Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

(Luận án tiến sĩ) một số vấn đề triết học về tư duy sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 165 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀO THỊ HỮU

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC
VỀ TƢ DUY SÁNG TẠO

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀO THỊ HỮU

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC
VỀ TƢ DUY SÁNG TẠO
Chuyên ngành: CNDVBC &CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của GS.TS Nguyễn Văn Huyên. Các kiến thức, số liệu sử dụng là
trung thực, các trích dẫn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các kết luận nêu trong
luận án chưa từng được cơng bố ở bất kì cơng trình khoa học nào trước đây.
Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2018
Tác giả luận án

Đào Thị Hữu


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn
khoa học GS. TS Nguyễn Văn Huyên - người đã tận tình chỉ bảo, động viên tơi
rất nhiều trong q trình thực hiện luận án. Sự hiểu biết khoa học sâu sắc, kinh
nghiệm hướng dẫn cũng như tinh thần trách nhiệm của Thầy trở thành điểm tựa
giúp tơi vượt qua khó khăn trong q trình thực hiện luận án cũng như có được
những kinh nghiệm quý báu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Bộ phận Sau đại học Phòng đào
tạo trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Ban chủ nhiệm Khoa Triết
học và Bộ môn Lôgic học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập, nghiên cứu.
Tơi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các nhà khoa học PGS.TS Nguyễn
Anh Tuấn, PGS.TS Nguyễn Thúy Vân, GS.TS Hồ Sĩ Quý, PGS.TS Vũ Văn Viên,
PGS.TS Lương Đình Hải, GS. TS Nguyễn Hùng Hậu…đã có những góp ý vơ
cùng giá trị về mặt khoa học, cũng như động viên, cổ vũ tôi trong quá trình bảo vệ
luận án ở các cấp, giúp tơi khơng ngừng chỉnh sửa, hoàn thiện luận án này.
Lời cảm ơn đặc biệt tôi xin được gửi tới Ban Giám đốc Học viện Ngân
hàng, Ban Lãnh đạo và các thầy cô trong khoa Lý luận chính trị - Học viện Ngân
hàng đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tơi hồn thành luận án.
Cuối cùng, tơi gửi tấm lịng ân tình tới gia đình và bạn bè - những người

đã ln sát cánh hỗ trợ, chia sẻ khó khăn, động viên tạo động lực cho tơi hồn
thành luận án.
Tác giả luận án

Đào Thị Hữu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
CHƢƠNG 1:TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN ............ 8
1.1. Tình hình nghiên cứu về tƣ duy, sáng tạo và tƣ duy sáng tạo .............. 8
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tư duy ............................................................ 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về sáng tạo và tư duy sáng tạo ........................ 14
1.2. Tình hình nghiên cứu về các loại hình của tƣ duy sáng tạo ................ 21
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về tư duy sáng tạo trong khoa học .................. 21
1.2.2. Tình hình nghiên cứu về tư duy sáng tạo trong nghệ thuật ................ 24
1.2.3. Tình hình nghiên cứu về tư duy sáng tạo trong các lĩnh vực khác ..... 26
1.3. Tình hình nghiên cứu về các yếu tố chủ quan và điều kiện khách quan
tác động đến tƣ duy sáng tạo......................................................................... 28
1.3.1. Tình hình nghiên cứu về những yếu tố chủ quan tác động đến tư duy
sáng tạo ......................................................................................................... 28
1.3.2. Tình hình nghiên cứu về những điều kiện khách quan tác động đến tư
duy sáng tạo .................................................................................................. 30
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu về tƣ duy sáng tạo và những vấn đề
đặt ra đối với luận án ..................................................................................... 33
CHƢƠNG 2:TƢ DUY VÀ TƢ DUY SÁNG TẠO.......................................... 37
2.1. Bản chất của tƣ duy và sáng tạo ............................................................ 37
2.1.1. Bản chất của tư duy ............................................................................ 37
2.1.2. Bản chất của sáng tạo ......................................................................... 47

2.2. Tƣ duy sáng tạo ....................................................................................... 57
2.2.1. Bản chất, đặc điểm của tư duy sáng tạo ............................................. 57
2.2.2. Tính quy luật của tư duy sáng tạo....................................................... 64
2.2.3. Các cấp độ, loại hình của tư duy sáng tạo ......................................... 70
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 73
CHƢƠNG 3:MỘT SỐ LOẠI HÌNH TƢ DUY SÁNG TẠO CHỦ YẾU...... 74
3.1. Tƣ duy sáng tạo trong khoa học ............................................................ 74
1


3.1.1. Bản chất của khoa học và đặc trưng của tư duy khoa học ................. 74
3.1.2. Biểu hiện của tư duy sáng tạo trong khoa học ................................... 81
3.2. Tƣ duy sáng tạo trong nghệ thuật ......................................................... 87
3.2.1. Bản chất của nghệ thuật và đặc trưng của tư duy nghệ thuật ............ 87
3.2.2. Biểu hiện của tư duy sáng tạo trong nghệ thuật ................................. 93
3.3. Tƣ duy sáng tạo trong cuộc sống đời thƣờng ....................................... 98
3.3.1. Cuộc sống đời thường và những vấn đề đặt ra đối với tư duy ........... 98
3.3.2. Biểu hiện của tư duy sáng tạo trong cuộc sống thời thường ............ 100
Kết luận chƣơng 3 ........................................................................................... 106
CHƢƠNG 4:NHỮNG YẾU TỐ CHỦ QUAN VÀ ĐIỀU KIỆN KHÁCH
QUAN THÚC ĐẨY TƢ DUY SÁNG TẠO .................................................. 107
4.1. Những yếu tố chủ quan thúc đẩy tƣ duy sáng tạo ............................. 108
4.1.1. Những yếu tố thuộc về tư chất, năng khiếu....................................... 108
4.1.2. Nhân tố tâm lý - tinh thần ................................................................. 111
4.2. Những điều kiện khách quan thúc đẩy tƣ duy sáng tạo .................... 120
4.2.1. Sự phát triển kinh tế - điều kiện thúc đẩy tư duy sáng tạo ............... 120
4.2.2. Điều kiện văn hóa - xã hộithúc đẩy tư duy sáng tạo ........................ 124
4.3. Về các yếu tố chủ quan và điều kiện khách quan thúc đẩy tƣ duy sáng
tạo ở Việt Nam hiện nay .............................................................................. 133
4.3.1. Các yếu thuộc về tinh thần, tâm lý, tính cách của người Việt thúc đẩy

tư duy sáng tạo ............................................................................................ 133
4.3.2. Những điều kiện khách quan thúc đẩy tư duy sáng tạo ở Việt Nam hiện
nay ............................................................................................................... 138
Kết luận chƣơng 4 ........................................................................................... 146
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 147
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................................. 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 151

