Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận môn tổ chức văn hóa hđ truyền thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.84 KB, 17 trang )

Tên đề tài.
"Lễ hội _ những đặt trưng cơ bản và liên hệ với việc tổ chức lễ hội tại địa
phương để thấy được vai trò của lễ hội đối với đời sống".
1. Đặt vẫn đề.
Mỗi một quốc gia, mỗi dân tộc, trên thế giới đều có những phong tục tập qn,
những loại hình sinh hoạt văn hóa riêng, mang đậm bản sắc văn hóa của quốc gia,
văn hóa của dân tộc mình và lễ hội có lẽ là một hoạt động, một loại hình tiêu biểu
nhất. là một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc biệt mang tính tập thể cao, phản ánh
tín ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất hay trong việc hình
dung lại các sự kiện lịch sử. Lễ hội nước nào cũng có những hình thức rước xách,
diễu hành, vui chơi, nhưng ở mỗi quốc gia thì lễ hội lại có những nét độc đáo
riêng, mang đậm dấu ấn riêng của quốc gia đó. Vì thế lễ hội giữ một vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần và đời sống xã hội, nó chứa đựng và phản ánh nhiều
mặt của đời sống như: kinh tế-xã hội,văn hóa, tâm lý và tơn giáo tín ngưỡng tộc
người.
Từ xưa đến nay lễ hội là một món ăn tinh thần khơng thế thiếu đối với
mỗi người dân Việt. Lễ hội cũng là nơi thế hiện truyền thống quý báu cho dân
tộc, đó là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, là nơi mọi người cùng sinh
hoạt văn hóa, giao lưu cộng cảm trong khơng khí thiêng liêng nhưng cũng
không kém phần nhộn nhịp. Lễ hội được tổ nhằm tưởng nhớ và tôn vinh
những hiện tượng tự nhiên được định danh là các vị thần, các vị anh hùng có
thật trong lịch sử dân tộc, các vị tố nghề... Đến với bất kì vùng miền nào trên đất
nước Việt Nam vào bất kì một khoảng thời gian nào trong năm đều thấy sự xuất
hiện và tồn tại của các lễ hội. Lễ hội là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa đặc sắc của
dân tộc về nhiều mặt của đời sống (chính trị, văn hóa xã hội, tơn giáo tín
ngưỡng ...) của cư dân vùng lúa nước. Ngoài ra, lễ hội cũng là một kênh để giới
thiệu nền văn hoá Việt Nam ra thế giới đồng thời giúp cho chính những người dân
tộc Việt Nam hiểu rõ hơn về truyền thống dân tộc và ý nghĩa của những sự kiện
văn hoá này. Tổ chức những lễ hội hiện đại với mục đích dễ nhận thấy hơn cả của
những sự kiện lễ hội hiện đại nhằm thu hút khách quốc tế đến với Việt Nam.
Đa phần các lễ hội đều diễn ra trong khoảng thời gian vào mùa xuân. Đó là mùa


chuyển giao thời vụ, cũng là thời điểm giao mùa hết đông sang xuân, khi tiết trời


đẹp, ngày tháng nơng nhàn, cư dân có điều kiện về thời gian cũng như về tinh thần
để tổ chức lễ hội. Bởi thế mà dân gian có câu "Tháng giêng là tháng ăn chơi". Lễ
hội ngồi mục đích tưởng nhớ công ơn, tri ân các vị thần để cầu cho một năm mới
may mắn, một vụ mùa bội thu, một cuộc sống sung túc, còn là nơi đế người dân
giải trí, nghỉ ngơi sau một vụ mùa, một năm lao động vất vả. Với tình u văn hóa
lễ hội, phong tục tập quán của dân tộc ta em xin chọn đề tài “Lễ hội - những đặt
trưng cơ bản và liên hệ với việc tổ chức lễ hội tại địa phương để thấy được vai trò
của lễ hội đối với đời sống” để làm đề tài nghiên cứu cho bài tiểu luận kết thúc
mơn của mình.
Trong bài tiểu luận sẽ khơng tránh được những thiếu sót, vì vậy, em rất mong thầy
cơ có những ý kiến đóng góp để đề tài nghiên cứu được đầy đủ và hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!


