Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Con người văn hóa trong tư tưởng của một số danh nhân dân tộc -1 Phần 2 . pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.84 KB, 11 trang )

Con người văn hóa trong
tư tưởng của một số danh
nhân dân tộc -1
Phần 2



So với một số nước có nền văn minh phát triển sớm như Trung Quốc, Ấn Độ và
một số nước Tây Âu thì Việt Nam không có những học thuyết tư tưởng lớn có vai trò
chi phối sự phát triển xã hội như Nho gia, Đạo gia Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam
cũng có những nhà tư tưởng tiêu biểu của mình. Tư tưởng của họ tuy chưa được
trình bày một cách hệ thống như những học thuyết lớn nhưng lại chứa đựng không ít
những giá trị sâu sắc. Những giá trị đó không những đã là cơ sở cho tư duy dân tộc
trong một thời gian dài mà còn có giá trị tích cực nhất định trong thời đại ngày nay.
Tiêu biểu phải kể đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trường Tộ Các
ông sống trong những giai đoạn lịch sử khác nhau vì thế có những quan điểm khác
nhau rất cơ bản nhưng có một điểm chung, các ông đều là những người đại biểu cho
trí tuệ và tinh thần Việt Nam trong thời đại của mình.


Tuy nhiên, tư tưởng về một nền văn hoá tốt đẹp theo lập trường
Nho gia (mặc dù Nguyễn Trãi đã có cải biến, làm cho gần với truyền
thống văn hoá dân tộc) nói trên vẫn chứa đựng những yếu tố duy
tâm, không phù hợp với trật tự xã hội phong kiến, không được xã hội
đó tích cục chấp nhận, cho dù nó bênh vực, bảo vệ trật tự đó. Nguyễn
Trãi cố gắng thực hiện, thành thật khuyên người khác thực hiện
nhưng quan niệm đó vẫn không thể đi vào hiện thực cuộc sống. Tính
ích kỷ, phong kiến đã làm cho con người ngày càng thoái hoá, và vì
thế người ta càng xa lánh đạo của ông, bài xích, cô lập ông, biến ông
thành kẻ cô trung đáng thương. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến
Nguyễn Trãi hoài nghi, oán giận hiện thực, oán giận cả học thuyết


thánh hiền mà bấy lâu nay ông hết lòng ngưỡng mộ, nguyện hy sinh
cho nó. Có lúc ông đã chuyển sang lập trường Lão - Trang nhưng rồi
ông lại trở lại với Nho gia và để rồi cuối cùng mắc huyết nạn với nó.
Nguồn lực con người được phát huy cao độ cả ở sức mạnh vật
chất lẫn sức mạnh văn hoá, tinh thần
Trên đây đã phân tích quan niệm con người không tách rời
những giá trị văn hoá tinh thần trong tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Nhưng thực ra quan niệm đó của Nguyễn Trãi không tách rời quan
niệm về nguồn lực con người, vấn đề mà bất kỳ vị lãnh tụ phong trào
xã hội nào cũng phải quan tâm giải quyết.
Là một trong những lãnh tụ hàng đầu của nghĩa quân Lam Sơn
và sau đó giữ các chức quan đầu triều của nhà Lê sơ, Nguyễn Trãi cần
phải có quan niệm về vai trò của con người, cách khai thác, phát huy
nguồn lực con người để có thể tiến hành thắng lợi nhiệm vụ chính trị
đặt ra. Tư tưởng của ông về vấn đề này thể hiện trên mấy điểm chủ
yếu như xem dân là gốc của nước, tôn trọng cộng đồng, bồi, dưỡng tư
tưởng cộng đồng.
Nguyễn Trãi nhận thức rất rõ vai trò vả sức mạnh của dân. Dân
là số đông, là lực lượng có vai trò quyết định đối với thắng lợi của
kháng chiến, đối với sự tồn tại hay bị phế truất của một triều đại.
Trong Chiếu răn bảo Thái tử, thay lời vua Lê, ông viết: "Mến người cố
nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân", "Thuyền bị lật
mới tin rằng dân như nước". Từ đó, Nguyễn Trãi cho rằng mọi chủ
trương, đường lối, mọi quan hệ đối xử của triều đình đều phải căn cứ
vào lòng dân. Dân đồng lòng thì có sức mạnh. Vì vậy, việc gì hợp lòng
dân thì làm, việc gì không được dân ủng hộ thì bỏ, không được trái
lòng dân. Để dân đồng lòng, theo Nguyễn Trãi, cần phải cố kết họ lại
bằng tình thương, bằng đối xử công bằng về quyền lợi, chăm lo đến
nguyện vọng, lợi ích chính đáng của họ. Đây là quan niệm rất đúng
đắn của Nguyễn Trãi, mặc dù ông chưa đặt ra được vấn đề mối quan

hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi.
Điểm nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là ông không chỉ quan
niệm nguồn lực con người như một tập hợp các cá nhân yêu nước,
chịu sự chỉ bảo của chính quyền một sức mạnh vật chất con người
thuần tuý, mà cao hơn, đúng đắn hơn, ông đã nhận thức được sức
mạnh của con người có văn hoá, của cộng đồng dân tộc Đại Việt có
nền văn hoá truyền thống giầu bản sắc, có sức sống mãnh liệt. Sức
mạnh của Đại Việt là sức mạnh tổng hợp, bao gồm cả sức mạnh vật
chất và tinh thần. Vai trò của lực lượng vật chất, của quân số và binh
khí thì không ai có thể phủ nhận. Song còn có một nguồn lực khác
sâu xa hơn, tuy không có hình hài một cách cụ thể nhưng lại có sức
mạnh hết sức to lớn, hay nói đúng hơn, nếu biết cách khai thác thì
sức mạnh của con người và những vật chất có sẵn sẽ được nhân lên
gấp bội. Đó chính là sức mạnh văn hoá tinh thần. Chính Nguyễn Trãi
và Lê Lợi đã thành công khi biết khai thác và phát huy sức mạnh của
cộng đồng Đại Việt có văn hóa. Thành công về mặt này của Nguyễn
Trãi đã mang lại sức mạnh dân tộc để chiến .thắng trong cuộc kháng
chiến chống quân Minh.
Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, những nhân tố cấu thành sức
mạnh văn hoá tinh thần của dân tộc bao gồm lòng yêu nước, tinh
thần tự lực, tự cường, lòng tự hào dân tộc về cương vực của tổ quốc
cũng như những giá trị bản sắc văn hoá, ý chí đấu tranh bảo vệ sự
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ bản sắc văn hóa của mình. Chính vì vậy, tư
tưởng về Quốc gia độc lập luôn được ông nêu ra một cách tập trung
nhất, bao trùm các nhân tố khác. Trong Đại cáo bình Ngô, ông viết:
" Như nước Đại Việt ta
Thật là một nước văn hiến
Bờ cõi núi sông đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên làm đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu.
Trong tư tưởng trên, văn hóa, phong tục tập quán là một bộ
phận cấu thành của dân tộc. Bộ phận đó nằm trong cấu trúc dân tộc
không chỉ như một tiêu chỉ biểu hiện sự khác biệt giữa dân tộc ta vời
dân tộc khác mà còn là biểu hiện về nguồn gốc, quá trình hình thành
phát triển, sức sống, tính độc lập của dần tộc. Vì thế, trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong quá trình dựng nước,
nhân tố đó phải được phát huy. Phát huy được nhân tố đó thì sức
mạnh dân tộc mới được phát huy đầy đủ, đạt mức cao nhất. Trong
thư dụ thành Bắc Giang, để chỉ cho địch thấy sức mạnh truyền thống
vốn có của dần tộc, ông viết: " Người có Bắc Nam, đạo không kia
khác. Nhân nhân quân tử đâu đâu là không có. Nước An Nam tuy ở
ngoài Ngữ Lĩnh, mà tiếng là nước thư thi, những bậc trí mưu tài thức
đời nào cũng có. Với một dân tộc như vậy, cách thức tốt nhất đối với
quân Minh là "chẳng gì bằng sớm bỉ giáp binh, ra ngoài thành cùng
quân của Thái đô đốc lục tục kéo về, để trả lại cho ta cảnh thổ nước
An Nam, khiến cho hai bên đều tiện” (Thư cho Đả Trung và Lương
Nhữ Hốt). Khi đã giành được độc lập, ông vẫn nêu trách nhiệm giữ gìn
phong hóa của đất nước, coi đó là một trong những cội nguồn sức
sống của dân tộc. Trong cuốn Dư địa chí, ông viết: "Người nước Nam
không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của nước Ngô, Chiêm, Lào,
Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước".
Phương thức huy động nguồn lực con người của Nguyễn Trãi còn
bao hàm phương thức lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, lấy đại
nghĩa thắng hung tàn. Theo ông, phải biết sử dụng sức mạnh cộng
đồng đánh trúng vào điểm yếu của quân địch, hướng vào giải quyết
đúng nhiệm vụ quan trọng nhất.
Phát huy sức mạnh cộng đồng trên cơ sở hoà mục cũng là một