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế phát triển của tồn cầu hóa và nền kinh tế tri thức trên thế giới
ngày nay, nhân loại đang tiến tới nền văn minh dựa trên tri thức và sáng tạo.
Nền tảng cho sự chuyển đổi này là nền kinh tế tồn cầu dựa trên sự đổi
mới tri thức khơng ngừng thay vì sự cung cấp nguồn tài nguyên và lao động giá
rẻ. Sự phát triển của nền kinh tế hiện đại ngày càng phụ thuộc chủ yếu vào sự
sáng tạo và đổi mới các sản phẩm và các quá trình. Sáng tạo và đổi mới cũng là
những thuật ngữ được nhắc đến nhiều trong các chương trình phát triển của các
quốc gia thời gian gần đây bởi vì nâng cao năng lực sáng tạo quốc gia, năng lực
sáng tạo của các cá nhân, tổ chức được coi như động lực cho sự phát triển kinh
tế và xã hội. Do đó, bài tốn cơ bản đặt ra cho tất cả các quốc gia trong thế kỉ
XXIlà vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao có tố chất cơ bản là
năng lực tư duy sáng tạo.
Chính phủ Việt Nam cũng đã nhận ra vai trò quan trọng của sáng tạo trong
sự phát triển kinh tế, xã hội và nỗ lực không ngừng để cải thiện năng lực sáng
tạo quốc gia bằng cách nâng cao năng lực hoạt động của thể chế, kiện tồn nền
chính trị, đầu tư cho xây dựng hạ tầng, giáo dục, nghiên cứu khoa học và công

nghệ, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã nêu rõ những nhiệm vụ trọng
tâm phát triển đất nước trong thời kì mới trong đó “đổi mới căn bản và tồn diện
giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao” [24; 432] được coi là một trong „ba đột phá chiến lược”. Việt Nam là một
nước có nền kinh tế lạc hậu so với thế giới, kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác tài
nguyên thiên nhiên, lao động ở trình độ thấp, giá rẻ. Giáo dục Việt Nam còn thiên
về cung cấp kiến thức, thiếu về đào tạo năng lực, kĩ năng, đặc biệt năng lực sáng
tạo, thích ứng với sự biến đổi. Do đó, để đổi mới, phát triển đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển” [24; 126], trong đó
sáng tạo được coi là một phẩm chất cần có của con người Việt Nam[24; 127].
3


Như vậy, bước sang thế kỉ XXI, sáng tạo, đổi mới ngày càng giữ vai trò
quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia, vì thế, nghiên cứu về sáng tạo
và tư duy sáng tạo để nâng cao năng lực tư duy sáng tạo cho con người đang trở
thành một trong những chủ đề nghiên cứu chính của khoa học xã hội.
Thực tiễn thế kỉ XX đã chứng kiến sự phát triển và đổi thay mạnh mẽ của
nhiều ngành khoa học: sự ra đời của lý thuyết điều khiển học, lý thuyết thông
tin, các nghiên cứu cấu trúc và hệ thống, sự phát triển mạnh mẽ của các khoa
học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Hiện trạng đó đã đặt ra trước các nhà lý
luận, nhà tri thức luận nhiều vấn đề nhận thức, đặt lại những vấn đề tri thức
trong thời đại mới. Ở phương Tây một vấn đề nổi lên trên diễn đàn triết học là
vấn đề sự tiến hóa, tăng trưởng của tri thức. Trường phái tri thức luận tiến hóa
với các học giả tiêu biểu như Karl Popper, Thomas Kuhn đã nỗ lực đi tìm con
đường của sự sáng tạo tri thức khoa học. Trong các lĩnh vực khoa học cụ thể,
vấn đề sáng tạo tri thức được đặc biệt quan tâm và trở thành một trong số những
vấn đề chính yếu của một số chuyên ngành khoa học như xã hội học tri thức,

tâm lý học sáng tạo, phương pháp luận sáng tạo. Các chuyên ngành khoa học
này đã đạt được nhiều thành tựu trong nửa cuối thế kỉ XX trở lại đây. Tuy nhiên,
mặc dù trong các nghiên cứu triết học riêng lẻ có đề cập đến và đạt được những
thành tựu nghiên cứu quan trọng về sáng tạo tri thức, nhưng ở phương Tây cho
đến đầu thế kỉ XXI vấn đề tư duy sáng tạo vẫn chưa thực sự được nhận ra như
một vấn đề triết học quan trọng. Nghiên cứu về tư duy sáng tạo do đó cịn thiếu
những nghiên cứu khái quát, hệ thống về mặt lý luận.
Ở Việt Nam, số cơng trình nghiên cứu về tư duy sáng tạo cịn ít ỏi, hơn nữa
chủ yếu là các cơng trình mang tính chất lược thuật những kết quả nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài, đặc biệt cũng cịn thiếu những nghiên cứu lý luận
mang tính khái qt.
Nghiên cứu khái quát về vấn đề này sẽ là cơ sở cho việc tìm hiểu tư duy
sáng tạo trong những lĩnh vực cụ thể, và áp dụng vào việc nâng cao năng lực
sáng tạo của mỗi người, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao vị thế cạnh tranh

4


của quốc gia. Vì lẽ đó, tơi chọn: “Một số vấn đề triết học về tư duy sáng tạo”
làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1.Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án làkhái quát một số vấn đề lý luận chung,
cơ bản về tư duy sáng tạo dưới góc độ triết học bao gồmbản chất, tính quy luật
của tư duy sáng tạo, đặc trưng củamột số loại hình tư duy sáng tạo chủ yếu và
những yếu tố, điều kiện thúc đẩy tư duy sáng tạo.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt
ra đối với luận án.

- Làm rõ các khái niệm tư duy, sáng tạo và tư duy sáng tạo, phân tích bản
chất, đặc điểm và tính quy luật của tư duy sáng tạo.
- Phân tích biểu hiện của tư duy sáng tạo trong một số lĩnh vực chủ yếu: tư
duy sáng tạo trong khoa học, nghệ thuật và cuộc sống đời thường nhằm mục
đích lý giải rõ hơn về bản chất và nội dung của tư duy sáng tạo.
- Phân tích các yếu tố chủ quan và điều kiện khách quan thúc đẩy tư duy
sáng tạo.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư duy sáng tạo dưới góc nhìn triết học.
3.2.Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Với mục đích khái quát một số vấn đề lý luận chung, cơ bản về tư duy
sáng tạo dưới góc độ triết học, do đó, luận án chỉ tập trung làm rõ một số vấn đề
cơ bản, chính yếu về tư duy sáng tạo là: bản chất và tính quy luật của tư duy
sáng tạo; sự biểu hiện của tư duy sáng tạo trong một số lĩnh vực chủ yếu và
những yếu tố, điều kiện tác động đến tư duy sáng tạo.
- Khi nghiên cứu một số loại hình tư duy sáng tạo chủ yếu, luận án tập
trung vào ba lĩnh vực cơ bản: khoa học, nghệ thuật và cuộc sống đời thường. Tư
5