2. Nội dung.
2. 1 Lễ hội.
2.2 Khái niệm.
- Mỗi vùng miền, một quốc gia lại có hình thức tổ chức Lễ hội khác nhau.
Chính vì thế mà đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hình thái sinh hoạt văn
hóa này. Sau đây là một số khái niệm điển hình về “Lễ hội” như:
- Khi nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “ Lễ hội ”ở nước Nga, M.Bachie cho
rằng: “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trị biểu diễn, đó là
cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không
thể thành lễ hội được nếu chính nó khơng được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại
thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng,vượt lên trên thế giới của
những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát

ly tạm thời thực tại hữu hiện, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở
nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả”.(Nếu theo như định nghĩa này thì một sự
kiện hay một cuộc chiến đấu của người dân sẽ khơng được tưởng nhớ khi khơng có
sự tác động và ảnh hưởng của con người).
- Ở Việt Nam, khái niệm lễ hội mới chỉ xuất hiện cách đây không lâu.Trước hết
chỉ có khái niệm lễ hoặc hội, cả hai khái niệm này đều là từ gốc Hán được dùng để
gọi một nhóm loại hình phong tục, chẳng hạn như: Lễ Thành Hoàng, lễ gia tiên...,
cũng như vậy trong hội cũng có nhiều hội khác nhau như: Hội Gióng, Hội Lim,
Hội chọi trâu,... Thêm chữ “Lễ” cho “hội”, thời nay mong muốn gắn hình thức sinh
hoạt văn hóa cộng đồng này có ít nhất hai yếu tố cũng là hai đặc trưng đi liền với
nhau. Trước hết là lễ bái, tế lễ thần linh, cầu phúc và sau là thăm thú vui chơi ở nơi
đông đúc, vui vẻ (hội).
- Trong “Từ điển tiếng Việt” lại có định nghĩa về “ Lễ hội ” như sau: Lễ là hệ
thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính của con người đối với
thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà
bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hố, tơn giáo, nghệ
thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của
cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững


mạnh cho từng dịng họ, sự sinh sơi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng,
mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ "nhân khang, vật
thịnh".
- Trong cuốn “Hội hè Việt Nam” các tác giả cho rằng “Hội” và “lễ” là một sinh
hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hội và lễ có sức hấp dẫn, lơi cuốc các
tầng lớp trong xã hội cũng tham gia để trở thành một nhu cầu, một khát vọng của
nhân dân trong nhiều thập kỷ.
- Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” - Phan Đăng Nhật cho rằng “Lễ hội” là một kho
lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ
thuật và cả các sự kiện xã hội - lịch sử quan trọng của dân tộc... Lễ hội cịn là nơi

bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử trong quá khứ
dồn nén lại cho tương lai”
.Như vậy: “Lễ hội”là một thể thống nhất không thể tách rời. “Lễ” là phần đạo đức
tín ngưỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con người. “Hội” là các trò diễn
mang tính nghi thức, gồm các trị chơi dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật
của người dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm một sự kiện quan
trọng với cả cộng đồng.
2.3Đặt trưng.
+, Tính thiêng.
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính
"thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã xuống mảnh
đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng bỗng
dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sơng, nơi có một xác
người chết đuối, đang trơi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt lên, chôn
cất, thờ phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của
một người có cơng với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có người
chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy, có người
đánh giặc... ). Song, những người đó bao giờ cũng được "thiêng hóa" và đã trở
thành "Thần thánh" trong tâm trí của người dân.
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, khơng chỉ có thể
phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh, làm


nghề, sản xuất, đánh giặc... mà cịn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa
dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống.Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa
tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ
những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
+, Tính "cộng đồng".
Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện
của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có

lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
+, Tính địa phương.
Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ hội
ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính là điều
chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những
nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở
phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu
lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
+, Tính cung đình.
Đa phần các nhân vật được suy tơn thành Thần linh trong các lễ hội của người
Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi thế những nghi
thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu... đều mơ phỏng sinh
hoạt cung đình. Sự mơ phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi
lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ
nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí
khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của người
dân.
+, Tính đương đại.
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử,
cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những cách
bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm,
micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn,
đáp ứng nhu cầu mới.


