngành. Để có
nguồn lực lượng dồi dào và đảm bảo chất lượng đáp ứng nhu cầu công việc ngày
càng cao thì lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có những chính sách

tầm vĩ mô về nhân lực và đào tạo cũng như sự phát triển của nghành kiểm sát
trong tương lai.
Tuyên truyền rộng rãi các số lượng, vị trí, địa điểm của các Viện kiểm sát
tuyển dụng. Phổ biến chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát cho mọi người
hiểu rõ để họ có thể định hướng được công việc sẽ làm sau này nếu trúng tuyển;
công khai hình thức thi tuyển công chức kiểm sát.
Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên đang công tác trong
ngành phải đảm bảo, những quyền lợi, ưu đãi của những cán bộ, Kiểm sát viên
đã, đang và sẽ công tác trong ngành Kiểm sát.
Thu hút được lực lượng bổ sung cho Viện kiểm sát, đó là mới bổ sung về
“lượng”, Viện kiểm sát cũng cần phải bổ sung về “chất” cho Kiểm sát viên. Pháp
lệnh Kiểm sát viên đã được sửa đổi, bổ sung vào ngày 19/02/2011 và có hiệu lực
từ 01/7/2011 đã quy định về điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm Kiểm sát viên.
Nghị quyết số 08-NQ/TW đã nêu rõ việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ là
một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng để Viện kiểm sát có thể làm tốt

74


chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Viện trưởng phải là người nắm và hiểu rõ năng lực của từng Kiểm sát viên
trong đơn vị, qua đó để phân công những người có kinh nghiệm, sở trường trong
việc kiểm sát điều tra đối với từng vụ án theo khả năng của họ, có như vậy chất
lượng công tác mới ngày càng được nâng cao.
Quán triệt đến từng Kiểm sát viên chủ trương, đường lối, chính sách của
đảng để họ nắm vững quan điểm, có lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng để
thực hiện đúng đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước
trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình.
Viện kiểm sát cấp trên cần phải chú trọng việc giáo dục nâng cao ý thức
trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn,

nghiệp vụ của từng Kiểm sát viên thông qua các buổi tập huấn chuyên đề nghiệp
vụ, qua những buổi sơ kết, tổng kết công tác hàng năm.
- Thứ sáu, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất
Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW có nhận định về cơ sở vật chất và điều kiện
làm việc của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát là chưa đạt yêu cầu
vì thế tại Nghị quyết có nêu 08 nhiệm vụ trong đó nhiệm vụ thứ 04 là: Tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để
hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp... [39]. Như
vậy cơ sở vật chất có ý nghĩa rất to lớn trong việc hoàn thành có chất lượng
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, vì thế
cần phải đáp ứng một số yêu cầu cấp thiết như:
Về trụ sở làm việc, nhiều đơn vị trên địa bàn hiện nay có trụ sở chật hẹp, có
nơi một phòng làm việc chỉ 15m2 nhưng có đến 3 Kiểm sát viên vì thế cần thiết
phải ưu tiên những nơi chưa đủ điều kiện về phòng làm việc xây dựng trụ sở mới
trước đáp ứng tình hình hiện nay.

75


Thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân
phải tham gia 100% các vụ khám nghiệm hiện trường, tăng cường việc xét xử lưu
động nơi xảy ra vụ án để đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền pháp luật, răn đe và
phòng ngừa tội phạm... vì thế Viện kiểm sát nhân dân tối cao cân đối ngân sách để
tăng thêm kinh phí đi lại cho các Viện kiểm sát nhân dân địa phương trong thời kỳ
này, tiến tới cấp xe công để phục vụ công tác nghiệp vụ.
Tính cấp bách, kịp thời là một yếu tố trong giải quyết các vụ án hình sự,
hiện nay công tác báo cáo, đề xuất, cáo trạng, luận tội của Kiểm sát viên phần
lớn là thực hiện trên máy vi tính. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển,

mạng Internet rất cần thiết đối với Kiểm sát viên trong việc tra cứu các thông tin
liên quan đến vụ án như văn bản pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước...
hiện nay số lượng máy vi tính cấp về địa phương cơ bản đã đáp ứng được nhu
cầu công việc, nhưng internet còn hạn chế, chỉ mới kết nối đến phòng lãnh đạo
và các trưởng phòng ở cấp tỉnh.
- Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế trong điều tra và đấu tranh phòng
chống tội phạm
Với một xã hội đang phát triển như nước ta hiện nay, tỉnh Quảng Bình cũng
không ngoại lệ, sự hợp tác trong vấn đề giải quyết vụ án hình sự đặt ra là một tất
yếu khách quan, sự hợp tác đó không nằm trong phạm vi giữa các huyện, các
tỉnh mà còn hợp tác với quốc tế, đây là một tính tất yếu khách quan trong quá
trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cảnh sát Việt Nam đã tham gia
INTERPOL và ASEANAPOL. Năm 1997, Việt Nam đã trở thành thành viên các
Công ước Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy. Năm 2000, Việt Nam đã ký công
ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Tháng 6 năm 2009, Việt Nam đã phê chuẩn công ước của Liên hợp quốc về
chống tham nhũng.
Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 xác định Viện kiểm sát nhân dân tối cao
là cơ quan đầu mối trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, có trách nhiệm