duy sáng tạo tồn tại trong mọi hoạt động của con người từ kinh tế, chính trị, đến
khoa học, nghệ thuật và mọi hoạt động của đời sống cá nhân; do tính đa dang,
phức tạp của các lĩnh vực đó mà việc phân tích biểu hiện của tư duy sáng tạo
trong tồn bộ các lĩnh vực này trong khn khổ của luận án là rất khó. Do đó,
luận án chọn lựa lĩnh vực khoa học, nghệ thuật và cuộc sống đời thường là
những lĩnh vực điển hình cho năng lực tư duy của con người mà những kết quả,
sản phẩm được sáng tạo ra trong các lĩnh vực này có những tác động, ảnh hưởng
sâu rộng và quan trọng tới sự phát triển xã hội và con người. Đó cũng là những
lĩnh vực luôn được chú ý đầu tiên khi bàn về sáng tạo.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Đề tài sử dụng quan điểm triết học mácxit về tư duy, quan điểm phát triển,
quan điểm thực tiễn, và một số lý thuyết mới về tư duy và sáng tạo.
4.2 Phương pháp nghiên cứu của luận án
Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với các phương pháp
như: thống nhất lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái qt hóa và hệ thống hóa.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần làm rõ bản chất của tư duy sáng tạo, chỉ ra đặc điểm, các
tính quy luật và yếu tố tác động đến tư duy sáng tạo.
Luận án đã khái quát và phân tích các yếu tố mới thúc đẩy tư duy sáng tạo
như: sự giao lưu, tiếp biến văn hóa; mơi trường xã hội có dân chủ và có cơ chế
để thực hiện dân chủ; tính chủ thể và sự tự do nội tâm của chủ thể sáng tạo; và
bước đầu chỉ ra một số những yếu tố chủ quan và điều kiện khách quan thúc đẩy
tư duy sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1.Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần hệ thống hóa, khái quát hóa, làm rõ một số vấn đề triết
học cơ bản, chung về tư duy sáng tạo. Những luận điểm có tính khái qt của
luận án có thể dùng làm cơ sở cho những nghiên cứu về tư duy sáng tạo trong
các lĩnh vực cụ thể.
6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao
học và nghiên cứu sinh cùng những ai quan tâm nghiên cứu về tư duy sáng tạo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
án bao gồm 4 chương với 12 tiết.


7


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu vềtƣ duy, sáng tạo và tƣ duy sáng tạo
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tư duy
Trong hệ vấn đề rộng lớn được nghiên cứu trong các trước tác của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, vấn đề tư duy là một trong những vấn đề triết học căn
bản được đề cập đến, mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại còn được Ph.Ăngghen
coi là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Những tác phẩm của các ông như
Luận cương về Phoiơbắc (C.Mác; 1845), Hệ tư tưởng Đức (C.Mác và Ph.
Ăngghen;1845 - 1846), Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (C.Mác và Ph.
Ăngghen; 1848), Bộ Tư bản (C.Mác và Ph. Ăngghen;1867, 1884, 1894), Biện
chứng của tự nhiên (Ph. Ăngghen; 1886), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán (V.I.Lênin; 1909), và Bút kí triết học (V.I.Lênin; 1915 - 1916)
đã thể hiện rõ vấn đề là: điểm xuất phát nghiên cứu tư duy trong triết học mácxít
khơng phải từ “vương quốc tư tưởng” của những trừu tượng thuần túy mà từ
những “cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của họ” [82; 28] tức từ hoạt động sống hiện thực của các cá nhân lao động
tập thể đang từng ngày, từng giờ sản xuất ra chính đời sống của mình. Con
người cùng với tư duy của họ sinh thành từ trong chính đời sống hiện thực ấy, tư
duy ln được soi chiếu từ đời sống thực tiễn sinh động. Triết học mácxít khơng
chỉ xem xét q trình phát triển của thế giới khách quan mà cịn xem xét q
trình phát triển của tư duy giúp khám khá lôgic của quá trình phát triển tư duy,
hình thành tri thức mới.
Như vậy, xem xét tư duy dưới góc độ triết học mácxít gồm hai nội dung
quan trọng: nhìn nhận tư duy như thành tố không thể tách rời của đời sống con

người, và cùng với sự vận động của đời sống ấy, tư duy luôn vận động sản sinh
quan niệm mới, tư tưởng mới về hiện thực. Đó là những quan điểm, cách tiếp
cận có tính chất nền tảng cho luận án khi nghiên cứu vấn đề tư duy và tư duy
sáng tạo.
8


Tiếp tục tư tưởng của các bậc tiền bối, trong những tài liệu nghiên cứu
chuyên sâu về tư duy có cuốn “Lôgic học biện chứng”[61] của tác giả
E.V.ILencov (2003). Những quan niệm của ơng về tư duy có vai trị phương
pháp luận rất quan trọng đối với việc xác định bản chất của tư duy của luận án.
Trong sự quan tâm hết sức rộng đối với vấn đề tư duy như một vấn đề quan
trọng của triết học, đồng thời là đối tượng nghiên cứu của lôgic học biện chứng,
sáng tạo triết học nổi bật của Ilencov chính là vấn đề “cái tư tưởng”, mà qua đó
tác giả đã làm rõ nguồn gốc, bản chất của tư duy. Ilencov đã phát triển tư tưởng
về “sự đồng nhất tư duy và tồn tại”, trong đó nội dung của tư duy, do vậy cả của
tư duy sáng tạo chính là bản thân hiện thực đời sống con người, là tính quy luật
của tự nhiên đã bị “vượt bỏ” trong tồn tại văn hóa của nó. Văn hóa khơng phải là
sự tiếp tục của tự nhiên mà là sự “vượt bỏ” nó, là tự nhiên ở trình độ con người.
“Cái vật chất” là khởi đầu của “cái tư tưởng”. Ilencov đã nhìn ra tính thống nhất
trong chỉnh thể của “cái tư tưởng” và “cái vật chất” trong hoạt động người,
khơng có tư tưởng thiếu vật chất và cũng khơng có vật chất thiếu tư tưởng trong
sinh tầng văn hóa của tồn tại người. Trong hoạt động người diễn ra sự chuyển
hóa “cái vật chất” thành “cái tư tưởng” và ngược lại. Cũng như C.Mác quan
niệm về một “giới tự nhiên nhuốm đầy lý tính”, với Ilencov thế giới văn hóa của
con người cũng thấm đẫm “tính tư tưởng”. “Cái tư tưởng” là phương thức, hình
thức hoạt động sống của con người xã hội. Tư duy chỉ sinh thành, phát triển
trong hoạt động sống đó, trong thế giới văn hóa chứ khơng phải thuộc tính bẩm
sinh của bộ não. Với quan điểm của mình, Ilencov làm rõ biện chứng của sự
sinh thành năng lực tư duy, sự hình thành nhân cách con người, hơn ai hết ơng

hiểu được giá trị, tầm vóc và sức mạnh của con người trong thế giới do nó tạo
nên. Quan điểm của ông là cơ sở cho cách tiếp cận của luận án đối với khái niệm
tư duy sáng tạo.
Thế kỉ XX với sự phát triển như vũ bão của khoa học, có đến gần 90%
những phát minh và khám phá của loài người được thực hiện ở thế kỉ này đã đặt
ra trước các nhà triết học vấn đề có tính thời sự: tri thức tăng trưởng như thế nào.