điểm đáng chú ý trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Trước hết, ông đánh
giá cao vai trò quan trọng của đội ngũ quan lại, giải quyết các mối
quan hệ của đội ngũ này. Ông yêu cầu quan lại phải bớt lòng tư dục,
sửa bỏ tệ tham ô, lười biếng, đối với vua thì hết trung, đối với dân thì
hết hòa, biết nhường nhịn, chịu thiệt về mình. Đối với nhân dân, ông
mong muốn nhà vua sửa đổi chỉnh sách, tạo điều kiện thuận lợi cho
dân làm ăn, sinh sống để tạo sự hòa khí, lòng tin tưởng nơi dân. Ông
coi đó là điều cốt lõi để giữ cho xã hội thái bình, thịnh trị.
Những tư tưởng trên đây cho thấy về cơ bản, Nguyễn Trãi có
những quan niệm đúng đắn, nhân đạo sâu sắc về vấn đề con người.
Con người trong tư tưởng của ông thực sự là con người văn hoá,
không tách rời những giá trị văn hoá, đặc biệt là văn hoá tinh thần.
Chính vì vậy mà việc khai thác nguồn lực của con người trong tu
tưởng Nguyễn Trãi đã khá toàn diện, cả nhân tố vật chất lẫn nhân tố
văn hoá, tinh thần. Đề cao những giá trị văn hoá tinh thần như độc
lập dân tộc, phong tục truyền thống, tình yêu thương hoà mục, tôn
trọng lợi ích chung để phát huy cao độ nguồn nội lực dân tộc là một
giá trị lớn trong tư tưởng của ông. Tư tưởng ấy có giá trị to lớn đối với
hiện thực lịch sử lúc đó: Góp phần giáo dục lòng yêu nước thương
dân, tinh thần chiến đấu vì độc lập, tự do, tinh thần tương thân tương
ái, đoàn kết cộng đồng, xây đựng nếp sống hòa đồng, làm giảm phần
nào lòng đố ký, tính ích kỷ của đội ngũ phong kiến đương thời. Tuy
nhiên, do hạn chế lịch sử giai cấp, trong tư tưởng của Nguyễn Trãi còn
chứa đựng một số điểm chưa hợp lý, mang tính duy tâm, siêu hình về
xã hội: Chưa nhận thức được tính quy định của lợi ích giai cấp phong
kiến đối với việc hình thành tư tưởng, đạo đức, lối sống của tầng lớp
thống trị. Chính vì vậy, tư tưởng của ông mặc dù giầu giá trị nhân
đạo, tiến bộ nhưng không được giai cấp thống trị áp dụng, ngược lại,
ông còn bị các thế lực đối lập trong triều Lê bài xích, cô lập và hãm
hại.

Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà tư tưởng Việt Nam tiêu
biểu trong thế kỷ XVI, sinh năm 1491, tự Hanh Phú,
hiệu Bạch Vân cư sĩ, quê làng Trung Am, huyện Vĩnh
Lại Lại, nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông đỗ trạng
nguyên năm 1535 dưới triều Mạc, được cử giữ chức
Tả thị lang bộ Lại, kiêm Đông các Đại học sĩ. Do
những mâu thuẫn vốn có của thời đại phong kiến đang suy tàn, những
nguyên lý của đạo thánh hiền không thể thực hiện một cách triệt để
theo sở nguyện của ông, ông chỉ làm quan 8 năm rồi cáo quan về quê
dựng am Bạch Vân làm thơ và mở trường dạy học nhằm truyền bá
kiến thức cho đời sau. Ông mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Nguyễn Bỉnh
Khiêm để lại cho chúng ta một di sản thơ văn khá phong phú, đa số là
thơ triết lý về đạo lý, lối sống, trong đó chứa đựng nhiều quan niệm
về vũ trụ, nhân sinh. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng khá sâu sắc
trong giai đoạn lịch sử đương thời và trong các giai đoạn tiếp theo.
Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ các tác phẩm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm là coi trọng con người có văn hoá, coi việc thực hiện
những giá trị văn hóa theo tinh thần Nho gia là vấn đề có ý nghĩa cao
nhất đối với con người và xã hội. Có thể nới ông đã giành phần lớn
tâm sức của mình vào việc phân tích, truyền bá tư tưởng này.
Là nhà tư tưởng có tài năng hơn người, theo lập trường Nho gia,
lý tưởng xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm là xây dựng một xã hội thái
bình thịnh trị theo kiểu Đường Ngu: Một xã hội hòa bình, không có
chiến tranh, nhân dân được sống no đủ, trong kết cấu xã hội thì trên
vua sáng, dưới tôi hiền, xã hội có bộ mặt đạo đức, văn hoá tết đẹp,
con người giàu lòng thương, chân thành, hoà mục. Thời đại của ông là
thời đại nhà Lê đi vào suy tàn, vì thế ông càng khao khát được thấy
lại thời bình trị của Đường Ngu, Nghiêu Thuấn: "Hà thời tái đổ Đường
Ngu trị, Y cựu kiền khôn nhất thái hòa" hay "Hà hạnh phùng Nghiêu