Như vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của
nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vơ
lý...
2.4 Phân loại.
- Trên thực tế có rất nhiều cách để phân loại, dựa trên ý nghĩa, cội nguồn của các

hội làng cùng những tiết mục chínhyếu và độc đáo mà có thể chia thành 5 loại Hội:
+ Hội lễ nông nghiệp:là loại hội mô tả nhưng lễ nghi liên quan đến chu trình
(hoặc một phần chu trình)sản xuất nơng nghiệp hoặc biểu dương các sản vật làm từ
nơng nghiệp như hội tịch điền, trị rước lúa, lễ hội trình nghề...
+Hội lễ phồn thực giao duyên: là lễ hội gắn với quan niệm tín ngưỡng phồn thực
cầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của con người và vạn vật, chẳng hạn như:việc
rước thờ haycướp các hình ảnh mơ phỏngsinh thực khí có khi diễn các trị diễn
những hành động tình ái giữa nam và nữnhư:lễ hội Trò Trám (Nõ và Nường) ở Tứ
Xã (Lâm Thao), ở Hà Lộc (Phù Ninh), xã Hà Thạch (thị xã Phú Thọ). Hay “Hội
ôm” ở An Đạo (Phù Ninh), Thanh Uyên (Tam Nơng), Dữu Lâu (TP Việt Trì).
+Lễ hội văn nghệ: là các hội thi hát các lànđiệu dân ca, như hội Limở Bắc Ninh
+Lễ hội thi tài: là các hội thi thể hiện tàinăng như thi nấu cơm, thi bắn nỏ, thi kéo
co, bơi chải...+,Hội lịch sử:là hội có các trị diễn nhắc lại cơngơn của các vị Thành
hồng là những người có cơng với nước, diễn tả các trận đánh lịch sử... như Hội
Gióng, hội Giá...
- Trong lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ các tác giả đã chia thành
các loại sau:
+Lễ hội phản ánh cuộc sống lao động sản xuất của người dân -gồm các tiểu loại
hình thành lễ hội về săn bắt,đánh cá... Lễ hội về sinh hoạt nông nghiệp hay liên
quan đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp....
+Lễ hội phản ánh cuộc đấu tranh giữ nước giữ làng: gồm việc thờ các vị thành
hoàng, các anh hùng dân tộc. Lễ thờ những vị thần là người có cơng bảo vệ làng
xóm, chống thú dữ, trộm cướp...


+Lễ hội các trò diễn đáp ứng đời sống văn hóa tinh thần, phong tục, hội tham gia
hành lễ.
+Lễ hơi dân tộc hay lễ hội quốc tế đã được dân tộc hóa như : tết Noel, lễ thiên
chúa, ngày hiến chương các nhà giáo... Lễ hội có quy mơ Quốc gia : Đền Hùng,
hội giỗ trận Gò Đống Đa...

+,Lễ hội của một vùng miền gồm nhiều làng : hội chọi trâu Đò Sơn, Hội Phủ
Giày....
+Lễ hội của từng làng như lễ thờ thành hoàng, hội chùa, tết Thanh Minh...+,Lễ hội
của các nhóm nhỏ, thường là nhóm gia đình hay dịng họ.
2.5 Cấu trúc. (Bao gồm 2 thành phần)
2.5.1 Lễ ( yếu tố chính).
-Lễ được hình thành bởi : nhân vật được thờ, hệ thống di tích, nghi lễ, nghi thức,
thờ cúng.
-Lễ để thờ cúng các vị thần : sự sùng bái nhân vật lịch sử, là nhu cầu trở về cội
nguồn, là sự giải thiêng trong tâm thức, tâm lý vàsinh hoat cộng đồng.+, Có thể nói
phần lễ đã tạo nên tính “thiêng” của lễ hội.
2.5.2 Hội ( yếu tố phát sinh).
-Hội : được cấu thành bởi những hình thức sinh hoạt vui chơi, những trò diễn, tâm
lý hội và hoạt động hội, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh..
- Hội là các trò chơi, trò diễn trong lễ hội.
-

Đối tượng thực hiện chủ yếu là những người trẻ tuổi.
+, Những trị chơi chính trong lễ hội:

+ Rèn luyện sức khỏe, đấu vật, kéo co, bơi thuyền....
+Rèn luyện sự khéo léo : Ném còn, thi nấu cơm....
+ Rèn luyện trí tuệ : đánh cờ người....
+ Mang ý nghĩa tín ngưỡng : leo cột mỡ, thổi kèn, sáo….