9


Trong cuốn “Tri thức khách quan”[103] của mình tác giả Karl Popper
(2014) đã đề cập đến những khía cạnh cốt lõi nhất của vấn đề tri thức: quan
niệm về chân lý - chân lý không phải là cái chúng ta sở hữu mà là cái chúng ta
đang tìm kiếm, “chân lý là cứu cánh của khoa học hiểu theo nghĩa là một sự gần
đúng hơn với chân lý, hoặc theo nghĩa là có tính giống chân lý cao” [103; 92];
về tiêu chuẩn và phương pháp kiểm tra các lý thuyết ông đưa ra các khái niệm
mới về “dung lượng chân lý”, “dung lượng sai lầm” và “tính giống chân lý”.
Đồng thời ông cũng luận chứng cho sự tồn tại của “tri thức khách quan” và “thế
giới thứ ba”, thông qua đó vạch mở con đường tiến triển của tri thức. Luận điểm
của ơng: “Bài tốn cơ bản mà lý thuyết về tri thức đặt ra là phải làm rõ và
nghiên cứu quá trình cho phép các lý thuyết của chúng ta có thể phát triển hay
tiến bộ, đó là yêu sách của chúng ta ở đây” [103; 65]. Lập luận của ông là “tri
thức không bao giờ bắt nguồn từ con số không, mà luôn phải từ một thứ tri thức
nền nào đó - tri thức được coi là đảm bảo tới một thời điểm”[103; 109]. Ông đã
phân biệt hai loại tri thức: tri thức chủ quan - “tri thức gắn liền với một cơ thể”
[103; 113] và tri thức khách quan - “nội dung lôgic của các lý thuyết”, và ba thế
giới: thế giới vật lý (thế giới thứ nhất), thế giới những kinh nghiệm có ý thức
của chủ thể (thế giới thứ hai) và thế giới của các tri thức khách quan (thế giới
thứ ba).
Ông cũng luận chứng cho tính khách quan và độc lập của “thế giới thứ ba”,

mặc dù là sản phẩm của con người nhưng nó có tính độc lập, tự trị, tự phát sinh
các vấn đề mới mẻ nằm sẵn ở đó, và sự tăng trưởng của tri thức khách quan
chính là thơng qua sự tương tác, phản hồi giữa “bản thân chúng ta với thế giới
thứ ba” [103; 163]. Sự tồn tại của tri thức khách quan và thế giới thứ ba là cơ sở
nền tảng cho sự tiến bộ của tri thức, là cơ sở cho sự phát sinh ý thức “toàn diện”
của con người về bản thân. Đó là “thế giới đặc thù của loài người”, chỉ con
người với bản chất suy tư, có lý tính và khả năng phản hồi mới có khả năng
tham gia tương tác với nó. Mặc dù quan niệm có màu sắc duy tâm nhưng cách
tiếp cận của Karl Popper đã gợi mở nhiều vấn đề về quá trình sáng tạo tri thức

10


của con người. “Tri thức khách quan” là nguồn tài liệu quan trọng để nghiên cứu
về tiến hóa tri thức của loài người.
Tham gia cuộc tranh luận về sự tiến bộ của tri thức cịn có tác giả Thomas
Kuhn (2008) với cuốn “Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học” [66].
Đúng như tên của nó, cuốn sách trình bày, phân tích lơgic của q trình ra đời
hay “sự lộ diện của một lý thuyết hay một phát hiện mới” [66; 24] trong khoa
học. Tác giả tập trung phân tích nguyên nhân, những điều kiện bên trong lòng
của một nền khoa học đã dẫn tới sự tiến bộ của nó như thế nào, từ đó đưa ra
quan niệm theo tác giả là “hoàn toàn mới” về bản thân lịch sử phát triển của
khoa học - đó là sự phát triển khơng phải bằng con đường “tích lũy”, bổ sung
những luận điểm mới mà thông qua các cuộc cách mạng làm thay đổi nền tảng
của khoa học. Mỗi tri thức hay lý thuyết mới ra đời khơng phải là sựgóp thêm,
hay tăng thêm vào kho tàng tri thức nhân loại mà kéo theo nó là sự dịch chuyển
các vấn đề, thay đổi cách nhìn, cách tiếp cận, thiết lập “một nền tảng mới cho
hoạt động thực tiễn của khoa học” [66;42]. Do đó: “một lý thuyết mới cũng
hiếm khi, nếu khơng muốn nói là khơng bao giờ là sự gia tăng của những gì
người ta đã biết” [66; 44]. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích q trình phát sinh tri

thức mới thông qua các cuộc cách mạng khoa học thay đổi “mẫu hình”.
Có phần nào đó dư âm và ảnh hưởng từ lý thuyết của hai tác giả Karl
Popper và Thomas Kuhn, đặc biệt từ quan niệm về “thế giới thứ ba” (Karl
Popper) và khái niệm “mẫu hình” (Kuhn), tác giả Edgar Morin đã triển khai,
phân tích vấn đề tư duy, tri thức trên một diện rộng lớn, đa dạng, cái mà ông gọi
là “xây dựng tri thức luận phức hợp”. Tri thức được khảo sát với ý nghĩa rộng
lớn nhất từ góc độ bộ não, tâm trí cá nhân đến góc độ xã hội, văn hóa và tính tự
tổ chức của nó; từ các hình thức tri giác, huyền thoại đến tư tưởng.
Trong cuốn Phương pháp 3[90], Edgar Morin (2006) đã cắt nghĩa (mặc dù
không đi sâu) khái niệm tư duy, tư duy sáng tạo và các loại tư duy. Khái niệm tri
thức và tư duy ở đây là cùng một nghĩa vì tri thức được quan niệm khơng chỉ là
kết quả mà cịn là q trình đi đến kết quả ấy - tức chính là tư duy. Tư duy “đa
trị”, “đa hình”, mở và thay đổi. Nó sử dụng nhiều phương tiện khác nhau từ khái
11


niệm, ngôn từ đến huyền thoại, tượng trưng, bản vẽ. Theo tác giả “tư duy vừa là
một vừa là nhiều”, vừa là một vừa là đôi. Ngay từ thời cổ xưa người nguyên
thủy đã “vận động trong hai tư duy bổ sung lẫn nhau nhưng không lẫn lộn nhau”
[90; 285] là tư duy lôgic và tư duy tượng trưng.
Cuốn “Phương pháp 4: Tư tưởng” [91] tác giả luận chứng cho sự tồn tại
đặc thù của tư tưởng, mặc dù không tách khỏi chủ thể nhưng tư tưởng luôn được
“khách thể hóa” tạo thành một hiện thực đặc thù - trí quyển - “chính là một bộ
phận cấu thành khách thể của hiện thực con người”[91; 240]. Chúng là những
“hiện hữu trí tuệ” hay “sinh thể trí tuệ” cư trú khơng phải trong sinh quyển hay
tâm trí, bộ não cá nhân mà trong “trí quyển”. Đó là những dấu hiệu, kí hiệu,
tượng trưng, hình ảnh, thơng điệp, biểu tượng làm trung giới cho quan hệ của
con người, hiện hữu trong mọi quan hệ, giao tiếp của con người. Đó là “những
đối tượng hiện hữu có gốc rễ vật chất, nhưng bản tính - lại thuộc về tinh thần,
tâm linh” [91; 243], là phi vật chất nhưng sự tồn tại của chúng lại cần đến “giá