Thuấn thế, Nhất triều nguyện tác thái bình dân".
Để có được xã hội như vậy cần có đường lối chính trị với việc xác
định nguồn lực, sử dụng nguồn lực phù hợp. Kế thừa tư tưởng nhân
đạo của các thế hệ nhà Nho đi trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương
một đường lối vương đạo cho phép khai thác nguồn lực xã hội từ đội
ngũ những người cầm quyền đến sức mạnh dân chúng. Đặc điểm lớn
trong đường lối vương đạo Khiêm là đường lối đó dựa vào nhân nghĩa,
lấy nhân nghĩa để cảm hóa, tập hợp mọi lực lượng xã hội chứ không
dựa cả vào Tam cương, Ngũ thường để ràng buộc con người.
Đường lối nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm có lập trường thân
dân, coi dân là gốc của nước. Kế thừa tư tưởng của người xưa ông
viết: "Trời sinh ra chúng dân, sự ấm no ai cũng có lòng mong muốn
cả" (Duy thiên sinh chúng dân, Bão noãn các hữu dục). "Xưa nay
nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cất
phải được lòng dân" (Cổ lai quốc dĩ dân vi bản. Đắc quốc ưng tri tại
đắc dân - Cảm hứng).
Làm thế nào để có dân làm gốc, để được lòng dân là vấn đề
không đơn giản, không phải lúc nào người cầm quyền cũng có thể
thực hiện được. Dưới chế độ tư hữu phong kiến, lợi ích vật chất gắn
liền với địa vị, điều đó dễ làm cho các bậc vua chúa, quan lại lợi dụng
chức quyền vơ vét của cải để làm giàu. Kế thừa tư tưởng người xưa về
nguyên lý "tài tụ, nhân tán" Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên những người
cầm quyền rằng muốn có bình trị thì không được tham lam, đừng vì
tiền bạc mà mất đi lòng nhân nghĩa vì không có nhân nghĩa sẽ mất
lòng dân: "Người xưa câu ví đâu có lầm, lấy thuở dương mà biết thuở
âm. Yên bách tính thì yên trị đạo, thất thiên kim chớ thất nhân tâm".
Mặt khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm yêu cầu nhà cầm quyền phải chăm lo
đến đời sống của nhân dân, nhất là dân nghèo. Trong bài Cảm hứng
ông viết: "Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư
bộ ốc dân". Để có cơ sở thực hiện đường lối vương đạo nhân nghĩa nói

trên, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi trọng việc xây dựng con người văn hóa.
Ông cho rằng sụ tất xấu của của xã hội. Thực ra, quan niệm của ông
cũng không có gì khác quan niệm cổ truyền của Nho gia: coi đạo đức
là nguyên nhân cơ bản của mọi tình trạng xã hội, coi tấm gương đạo
đức của người cầm quyền, đặc biệt nhà vua là cội nguồn của tình
trạng đó.
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng tin vào tác dụng của việc giáo hoá đối
với dân chúng bằng những quy tắc đạo đức và nêu gương đạo đức.
Chính vì vậy, ông viết nhiều về vấn đề này, viết để cho người đời biết,
hiểu và thực hiện. Bản thân ông rất tự hào về đạo làm người của
thánh hiền mà ông đã theo, ông nguyện sống để làm gương.
Theo ông, con người phải thực hiện Cương thường. Không còn gì
phải nghi ngờ, bởi lẽ, "Nghĩa phải thờ vua sáng như mặt trời, mặt
trăng, vua tôi, cha con là nghĩa bền vững ngàn đời, con người phải
nghĩ đến điều đó, cho đến khi trời đất già cỗi (Quân thân tại niệm kiền
khôn lão). Làm được như vậy thì không có gì phải xấu hổ với trời và
người (Phủ ngưỡng thiên nhân vô quý tạc).
Khi chế độ phong kiến lâm vào suy thoái thì những mặt hạn chế
của nó càng có điều kiện bộc lộ ra đầy đủ hơn. Trong xã hội đó đầy
rẫy bất công, đầy rẫy những kẻ quan tham. Họ là những người mồm
nói nhân nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính nhưng trong hành động lại
lợi dụng địa vị, chức quyền ra sức vơ vét tiền của làm giàu cho gia
đình và bản thân. Họ là những người chỉ biết đến lợi ích cá nhân, lao
vào danh lợi như con ruồi, con kiến thấy mật, thấy mỡ. Cương thường
lúc này, dù hay đến mấy cũng không được thực hiện, chỉ như cái ang
không mật mỡ mà thôi. Những yêu cầu về thực hiện lối sống nhân
văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không thể được đông đảo quan lại
hưởng ứng. Trước bối cảnh đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm không tránh khỏi
thất vọng nhưng ông vẫn tích cực tìm cách .thuyết phục con người
sống có đạo đức, theo đạo đức cương thường. Đặc biệt, thuyết phục