76


tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các ủy thác tư pháp về
hình sự; xem xét, quyết định việc thực hiện; từ chối hoặc hoãn thực hiện ủy thác
tư pháp về hình sự với các nước. Viện kiểm sát có trách nhiệm đề xuất với Nhà
nước Việt Nam việc ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về tương
trợ tư pháp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
tương trợ tư pháp.
Tỉnh Quảng Bình có một cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và cửa khẩu Cà ròong,

là những cửa khẩu quan trọng giao lưu hàng hóa, nhiều người lấy đây làm địa
điểm thuận lợi để kinh doanh với nhân dân nước CHDCND Lào. Trên thực tế tội
phạm cướp tài sản ở tỉnh Quảng Bình nhiều khi gây án xong liền tìm cách lẫn
trốn sang nước Lào nhằm tránh sự xử lý của pháp luật. Mặc dù giữa Việt Nam và
Lào đã có Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, các tỉnh có chung đường biên
giới với nước Lào đã có quy chế hoạt động riêng, nhưng nhìn chung việc áp
dụng, thực hiện vẫn còn có nhưng khó khăn nhất định dẫn đến việc kéo dài thời
gian giải quyết vụ án.
Trước tình hình đó, việc tăng cường hợp tác quốc tế giữa các quốc gia để
ngăn chặn và chống lại những tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Để làm tốt được
những vấn đề này cần phải thực hiện tốt việc tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu
tương trợ tư pháp về hình sự. Đây là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng trong hợp
tác quốc tế của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm tới. Căn cứ vào Luật
Tương trợ tư pháp, các Công ước, Hiệp định, Thỏa thuận và pháp luật Việt Nam,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (trong đó
có Quảng Bình) cần làm tốt công tác tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu tương trợ tư
pháp, đảm bảo đúng pháp luật. Tăng cường công tác phối hợp giữa các đơn vị
trong ngành và giữa Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan, đơn vị hữu quan
khác trong việc tiếp nhận, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp và xây dựng,
hướng dẫn thực hiện pháp luật tương trợ tư pháp. Chủ động nghiên cứu, rà soát,
đề xuất việc ký kết mới, sửa đổi, bổ sung các hiệp định tương trợ tư pháp với các

77


nước để có căn cứ pháp lý giải quyết có hiệu quả các tương trợ tư pháp. Tiếp tục
mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và phòng, chống tội phạm với
Viện kiểm sát, Viện Công tố các nước láng giềng trong khu vực (trong đó có nước
CHDCND Lào), các nước có quan hệ truyền thống, các nước có nhiều người Việt
Nam sinh sống. Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ, Kiểm sát viên làm

công tác hợp tác quốc tế để nắm bắt được đầy đủ ý nghĩa của những quy định,
hiểu rõ hơn nữa những nội dung đàm phán. Giữa các huyện, tỉnh cũng cần phải có
những thỏa thuận phối hợp trong việc điều tra, truy tố, xét xử nhằm phát hiện,
ngăn chặn các hành vi phạm tội, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác nghiệp vụ góp
phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Kết luận chương 3
1. Từ những hạn chế, vương mắc và thiếu sót trong khâu kiểm sát điều tra
các vụ án cướp tài sản chúng ta có một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra các vụ án cướp tài sản;
2. Trong giai đoạn quá độ khi mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có
hiệu lực pháp luật và chuẩn bị được đưa ra thi hành, luận văn tập trung trước hết
vào giải pháp triển khai thực hiện tốt quy định của BLTTHS năm 2015 về kiểm
sát điều tra vụ án hình sự;
3. Trong đó có những giải pháp đề xuất đối với các cơ quan cấp trung
ương xem xét quyết định, có những giải pháp đề xuất với cơ quan cấp tỉnh quyết
định. Có một số giải pháp mang tính chất đáp ứng trước mắt, tạm thời (như đáp
ứng cơ sở vật chất về phương tiện...) vì hiện nay Viện kiểm sát nhân dân đang
chuẩn bị từng bước kiện toàn theo hướng cải cách tư pháp trên cơ sở định hướng
của Nghị quyết 49-NQ/TW, và Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị, có một
số giải pháp mang tính chất lâu dài xuyên suốt như các giải pháp nghiệp vụ...