đỡ” vật chất: bộ não, ngôn ngữ, thư tịch.
Với những nỗ lực không hề nhỏ, các nhà nghiên cứu phương Tây đã góp phần
làm sáng tỏ bản chất của tư duy và cách thức tiến triển của tri thức loài người.
Ở Việt Nam những nghiên cứu về tư duy theo lập trường triết học Mác
thường tập trung làm rõ, cụ thể hóa những luận điểm đã được C.Mác, Ph.
Ănghen và V.I.Lênin trình bày trong kinh điển.
Bài viết “Góp thêm một cách hiểu về tư duy” [133] của tác giả Nguyễn Thị
Thúy Vân (2013) đã phân tích bản chất và đặc trưng của tư duy ở những chiều
cạnh sâu sắc. Theo tác giả “tư duy không chỉ là sự phản ánh mà cịn là một q
trình, một hoạt động” [133; 42]. Tư duy phản ánh hiện thực khách quan nhưng
là sự phản ánh mang tính đặc thù, có sự biến đổi, cải biến “tách thoát khỏi sự tác
động trực tiếp, bề ngoài, ngẫu nhiên của đối tượng để đi đến những nhận thức
sâu sắc về bản chất, quy luật của đối tượng” [133; 44]. Tư duy còn là một quá
trình, một hoạt động tiến tới cái mới, biến đổi chính nó. Dựa trên những phân
tích của E.V. Ilencov tác giả cũng đặt ra vấn đề quan trọng về sự phát triển của
tư duy ở đó sự tái tạo đối tượng trong tư duy không chỉ phụ thuộc vào bộ não,
12


ngơn ngữ, hoạt động thực tiễn mà cịn phụ thuộc vào hình thức tư tưởng, những
“biểu tượng” tồn tại trong sinh tầng văn hóa.
Các bài viết trong cuốn “Khoa học tư duy từ nhiều tiếp cận khác nhau”
[94] của tập thể các tác giả đã phân tích tư duy từ nhiều góc nhìn: triết học, tâm
lý học, xã hội học; trên nhiều phương diện và loại hình: tư duy giáo dục, tư duy
nghệ thuật, tư duy kinh tế, tư duy phức hợp, tư duy hệ thống. Cuốn sách cung
cấp những tư liệu phong phú, những suy tư đầy tính gợi mở cho luận án.
Tư duy cũng được phân loại theo nhiều lát cắt khác nhau. Tác giả Trần
Đình Thỏa (2002) với bài viết “Một số vấn đề tư duy biện chứng mác - xít”[125]
đã khái quát và chỉ ra đặc điểm của một số loại hình tư duy: tư duy biện chứng
cổ đại, tư duy siêu hình, tư duy biện chứng duy tâm, tư duy biện chứng duy vật.

Trong đó tác giả nhấn mạnh tư duy biện chứng duy vật là loại hình tư duy phản
ánh biện chứng của thế giới khách quan như nó vốn có, sử dụng phương pháp
lôgic - lịch sử và trừu tượng - cụ thể. Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến nhất
của các tác giả là phân chia tư duy thành hai trình độ: tư duy kinh nghiệm và tư
duy lý luận, trong đó tư duy lý luận đặc biệt được coi trọng. Liên quan đến vấn
đề này, cũng có một số cơng trình như “Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối
với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” [143] của tác giả Trần Thị Thuận Vũ
(2014); “Tư duy lý luận và bản chất của nó”[109] của Phạm Hồng Quý (2004),
“Tư duy lý luận: Một số vấn đề cần quan tâm” [134] của Nguyễn Thị Bạch Vân
(2014). Các tác giả đều tập trung làm rõ điểm khác biệt giữa hai trình độ tư duy
và mối quan hệ giữa chúng.
Vấn đề tiêu chuẩn của chân lý được các tác giả quan tâm lý giải. Tác giả
Nguyễn Khắc Chương (2003) với bài viết “Tiêu chuẩn lôgic trong nhận thức
chân lý” [10]thừa nhận tiêu chuẩn lôgic của chân lý: “lôgic là sự kết tinh của trí
tuệ con người và khi phản ánh đúng hiện thực khách quan, nó cũng có giá trị
khách quan để nhận thức chân lý” [10; 40]. Tiêu chuẩn lơgic đóng vai trị quan
trọng trong q trình nhận thức nhưng so với thực tiễn nó cũng chỉ là cái “thứ
hai”. Bài viết “Vấn đề tiêu chuẩn chân lý trong lịch sử triết học” [50] của tác giả
Nguyễn Tấn Hùng (2002) cũng trình bày nhiều quan điểm khác nhau về tiêu
13


chuẩn của chân lý: quan điểm lấy niềm tin làm tiêu chuẩn chân lý của tôn giáo,
thần học; lấy lý tính làm tiêu chuẩn của triết học duy lý, lấy quan sát, thực
nghiệm làm tiêu chuẩn của triết học duy nghiệm và lấy lợi ích, tính hiệu quả làm
tiêu chuẩn của triết học thực dụng. Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh tính hợp
lý của quan điểm mácxít coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Tác giả Lê Văn
Đoán (2008)cũng đồng ý với quan điểm trên trong bài viết “Nét đặc thù của
chân lý trong toán học” [28].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về sáng tạo và tư duy sáng tạo

Nghiên cứu về sáng tạo xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, khi các nhà triết
học Hi lạp cổ đại đưa ra những quan niệm đầu tiên về sáng tạo như q trình
sinh thành, biến đổi khơng ngừng (Hêracơlit); như cảm hứng thần thánh (Plato),
thậm chí là sự mô phỏng, bắt chước (Aristotles). Nhưng chỉ đến thế kỉ
XX,nghiên cứu về sáng tạo và xây dựng khoa học sáng tạo mới thực sự trở
thành vấn đề khoa học có tính cơ bản.
Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không trực tiếp
nghiên cứu những vấn đề lý luận về sáng tạo nhưng thấm sâu trong quan điểm
của các ông, sáng tạo luôn được coi là thuộc tính bản chất của con người, của
hoạt động người và của văn hóa. Trong q trình luận bàn về thế giới, con người
và tư duy của họ, chỉ ra tính đặc thù của con người và hoạt động người, cũng
như lý giải nguyên nhân, động lực cho sự tiến bộ, phát triển của xã hội các ông
đều trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến hoạt động sáng tạo của con người.
Con người xét về bản chất là “thực thể tự nhiên có tính chất người, nghĩa là
thực thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài” [83; 232 - 234];
“hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh
sống của con vật...Con người là một sinh vật có ý thức, nghĩa là đời sống của
bản thân con người là một đối tượng đối với con người” [83; 234]. Nhờ tính chất
đặc biệt ấy, con người khơng hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên mà cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra đời sống của mình, khơng ngừng phát triển nó. Trong q
trình hoạt động có ý thức, con người chuyển hóa tự nhiên thành văn hóa, là chủ
thể của hoạt động, từng bước vươn tới trở thành chủ thể tự do như Ph. Ăngghen
14