3. Lễ hội “Lồng tồng” của dân tộc tày, nùng ở
các tỉnh miền núi phía bắc.
3.1 giới thiệu về lễ hội.
- Lễ hội truyền thống ln mang trong mình những đặc trưng của tự nhiên và xã

hội; thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo, đa dạng và phong phú; là một
hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của các
tộc người. Nó có một vai trị, vị trí khá quan trọng trong đời sống văn hóa xã
hội cộng đồng đặc biệt là cộng đồng làng xã.
+, Thời gian tổ chức.
Hằng năm, cứ vào dịp sau Tết Nguyên đán, ở khắp các bản làng của tộc người Tày,
Nùng ở các tỉnh phía Bắc lại nơ nức chờ đón những ngày hội rộn ràng của lễ hội
Lồng tồng, Lễ hội thường được tổ chức vào khoảng thời gian từ ngày 4 đến ngày
25 tháng Giêng, tùy theo phong tục của từng địa phương mà tổ chức khác ngày
nhau và thời gian thường kéo dài trong 3 ngày.
+, Chuẩn bị.
Trước khi diễn ra Lễ hội Lồng tồng, đồng bào dân bản làm công tác chuẩn bị rất
chu đáo, như: Họp ban điều hành lễ hội gồm các cụ cao tuổi, có uy tín; sửa chữa,
lau chùi, dọn vệ sinh sạch sẽ, trang trí đẹp đẽ trong đình, dựng nhà thờ Thần nơng
(gọi là kệ tồng) gồm 3 cấp tượng trưng cho Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ
nguyên. Hướng đặt kệ tồng các thầy cúng chọn hướng tốt được dựng làm bằng tre,
làm các đạo cụ cho trị chơi “sĩ, nơng, cơng, thương”. Trồng cây nêu, làm quả còn,
làm yến, làm bàn cờ, quân cờ, dây kéo co, chuẩn bị nỏ, mũi tên, hình nộm, cà
kheo, đánh đu, đánh khăng, bi đá, bao, đáo... Về lễ vật cúng tế, tộc người Tày,
Nùng chuẩn bị rất chu đáo cẩn thận, tất cả những người tham gia cũng như vật
dùng đều phải sạch sẽ; các món ăn phải ngon, tinh túy, cầu kỳ, đẹp mắt như: Bánh
khảo (sla cao) làm từ gạo nếp, lạc, vừng, đường được rang lên và xay thành bột;
bánh bỏng (pẻng khô) cũng từ gạo nếp với nhựa cây khoai ngứa được đồ lên thành
xơi rồi đưa vào cối giã bằng tay; ngồi ra cịn có 2 loại bánh bỏng (thóc théc, khẩu
sli) cũng được làm từ gạo nếp nhưng cách chế biến khác nhau; bánh chè lam (pẻng
khinh); bánh chưng Tày (pẻng tổm, khẩu tổm); gà cúng phải là gà sống thiến béo
có chân, đầu, mào đỏ đẹp; lợn đen tế phải từ 50kg trở lên; ngồi ra cịn có thêm các


loại sản phẩm nông nghiệp do dân bản trồng trọt, chăm sóc và các dụng cụ lao

động sản xuất...