78


KẾT LUẬN
1. Kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng cơ bản, quan trọng
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở nghiên cứu các quan
điểm khác nhau về kiểm sát hoạt động tư pháp, luận văn đã xây dựng khái niệm khoa
học “Kiểm sát điều tra các vụ án các vụ án cướp tài sản” làm cơ sở cho việc nghiên
cứu các nội dung tiếp theo. Theo đó, kiểm sát điều tra các vụ án các vụ án cướp tài

sản là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra đối với hành vi của người phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản của
người khác bằng các thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được;
của những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
2. Ngoài việc làm rõ khái niệm kiểm sát điều tra vụ án các vụ án cướp tài
sản, luận văn còn làm rõ năm đặc điểm của kiểm sát điều tra các vụ án các vụ án
cướp tài sản dưới nhiều khía cạnh khác nhau; làm rõ phạm vi, nội dung và hình
thức kiểm sát điều tra các vụ án các vụ án cướp tài sản;
3. Luận văn cũng đã phân tích làm rõ quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành, chỉ ra bất cập đã được khắc phục trong BLTTHS năm 2015;
4. Khi nghiên cứu tổng quan tình hình kiểm sát điều tra vụ án các vụ án cướp tài sản với
một số vụ án cướp tài sản điển hình xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Bình minh họa, tác giả đã
đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hoạt động
kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua.
5. Ngoài ra, sau khi nghiên cứu những mặt tồn tại, những nguyên nhân dẫn đến
tồn tại trên, tác giả cũng đã đưa ra những nhận xét, rút ra được những bài học kinh
nghiệm, mạnh dạn đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục được những vướng mắc,
hạn chế, giúp cho Kiểm sát viên khi kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung
tránh được những sai sót như đã nêu ở trên nhằm nâng cao chất lượng trong công tác
kiểm sát điều tra các vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Bình./

79


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ/TW, ngày 02/01/2002 về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.

2. Bộ chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
3. Bộ y tế - Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12.6.2014 quy định “tỉ lệ
tổn thương cơ thể sử dụng trong quy định pháp y, giám định pháp y tâm thần”.
4. Bùi Mạnh Cường (2007), Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các
vụ án ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ,
Hà Nội.
5 Nguyễn Chí Cường - “Một số đề xuất, kiến nghị thực tiễn thi hành Điều
104 Bộ luật hình sự” - Tạp chí kiểm sát số 05 (tháng 3/2011).
6. Nguyễn Đăng Dung, (2008), Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện của
nhà nước pháp quyền, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
8. Đại học Huế (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Công an nhân dân.
9. Ngô Văn Đọn chủ biên (2004), “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt
động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu
trong công tác kiểm sát hình sự”, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà Nội.
10. Ngô Văn Đọn chủ biên (2004), “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt
động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu
trong công tác kiểm sát hình sự”, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà Nội.
11. Trần Văn Độ (1999), Một số vấn đề về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài:
Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt
Nam từ năm 1945 đến nay của VKSNDTC.


12. Đỗ Văn Đương (2004), “Những biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003”, thông tin khoa học pháp lý.
13. Học Viện Tư pháp (2006), Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
14. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - Nghị quyết số

02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4 về việc hướng dẫn áp dụng một số Điều luật của
Bộ luật hình sự, Hà Nội.
15. Trần Minh Hưởng Học Viện Cảnh sát nhân dân (2012), Bình luận
khoa học BLHS, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
15. Trần Thị Lịch (2016), Tội cướp tài sản trong BLHS 1999, sửa đổi năm
2015 và một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, Tạp chí Nghề Luật số
1, Hà Nội.
16. Lê Minh Long, năm (2005), Luận văn thạc sĩ “Hoạt động điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích
trên địa bàn tỉnh Hà Tây”, Hà Nội.
17. Đoàn Tạ Cửu Long (2015), Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra
vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Luận án tiến sĩ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
18. Đoàn Tạ Cửu Long (2013), Bàn về mối quan hệ phối hợp công tác giữa
cơ quan điều tra và VKSND trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 14, Hà
Nội.
19. Lê Văn Luật (2008), Bàn về sự chuyển hóa từ một số hình thức chiếm
đoạt tài sản thành cướp tài sản, Tạp chí TAND số 24.
20. Nguyễn Thanh Mai (2015), Bàn về hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra tội phạm về đát đai, Tạp chí Nghề Luật số 3, Hà Nội.
21. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (1999), Từ điển Luật học, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp năm
2013, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.


23. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2009) Bộ luật Hình sự
năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam-UBTVQH, (2004), Pháp
lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi năm 2009)
25. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2003, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2013), Luật tổ chức
VKSND năm 2014.
27. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, NXB Tư pháp, Hà Nội.
28. Lê Hữu Thể (chủ biên), Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường, (2008),
''Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp'', Hà Nội.
29. Lê Hữu Thể, Đỗ văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ bên),
(2013), những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc
gia, Hà Nội.
30. Phạm Thị Thùy- “Đôi điều rút ra qua công tác kiểm sát điều tra các
vụ án cố ý gây thương tích của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương”- Tạp
chí kiểm sát số 19 (tháng 10/2011).
31. Nguyễn Anh Thương (2017), Kiểm sát điều tra tội giết người theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn
Thạc sĩ.
32. Hà Mạnh Trí (2003), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp", Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 1, Hà Nội.
33. Nguyễn Đình Trung - “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố”- Tạp chí kiểm sát số 07 (phát hành ngày 05/4/2012).


34. Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình công tác kiểm
sát, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Trường Đại học luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
36. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật

Tố tụng hình sự, NXB Hồng Đức, TPHCM.
37. Nguyễn Quang Tuấn (2016), Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
38. Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn
Hà Nội, Luận án tiến sĩ;
39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2000), “Quy chế kiểm sát điều tra án
hình sự”, NXB Thanh niên, Hà Nội.
40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Quyết định số 590/QĐ-VKSTC-V3
ngày 05/12/2014 - Quyết định ban hành quy định về lập hồ sơ kiểm sát án hình
sự.
41. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC
ngày 02/01/2008 - Quyết định ban hành quy chế công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự.
42. Viện KSND tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ tài Chính, Bộ
NN & PTNT, Thông tư liên tịch số: 06/2013/TTLT-VKSTC-BCA-BQP-BTCBNN &PTNT ngày 02/8/2013 hướng dẫn thi hành qui định của BLTTHS về
“tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”.
43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao-Bộ công an-Tòa án nhân dân tối cao,
Thông tư 01/2010-TTLN-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 hướng
dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về “trả hồ sơ để điều tra bổ sung”.
44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Tờ trình về Dự thảo BLTTHS
(sửa đổi) ngày 23/3/2015, Hà Nội.


45. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2016), Báo cáo của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh trong kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng
Bình năm 2016.
46. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2013), Báo cáo kết quả
công tác kiểm sát năm 2013, Quảng Bình.
47. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2014), Báo cáo kết quả
công tác kiểm sát năm 2014, Quảng Bình.

48. Viện kiểm sát nhân dân tỉnhQuảng Bình (2015), Báo cáo kết quả công
tác kiểm sát năm 2015, Quảng Bình.
49. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2016), Báo cáo kết quả
công tác kiểm sát năm 2016, Quảng Bình.
50. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo kết quả
công tác kiểm sát sáu tháng đầu năm 2017, Quảng Bình.
51. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2011), Báo cáo 5 năm thực
hiện BLTTHS năm 2003.
52. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2015), Cáo trạng số 83/VKS
-P1 ngày 28.3.2015.
53. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Cáo trạng
số 23/THQCT-KSĐT ngày 18/7/2013.
54. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Cáo
trạng số 64/THQCT-KSĐT-KT ngày 28/6/2014.
55. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Cáo trạng
số 14/THQCT - KSĐT - KT ngày 15/4/2014.
56. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, Cáo trạng số 278/THQCT KSĐT - P2 ngày 13/12/2014.
57. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), “Tờ trình về Dự thảo
BLTTHS” (sửa đổi) ngày 23/3/2015, Hà Nội.


58. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Quy chế công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án
hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSNDTC ngày
02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng quy định
nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra vụ án hình sự.
59. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2001), Bình luận khoa học Bộ luật
tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Võ Khánh Vinh (chủ biên) - “Bình luận khoa học Bộ luật TTHS”- Nhà

xuất bản Công an nhân dân (2004).
61. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, phần các tội
phạm, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội.
62. Nguyễn Như Ý (chủ biên), (2010), Đại từ điển tiếng Việt, NXB. Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Tài liệu trên internet:
63. Lương Hải Yến, “Một số vấn đề hoạt động kiểm sát việc lập hồ sơ
điều tra vụ án hình sự”. Trang Thông tin điện tử, Trường Đại học kiểm sát, truy
cập ngày 2/7/2017.



×