nhận định mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa chính là một bước tiến tới
tự do. Những chỉ dẫn có tính chất phương pháp luận trên là cơ sở triết học quan
trọng cho việc nghiên cứu vấn đề sáng tạo.
Từ thế kỉ XX cho đến nay, trên thế giới, sáng tạo được quan tâm nghiên
cứu trong nhiều lĩnh vực triết học, tâm lý học, phương pháp luận mà lĩnh vực đi

đầu và có đóng góp nhiều cách tiếp cận nghiên cứu, nhiều kết quả đa dạng là
tâm lý học.
Tác giả Vưgơtxki (1985) trong “Trí tưởng tượng sáng tạo ở lứa tuổi thiếu
nhi” [144] cho rằng chúng ta cần xem xét sáng tạo như một quy luật có mặt
trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần. Sáng tạo là loại hình hoạt
động ở đó con người khơng chỉ tái hiện hình ảnh, kinh nghiệm đã có mà cịn tạo
nên những biểu tượng, hành động mới, có sự tham gia, tác động qua lại của tư
duy và tưởng tượng. Từ đó, ơng rút ra nhiều kết luận sư phạm cho việc phát
triển trí tưởng tượng sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi.
Bài viết “Triết học về sáng tạo” (Philosophy of Creativity) [150] của tác
giả B. Gaut (2010) đã khái quát ngắn gọn những thành tựu nghiên cứu về sáng
tạo trong tâm lý học, đưa ra quan niệm chung về sáng tạo. Đặc biệt ông đã đặt ra
vấn đề về sự cần thiết có sự liên ngành giữa triết học và tâm lý học trong nghiên
cứu về sáng tạo bởi: trong khi tâm lý học đã phát triển khá phong phú, có nhiều
thành tựu nghiên cứu về sáng tạo thì triết học cịn ít những nghiên cứu khái quát
những thành tựu ấy thành những vấn đề lý luận; cịn tâm lý học vì xa rời triết
học, nên có nhiều những nghiên cứu mang tính “phát hiện lại” những gì đã được
nghiên cứu trong triết học [Xem: 150].
Ở Việt Nam, số cơng trình nghiên cứu về sáng tạo tuy chưa phong phú
nhưng cũng đã đạt được những kết quả bước đầu, khai mở cho một lĩnh vực còn
mới mẻ trong giới nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Văn Huyên với một loạt các bài báo về sáng tạo: Văn hóa
thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo của con người (1988); Quá trình sáng tạo và sự
phát triển nhân cách (1995); Sự hình thành con người với tư cách chủ thể sáng
tạo (1997) đã khẳng định sáng tạo là tiêu chí quan trọng trong việc khẳng định
15


bản chất, năng lực, nhân cách của con người. Con người với tư cách chủ thể
sáng tạo được thúc đẩy hoạt động bởi đam mê, sự lựa chọn và nghĩa vụ xã hội

tạo ra các giá trị mới. Quá trình sáng tạo có đặc trưng là kết quả của nó đồng
thời là khởi đầu cho quá trình sáng tạo tiếp theo.
Tác giả Lê Huy Hoàng (2002) với cuốn Sáng tạo và những điều kiện chủ yếu
để kích thích sự sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay [42]đã hệ thống, khái
quát những quan niệm về sáng tạo trong lịch sử triết học từ thời Hi lạp cổ đại với
quan niệm thần thánh hóa hoạt động sáng tạo nghệ thuật (Platon), thời cổ đại sáng
tạo chịu ảnh hưởng của quan niệm tơn giáo, sáng tạo đích thực là thuộc về Chúa,
đến thời Phục Hưng đề cao sáng tạo nghệ thuật “sự sáng tạo luôn được thể hiện
như một nghệ thuật, mà bản chất đặc trưng của nó là ở tính trực quan” [42; 16],
thời kì Khai sáng sáng tạo là kết quả của quá trình suy tư với khả năng thực tiễn
tạo ra sản phẩm cụ thể và ở triết học cổ điển Đức, bản chất của sáng tạo là hoạt
động thực tiễn - tinh thần mang các đặc trưng cơ bản như tính hợp lý, tự do, tính
phổ biến và tính tồn vẹn. Tác giả cũng phân tích bản chất của sáng tạo trên lập
trường triết học mácxít và chỉ ra những điều kiện cơ bản kích thích sáng tạo. Theo
tác giả: “sáng tạo là quá trình hoạt động của con người, trên cơ sở nhận thức được
các quy luật của thế giới khách quan, tạo nên những giá trị tinh thần và vật chất
mới về chất, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của xã hội” [42; 39].
Cuốn “Diện mạo triết học phương Tây hiện đại” [47] của tác giả Đỗ Minh
Hợp (2006) truyền tải nhiều quan điểm có giá trị của triết học phương Tây hiện
đại về tồn tại người, văn hóa, khoa học và lịch sử giúp soi sáng những chiều
cạnh đa dạng của sáng tạo và tư duy sáng tạo trong nền văn hóa. Ở đây, con
người được đặt ở vị trí trung tâm của triết học, con người với tư cách “thực thể
thường xuyên tìm kiếm bản thân mình, suy xét, thể nghiệm bản thân và điều
kiện tồn tại của mình” [47; 221]. Cách tiếp cận khoa học - khách quan không đủ
để làm sáng tỏ con người nhất là chiều sâu tâm linh của nó, tính người của nó.
Sáng tạo là một trong những đặc trưng cho tính người, tồn tại người: “năng lực
trở thành con người là năng lực trở nên không đồng nhất với hoạt động của
mình”; “con người vượt lên trên cái mà nó đã thực hiện” [47; 249]. Sáng tạo là
16