+, Vào hội (các nghi thức của lễ hội gồm có).
Xin Thần Thành hoàng cho mở lễ hội: Sau khi đặt các đồ cúng gồm thịt lợn, gà,
rượu, nước, sla cao, thóc théc, khẩu sli, tiền vàng... lên bàn thờ, chủ lễ làm lễ xin
Thần linh phù hộ cho dân làng làm ăn mùa vàng bội thu, cây cối xanh tươi phát
triển, nhà nhà ấm no, dồi dào sức khỏe và xin thần cho dân bản được phép tổ chức
Lễ hội Lồng tồng; chủ lễ xin âm dương (đây là nghi lễ rất quan trọng thể hiện sự
kính trọng ngưỡng mộ Thần linh).
Chủ lễ làm lễ cúng tại nhà: Sau khi đặt các đồ cúng lên bàn thờ, ông chủ lễ báo cáo
với, ông, bà, tổ tiên, xin cho phép con cháu mở Lễ hội Lồng tồng và phù hộ độ trì
cho họ mạnh khỏe, mùa màng tươi tốt, lúa nhiều hạt, vật ni chóng lớn, dân làng
an khang, thịnh vượng.
Sau khi chủ lễ làm lễ xin Thành hồng, Thần nơng cho dân làng được mở lễ hội
xong, dân làng mới được đưa các mâm tồng cúng dâng lên Thành hoàng và Thần
nông. Chủ lễ báo cáo với Thần linh kết quả một năm, dân làng làm ăn vất vả khó


nhọc, có một vụ mùa tốt đẹp, mọi người trong bản luôn vui, khỏe; cảm ơn Trời,
Đất, các Thần linh đã phù hộ, độ trì cho dân làng ăn nên làm ra... cây cối ln xanh
tốt; báo cáo tồn bộ con cháu trong dân bản Tế tửu tại đây cho vui Lễ hội Lồng
tồng.
+, Các trò diễn trong Lễ hội Lồng tồng gồm:
-

Múa Sư tử, có múa chào Thần thánh, múa vui hội, múa báo đơng, múa trị vui
của khỉ...

-


Ném còn, kéo co, đấu gậy, cờ tướng, chọi chim, bắn nỏ, đánh yến, đánh đáo,
đánh bi, đánh khăng, đi cà kheo...



-

Trong các trò vui chơi của người Tày, Nùng, trò hát then, Sli, lượn thu hút
nhiều khách thập phương hơn cả. Các trò này được kéo dài từ lúc bắt đầu cho
đến lúc kết thúc lễ hội, được đưa vào nhà và khắp thôn bản đều hát; nội dung
hát chủ yếu là hát giao duyên, hát chúc tụng, hát mừng xn mới, đặc biệt các
đơi trai gái thanh niên tìm hiểu nhau sau này trở thành vợ chồng...


3.2 Ảnh hưởng của Lễ hội “Lồng tồng” đến đời sống
văn hóa của người dân địa phương.
3.2.1 Ảnh hưởng tích cực.
- Lễ hội Lồng tồng của người Tày, Nùng là một nghi thức đặc trưng của văn hóa
vùng, mang tính chất tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng cầu mưa, tín ngưỡng thờ
mặt trời. Chứa đựng nhiều hoạt động tín ngưỡng dân gian, và cũng chính là Lễ hội
cầu mưa của người làm nghề nông là nghề truyền thống của dân tộc Tày, Nùng với
các nội dung chào mừng mùa xuân mới, mừng vụ mùa trước cho mùa vụ sau bội
thu, cho mọi người, mọi nhà khỏe mạnh ấm no, hạnh phúc, bản làng yên vui.
- Có thể nói, Lễ hội Lồng tồng là một trong những lễ hội truyền thống của tộc
người Tày, Nùng ở khu vực phía Bắc, thực sự trở thành nơi bảo tồn, và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc; được xem là một bảo tàng sống, được trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay Lễ hội truyền thống nói
chung và Lễ hội Lồng tồng của tộc người Tày, Nùng nói riêng đã cho chúng ta
nhiều giá trị, đó là:
+, Về giá trị văn hóa: Lễ hội Lồng tồng của người Tày, Nùng là nơi giao lưu giữa