quan lại không có kết quả, ông đã hướng vào thuyết phục nhân dân.
Bên cạnh việc làm rõ hơn về trung nghĩa, ông nói nhiều đến sự hòa
thuận giữa anh em, chồng vợ, khuyến khích mọi người vui làm điều
thiện, không tham lam, biết độ lượng, bao dung với người khác.
Tư tưởng và hành động vì một nếp sống văn hoá cao đẹp của
Nguyễn Bỉnh Khiêm nói trên, mặc dù không được đông đảo giai cấp
thống trị đương thời chấp nhận và tích cực thực hiện nhưng đã có ảnh
hưởng khá sâu sắc đến một bộ phận không nhỏ quan lại, nho sỹ và
nhân dân. Nhiều người tôn thờ ông, kính phục đạo giả đức và cuộc
sống thanh 'bạch của ông, họ coi đó là tấm gương lớn mà suất đời họ
nguyện noi theo. Có người ngợi ca tri thức của ông, cho rằng ông đã
đạt tới sự tinh tuý, cao sâu nhất của đạo thánh hiền. Khi Nguyễn Bỉnh
Khiêm mất, học trò của ông đã viết: "Sáu bộ thi thư suốt nghĩa, bơi
thuyền đến bến thầy Chu, Một kinh "Thái ất" thuộc lòng, đốt lửa soi
gan Dương tử". "Ngang trời dọc đất, cùng lòng Chu Tể tâm tư, Suy
trước biết sau, giáo học lối Nghiên phu môn hộ".
Bên cạnh những giá trị tích cực nói trên, trong tư tưởng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn nhiều điểm bất hợp lý, tiêu cực, không tưởng,
duy tâm. Hạn chế này biểu hiện ở chỗ: Xét về bản chất những tư
tưởng về đạo làm người cũng như những chính sách thân dân của ông
là nhằm bênh vực quyền lợi, trật tự phong kiến, nhưng do "gần dân"
mà có ý nghĩa tiến bộ (nếu được thực điều sẽ có lợi cho nước, cho
dân) đồng thời lại đối lập với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Do đó,
việc yêu cầu giai cấp thống trị thực hiện những tư tưởng của ông phần
nào mang tính duy tâm, siêu hình, không có khả năng thực hiện.
Từ hạn chế trong thế giới quan, coi sự phát triển chỉ là sự tuần
hoàn, không có đấu tranh, ông đã phủ nhận vai trò năng động chủ
quan của con người. Nguyên lý "dĩ hoà vi quý", coi hoà là mục đích
của ông được nêu ra trong tình trạng xã hội phong kiên suy thoái đã
khiến người ta từ bỏ đấu tranh, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Từ

kinh nghiệm của bản thân, từ quan về ở ẩn để giữ lấy đạo đức trong
sạch, ông khuyên người ta phải "vụng" chứ không đua tranh, thậm chí
coi mưu trí như một thứ giặc cũng là tư tưởng tiêu cực, sai lầm.
Có tình trạng trên là do ông không giải thích được các mâu thuẫn
xã hội đương thời, không thấy được bản chất của giai cấp phong kiến
và tình trạng suy tàn của nó. Ngoài ra ông còn chịu ảnh hưởng sâu
sắc của thuyết tướng số, lý số và những thuyết duy tâm thần bí khác
trong triết học cổ trung đại của Trung Quốc

×