khả năng con người tự phủ định chính mình, “làm phong phú thế giới bao quanh
và bản thân mình bằng những ý nghĩa mới” [47; 252]. Sáng tạo cũng đồng nghĩa
với tự do, với khả năng con người lựa chọn bản thân một cách có trách nhiệm.
Trong cuốn “Tâm lý học sáng tạo” [95] của tác giả Phạm Thành Nghị
(2013), những nội dung cơ bản của lĩnh vực sáng tạo đã được lý giải với những
chiều cạnh phong phú, đa dạng dưới góc độ của khoa học tâm lý. Tác giả đã xác
định “Tâm lý học sáng tạo là lĩnh vực tri thức về con đường con người tạo dựng
cái mới, có tính độc đáo và có giá trị trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau”
[95; 9]. Tuy nhiên cái mới ở đây được nghiên cứu là “cái mới sinh ra ở cấp độ
tâm lý” [95; 9]. Tác giả cũng đã phân tích khái niệm sáng tạo, bản chất của q
trình sáng tạo, các thuộc tính, cấp độ của sáng tạo. Sáng tạo là quá trình tạo ra
cái mới có giá trị với sự tham gia của hai loại hiện tượng tâm lý là hiện tượng
lôgic và trực giác, sự tác động của các yếu tố chủ quan và khách quan.
Trong sách này, tác giả cũng giới thiệu một số lý thuyết về sáng tạo trong
tâm lý học trên những nét cơ bản. Lý thuyết về“dòng sáng tạo” của
Csikszentimihalyi , đó là dịng chảy dẫn đến sự phát hiện khi mà chủ thể hòa tan
vào dòng chảy sáng tạo khơng cịn ý thức được sự tách bạch của mình trong suốt
q trình đó. Lý thuyết thành tố sáng tạo của Amabile trong đó sáng tạo bao
gồm ba loại kĩ năng: kĩ năng lĩnh hợp phù hợp, kĩ năng sáng tạo phù hợp và
động cơ công việc. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở học thuyết hoạt động tâm lý của
Leontive, tác giả cho rằng: “Sáng tạo cần được xem như một hoạt động giải
quyết vấn đề chứ không thể xem xét đơn giản như một thao tác hay một kĩ năng
tư duy” [95; 127]. Sáng tạo bao gồm các thành tố: động cơ, hành động lôgic và
hành động trực giác.
Công trình có quy mơ ở Việt Nam nghiên cứu về sáng tạo dưới góc độ
phương pháp luận phải kể đến là bộ sách 7 tập của tác giả Phan Dũng (2010). Tác
giả đã đưa ra những phân tích khái quát về sáng tạo và xây dựng cơ sở khoa học
cho phương pháp luận sáng tạo và đổi mới [15], ở đó, khái niệm sáng tạo được tác
giả hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là hoạt động của con người mà còn là hoạt động

của tự nhiên - “là hoạt động tạo ra bất kì cái gì có đồng thời tính mới và tính ích
17


lợi” [15;21]; trình bày một cách hệ thống các phương pháp, kĩ năng sáng tạo
[17,18,19,20] và nghiên cứu tư duy sáng tạo dưới góc độ tâm lý [16].
Trụ cột chính cho các phân tích của tác giả là quan điểm sáng tạo của
Alshuller với cách tiếp cận khách quan về sáng tạo, lý thuyết giải các bài toán
sáng chế, hệ thống các phương pháp và thủ thuật sáng tạo. Tác giả coi “đây là
cách tiếp cận duy nhất hiện nay trong lĩnh vực sáng tạo và đổi mới, nhắm đến
xây dựng phương pháp luận” [21; 14]. Lý thuyết giải các bài tốn sáng chế “là
một lý thuyết chứ khơng phải là một trong số các phương pháp sáng tạo của
phương pháp luận sáng tạo và đổi mới”, “lý thuyết tương đối khái quát về sự
phát triển của các hệ thống” [21; 40]. Nhiệm vụ của nó là đi tìm các quy luật
phát triển hệ thống dựa trên các thông tin về sự phát triển, kể cả những phát triển
khơng có con người tham gia. Quy luật khách quan của phát triển hệ thống giúp
xây dựng cơ chế định hướng trong tư duy sáng tạo. Ngồi ra, tác giả cịn giới
thiệu cho độc giả rất nhiều các trường phái, phương pháp sáng tạo đa dạng trên
thế giới.
Khái niệm tư duy sáng tạo mới chỉ thực sự được bàn đến như một khái
niệm khoa học từ thế kỉ XX trở lại đây với hướng nghiên cứu đi sâu phát hiện
đặc điểm, phương pháp, kĩ năng đặc thù của loại tư duy này. Năm 1938, tác giả
Alex Osborn đưa ra phương pháp “tập kích não” (Brainstorming Method) nhằm
kích thích tư duy sáng tạo phát sinh ý tưởng. Phương pháp này có mục đích thu
được thật nhiều ý tưởng mới mẻ để giải quyết vấn đề bằng cách làm việc tập thể
theo những quy tắc nhất định như: tập thể phát các ý tưởng phải có những người
thuộc các ngành nghề, lĩnh vực chuyên mơn khác nhau; q trình các thành viên
tạo ra ý tưởng phải thật sự tự do, thoải mái, khơng có bất cứ sự phê bình, nhận
xét nào; quá trình phát ý tưởng và q trình đánh giá, phân tích các ý tưởng phải
độc lập với nhau. Đây là phương pháp hiệu quả để thu thập ý tưởng, tuy nhiên,

không phải là phương pháp vạn năng.
Sau tác giả Alex Osborn, tác giả Eward de Bono nổi tiếng với việc giới
thiệu nhiều phương pháp tư duy sáng tạotrong đó nổi bật là phương pháp tư duy
chiều ngang (Lateral Thinking Method) và phương pháp sáu chiếc mũ tư duy
18


(Method of Six Thinking Hats). Phương pháp “Sáu chiếc mũ tư duy” [5]được
ông công bố vào năm 1985 với mục đích lý giải những góc nhìn, chiều cạnh, sắc
thái trong tư duy và sự kết hợp chúng trong quá trình suy nghĩ sẽ đưa ra cách
giải quyết vấn đề hiệu quả nhất. Ơng chia suy nghĩ nói chung thành sáu dạng,
mỗi chiếc mũ với màu sắc khác nhau tượng trưng cho một dạng thức của suy
nghĩ. Mũ trắng: kiểu suy nghĩ trung lập, khách quan; mũ đỏ: kiểu suy nghĩ cảm
xúc, tình cảm; mũ đen: kiểu suy nghĩ phát hiện nhược điểm; mũ vàng: kiểu suy
nghĩ phát hiện ưu điểm; mũ xanh lá cây: kiểu suy nghĩ sáng tạo, phát hiện ý
tưởng; mũ xanh da trời: kiểu suy nghĩ bao quát có chức năng đánh giá, tổ chức,
sắp xếp các kiểu suy nghĩ khác.
Trong cuốn “Tư duy chiều ngang” [149] Edward de Bono (1990) phân chia
tư duy dựa trên quan niệm về chức năng trí não với tư cách là một hệ thống tự tổ
chức tạo ra các mẫu hình để lưu trữ thơng tin, đồng thời có khả năng biến đổi
chúng. Tư duy chiều ngang là sự tái cấu trúc lại các mẫu, thốt khỏi các mẫu đã
định hình và tạo ra các mẫu mới. Sự thật là vấn đề quan tâm của tư duy chiều
đứng, còn sự giàu có về tư tưởng là vấn đề của tư duy chiều ngang. Tư duy
chiều ngang khơng có mục đích tìm kiếm chỉ một giải pháp cho vấn đề mà mở
ra những con đường mới ngay cả khi đã tìm được phương án khả thi.
Tác giả Joelau và Jonathan Chan [154] nghiên cứu về tư duy sáng tạo trong
sự so sánh với tư duy phê phán (critical thinking), nếu tư duy phê phán là tư duy
chính xác, rõ ràng, lý tính thì tư duy sáng tạo như một dạng thức tư duy tạo ra
các ý tưởng mới; đồng thời phân tích các nguyên tắc cơ bản của tư duy sáng tạo
và trình bày các bước cơ bản của quá trình sáng tạo.