các loại hình văn hóa dân gian từ các nghi lễ, những câu truyện dân gian (huyền
thoại, thần tích, các vị thần…) các làn điệu hát then, Sli, lượn, các trị chơi dân gian
và các nghệ thuật trình diễn khác. Lễ hội này đã trở thành bức tranh mô tả tương
đối tồn diện đời sống văn hóa cộng đồng của tộc người Tày, Nùng ở các tỉnh phía
Bắc; trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần khơng thể thiếu được sau một
năm làm lụng vất vả trên ruộng đồng. Việc tổ chức Lễ hội là dịp để mọi người nghỉ
ngơi và đồn tụ gia đình, gạt bỏ đi các điều ác để hướng tới cái thiện, làm tan đi
những nỗi ưu tư, phiền muộn, lo lắng trong cuộc sống hằng ngày, để có sự thanh
thản, đồng thời, cũng qua đó nhắc nhở, răn dạy con cháu biết ơn và tơn kính các vị
thánh hiền, tiền nhân có cơng khai phá, xây dựng bảo vệ bản làng quê hương.
+, Về giá trị lịch sử: Lễ hội “Lồng tồng” là điểm hội tụ của nhiều thế hệ thuộc cộng
đồng người Tày, Nùng. Thông qua Lễ hội, bằng những nghi thức, tín ngưỡng dân
gian, chúng ta thấy được q trình phát triển của tộc người qua các thời kỳ lịch sử.
Qua đó, khơi dậy tình u q hương, giáo dục tính nhân văn, khơi dậy giá trị tiềm
ẩn của văn hóa làng bản và là điểm hội tụ có nhiều giá trị lịch sử của làng và của


tộc người. Lễ hội Lồng tồng được tổ chức hằng năm lưu truyền từ thế hệ nay sang
thế hệ khác, gắn liền với công lao to lớn của vị nhân thần đã có cơng lao xây dựng
q hương, các vị tướng đã có cơng đánh giặc giữ làng và các vị thần phù hộ để
cho nghề nông phát triển.Thông qua các nghi thức, các hình thức diễn xướng, các
trị chơi truyền thống, có thể thấy được lịch sử phát triển của một làng quê từ xa
xưa đến hiện đại, qua đó giáo dục truyền thống và tinh thần cố kết cộng đồng bền
chặt. Dự Lễ hội, người xem không chỉ được chứng kiến các nghi thức về một hệ
thống lễ với những động tác thuần thục, uy nghi mang tính nghệ thuật và biểu
tượng cao, mà cịn có dịp cảm nhận được mối quan hệ hai chiều giữa làng và nước,
giữa cá nhân và cộng đồng; quá khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau vừa thiêng
liêng, vừa huyền ảo. Truyền thống yêu làng, yêu nước được gìn giữ như một tài sản
văn hóa cố kết cộng đồng của đồng bào Tày, Nùng ở các tỉnh phía Bắc nước ta.
+, Về giá trị kinh tế: Lễ hội Lồng tồng của người Tày, Nùng là những điểm du lịch

hấp dẫn của các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái…, là những địa phương có vị trí
thuận lợi cho các tour du lịch ở phía Bắc.
+, Về giá trị xã hội trong đời sống đương đại: Có thể nói, Lễ hội Lồng tồng là
những giá trị văn hóa, những chuẩn mực đạo đức được chắt lọc từ nhiều thế hệ. Đó
là nếp sống, lối sống được hình thành trên những giá trị nhân văn của con người có
tính đến sự phù hợp của các điều kiện tự nhiên và xã hội, ở những nơi người Tày,
Nùng cư trú. Họ sống chân thành, mộc mạc, giàu lòng yêu thương, nhân ái, biết sẻ
chia, biết kính trên nhường dưới, tơn kính lễ lên thánh thần; biết sống hài hịa với
thiên nhiên, ln làm điều thiện, tránh xa điều ác. Những giá trị này đã tạo nên bản
chất tốt đẹp của người Tày, Nùng. Đó chính là điều kiện sống cịn, là bản sắc văn
hóa riêng giúp cho người Tày, Nùng có sức sống đã vượt lên trong mọi hồn cảnh
mà khơng bị hịa tan vào những dịng văn hóa khác.