Trong “Đột phá sức sáng tạo” [89], tác giả Michael Michalko (2007) khảo
sát các “chiến lược tư duy” của các thiên tài nhằm phát hiện ra cách thức tư duy
tạo ra các ý tưởng mới, có tính đột phá. Thơng qua chín chiến lược tư duy, tác
giả đã phân tích, gợi mở tính độc đáo của tư duy sáng tạo như: khả năng nhìn
nhận vấn đề theo nhiều góc độ, khả năng kết hợp những yếu tố ngẫu nhiên, năng
lực tưởng tượng, hình tượng hóa suy nghĩ, năng lực vượt lên kinh nghiệm đã có

19


và những điều đã được thừa nhận. Những phân tích của tác giả có sức gợi mở
lớn đối với việc làm rõ đặc điểm của tư duy sáng tạo.
Trong tác phẩm “Tâm lý học sáng tạo” [95] tác giả Phạm Thành Nghị
(2013) cũng giới thiệu nhóm các lý thuyết quan niệm tư duy sáng tạo là hoạt
động giải quyết vấn đề một cách sáng tạo bao gồm lý thuyết chức năng trí tuệ
của Guilford (trong đó tư duy phân kì và tư duy hội tụ là hai thao tác quan trọng
nhất trong cấu trúc của trí tuệ), lý thuyết tư duy định hướng của Eward de Bono,
lý thuyết ba thành tố của Sternberg, mơ hình tương tác giữa lĩnh vực - cá nhân chuyên ngành của Csikszentimihalyi, tư duy ẩn dụ và giải quyết vấn đề của
Gordon, và kịch bản xã hội của Torrance. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến khẳng
định tư duy sáng tạo như là “hoạt động giải quyết vấn đề mới”, trong đó “Tư
duy sáng tạo là sự thống nhất của yếu tố trực giác và yếu tố lôgic” [95; 219]
Tác giả Phan Dũng (2010) trong “Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới”
[15] quan niệm tư duy sáng tạo là loại tư duy “nhìn xa, trơng rộng, xem xét tồn
diện, thấy và giải quyết các mâu thuẫn để tạo ra sự phát triển liên tục, đầy đủ, ổn
định và bền vững”. Tác giả khẳng định: “Sáng tạo học có đối tượng nghiên cứu và
tác động là tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định)
của con người. Trong đó, các nghiên cứu cơ bản có nhiệm vụ phát hiện các quy luật
của tư duy sáng tạo. Trên cơ sở các quy luật tìm ra, các nghiên cứu ứng dụng xây
dựng và phát triển các phương pháp nhằm hoàn thiện tư duy sáng tạo” [15; 90].
Ngoài ra, một số luận án tiến sĩ có bàn về tư duy sáng tạo trong đó có luận

án tiến sĩ chuyên ngành khoa học giáo dục của tác giả Đỗ Ngọc Miên (2014):
“Phát triển một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho học sinh tiểu học” [88]. Nhìn
chung, các luận án đều tập trung lý giải tư duy sáng tạo là q trình tư duy
khơng chỉ tái hiện, tái tạo thơng tin đã có mà cịn tạo ra tri thức mới về đối tượng
và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người: “tư duy sáng tạo là tư duy có
khuynh hướng phát hiện và giải thích bản chất sự vật theo lối mới, hoặc tạo ra ý
tưởng mới, cách giải quyết mới khơng theo tiền lệ đã có” [88; 17].

20


1.2. Tình hình nghiên cứu về các loại hình của tƣ duy sáng tạo
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về tư duy sáng tạo trong khoa học
Trong Bản thảo kinh tế triết học1844, C. Mácđã có những chỉ dẫn quan
trọng về mục đích, bản chất của khoa học. Khoa học, suy cho cùng là nghiên
cứu về con người, điều đó thể hiện trong những tiên đoán của C. Mác về sự phát
triển của khoa học tự nhiên: “Về sau, khoa học tự nhiên bao hàm trong nó khoa
học về con người cũng như khoa học về con người bao hàm trong nó khoa học
về tự nhiên: đó sẽ là một khoa học” [83; 179]. C. Mác cho rằng dưới tác động
của cuộc cách mạng công nghiệp, các khoa học tự nhiên lúc đó: “đã thâm nhập
một cách thực tiễn vào đời sống con người” đã “phát huy một cách đại chúng
lực lượng bản chất của con người”. Bởi đối tượng nghiên cứu của khoa học tự
nhiên không phải là tự nhiên “thuần túy” mà là: “Tự nhiên sinh thành trong lịch
sử loài người - trong hành vi xuất hiện của xã hội loài người - là tự nhiên hiện
thực của con người” [83; 178 - 179].
“Tri thức khách quan” [103]của tác giả Karl Popper(2014) trực tiếp bàn về
vấn đề tiến bộ tri thức trong khoa học. Trên cơ sở phê phán phép quy nạp truyền
thống, những mâu thuẫn trong giải quyết vấn đề quy nạp của Hume, Karl Popper
đề xuất cách tiếp cận mới đối với vấn đề quy nạp “khái niệm quy nạp thông qua
sự lặp đi lặp lại hẳn là một sai lầm - một loại ảo giác” [103; 28], khơng có gì

chắc chắn, tuyệt đối đúng cả. Do đó “ta phải xem mọi quy luật hoặc lý thuyết
đều mang tính giả thuyết hay tính phỏng định, có nghĩa chúng chỉ là những
phỏng đốn” [103; 31] bởi vì tất cả chúng cuối cùng đều có nguy cơ “bị đổ”.
Vấn đề đặt ra đối với nhận thức không phải là đi tìm kiếm nền tảng chắc chắn
cho tri thức như cách mà một số nhà triết học trước ông đã làm mà cần đưa ra
tiêu chuẩn lựa chọn lý thuyết.
Trên cơ sở đó ơng đã “khởi thảo phương pháp luận phê phán” của mình và
đưa ra định luật kiểm sai. Vấn đề phân biệt giả thuyết đúng - sai trong khoa học
chuyển thành vấn đề phân biệt giả thuyết bị bác bỏ - giả thuyết chưa bị bác bỏ
bởi vì cuối cùng tất cả rồi cũng sẽ bị bác bỏ, trong đó “chúng ta ưu tiên lựa chọn
những lý thuyết mà chỗ sai lầm của chúng chưa được xác định” [103; 30]. Một
21


×