3.2.2 Ảnh hưởng tiêu cực.
- Tại một số vùng dân cư, lễ hội được tổ chức một cách ồ ạt, lại tổ chức tập trung
chủ yếu vào mùa xuân. Vì “làng làng làm lễ hội, tỉnh tỉnh làm lễ hội” nên chưa
nói tới sự tốn kém thời gian, tâm lực, vật lực, tài lực, riêng số lượng quá nhiều
như vậy nên các giá trị tinh thần của xã hội bị phân tán, khó xác định được các
giá trị văn hóa cơ bản, chủ yếu mà thế giới lễ hội mang lại. Có nơi q chú ý
tới hình thức hơn là chú ý tới nội dung của văn hóa. Vì tổ chức tràn lan, thiếu
chọn lọc nên có hội đơng mà khơng vui, tiền thu được thì có thể nhiều nhưng
lợi ích văn hóa thì ít thấy. Nhiều người đi hội chỉ chăm chăm cúng lễ, khấn
vái…, thậm chí cướp lộc “thánh” chứ không mấy quan tâm tới lịch sử lễ hội và
ý nghĩa ngày tưởng nhớ, tôn vinh các vị thánh (thần) có cơng với hậu thế. Như
thế thì tấm lịng khơng thanh tịnh (vì khơng nhận được bài học giáo dục),
khơng thư thái vui vẻ (vì khơng được tiếp nhận ý thức thẩm mỹ) vốn là những
yêu cầu đặc trưng về mặt tinh thần của lễ hội truyền thống. Lại có nơi xảy ra
tình trạng “chặt chém” các loại dịch vụ đối với khách du lịch. Lại có nơi thịt

thú rừng bày bán la liệt ở khu vực lễ hội lẽ ra phải là một không gian trong
lành, chay tịnh, hòa hợp với thiên nhiên…
- Mấy hạn chế nổi cộm đang gây bức xúc dư luận là tình trạng thương mại hóa lễ
hội, là năng lực tổ chức chưa đạt yêu cầu làm cho lễ hội lệch lạc, biến chất, là
nạn mê tín dị đoan, bói tốn hay tại Một số lễ hội, di tích vẫn để xảy ra tình
trạng bán hàng rong, ăn xin, gây ảnh hưởng tới mỹ quan di tích; cơng tác vệ
sinh mơi trường, ùn tắc giao thông, đặt tiền giọt dầu, thu gom tiền cơng đức tại
một số di tích chưa được xử lý kịp thời...Đây là những hành vi thực hành tín
ngưỡng thái quá trong lễ hội của nhân dân, trong đó có cả một bộ phận cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức…


4. Kết luận.
Lễ hội là loại hình văn hóa khơng thể thiếu trong đời sống tâm linh của con
người. Có những lễ hội mang tính vui chơi giải trí và những lễ hội mang tính
truyền thống lâu đời nhưng chúng đều có ý nghĩa nhất định đối với con người.
Cần bảo vệ và phát huy những lễ hội truyền thống tốt đẹp và bài trừ những
nghi lễ cổ hủ mang lại đời sống tâm linh tốt đẹp hơn.
Lễ hội “Lồng tồng” là hoạt động văn hóa mang tính phồn thực, là một
món ăn tinh thần khơng thể thiếu của đồng bào dân tộc tày, nùng phía bắc. Đây
cũng là một lễ hội làm phong phú hơn bẳn sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam,
là người dân Việt Nam, chúng ta cần chung tay gìn giữ bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa Lễ hội đầu xuân năm mới của dân tộc Tày, Nùng nước ta.
Lễ hội là sự cộng hưởng các giá trị về mặt lịch sử, phong tục, văn chương,
nghệ thuật, là bảo tàng sống về các giá trị tinh thần, dân chủ, nhân văn đã được
kết tinh trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là sự thỏa mãn các nhu cầu về tín
ngưỡng, tâm linh, về giải trí. Đó là nhu cầu giao lưu, học hỏi, là sự đồn kết.
Lễ hội ln mang tính thiêng với hạt nhân là sự sùng bái một nhân vật lịch sử
hoặc một vị thần thánh, qua đó giáo dục cách ứng xử có văn hóa của con người
với thiên nhiên môi trường, với cội nguồn quá khứ, với con người.


Tài liệu tham khảo.
1. Bùi Hoài Sơn (2006), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở


châu thổ Bắc Bộ từ năm 1945 đến nay, luận án tiến sỹ, Viện Văn hoá Nghệ
thuật Việt Nam.
2. Đặng chí Thơng (2015), Tạp chí văn hóa nghệ thuật (04/02/2015) – Trường
Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
3. 60 ngày lễ hội Viêt Nam – NXB tổng hợp HCM.
4. Phạm thị thanh Quy (2009) Quản lý lễ hội cổ truyền hiện nay.



×