Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lê lựu thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.73 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bá Thành

Hà Nội - 2014


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi, Nguyễn Thị Vân Anh, lớp Cao học Văn K56,
khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan cơng trình
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới
là cơng trình do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS. TS. Nguyễn Bá Thành.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về nội dung
khoa học trong cơng trình này.
Hà Nội, ngày 13 tháng 6 năm 2014
Người cam kết
Nguyễn Thị Vân Anh

3


LỜI CẢM ƠN
Cuối cùng, luận văn của chúng tôi cũng hoàn thành
một cách tốt đẹp. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới Thầy giáo Nguyễn Bá Thành, người đã tận tình hướng
dẫn, động viên, giúp đỡ chúng tơi trong suốt q trình thực
hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo khoa Văn
học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội, cảm ơn những người bạn đã nhiệt tình
giúp đỡ chúng tơi hồn thành cơng trình này.
Hà Nội, ngày 13 tháng 6 năm 2014

Tác giả
Nguyễn Thị Vân Anh

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
5. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................. 7
6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 7
NỘI DUNG
Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới .................................................................................................... 8
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới ............................................... 8
1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới ........................................................ 10
1.3. Lê Lựu - nhà văn đạt nhiều thành tựu từ thể loại tiểu thuyết ...................... 16
1.3.1. Vài nét về cuộc đời Lê Lựu ........................................................... 16
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác ......................................................................... 18
1.3.3. Những đóng góp của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết
cho nền văn học đương đại Việt Nam ..................................................... 22
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới
2.1. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết ............................................................. 26
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người .......................................... …26
2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết ............................................................. 27
2.2. Phân loại nhân vật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới .............. 30
2.2.1. Nhân vật bi kịch ............................................................................. 31

2.2.1.1. Bi kịch do hoàn cảnh ............................................................... 31
2.2.1.2. Bi kịch do bản thân tự đánh mất mình ..................................... 42
2.2.2. Nhân vật tha hóa ............................................................................ 48

5


2.2.2.1. Tha hóa bởi căn bệnh duy ý chí, suy nghĩ lầm lạc .................. 48
2.2.2.2. Tha hóa bởi chủ nghĩa cơ hội, thực dụng ................................ 53
2.2.2.3. Tha hóa do giả dối, lừa lọc ...................................................... 61
2.2.3. Nhân vật lưỡng diện....................................................................... 64
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu
thời kỳ đổi mới ................................................................................................. 75
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình .................................................................... 75
3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm ......................................................................... 80
3.3. Xây dựng nhân vật trong mối quan hệ giữa hồn cảnh và tính cách nhân vật .. 89
3.4. Yếu tố tự truyện........................................................................................... 92
3.5. Giọng điệu trần thuật ................................................................................... 95
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 101

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau 1986 đất nước bước sang một thời kỳ mới, cuộc sống thay da đổi
thịt trên nhiều phương diện. Văn học là tấm gương phản chiếu chân thực xã
hội. Khơng nằm ngồi quy luật đó, nó cũng từng bước làm mới và thay đổi
bản thân. Các thế hệ nhà văn đã có những cách nhìn, cách tiếp cận hiện thực

và con người phong phú, đa dạng, nhiều chiều, nhiều phương diện chân thực
và toàn diện hơn.
Nhân vật là trọng tâm của tác phẩm. Nó là sự thể hiện chân xác và toàn
diện nhất bộ mặt của tác phẩm và bản chất, lý tưởng của thời đại. Thể loại
tiểu thuyết với tầm vóc và khả năng khái quát rộng lớn là mảnh đất màu mỡ
để nhà văn tái hiện cuộc sống và con người thời đại.
Cùng với các nhà văn lớn như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình
Phương, Hồ Anh Thái, Bảo Ninh, Chu Lai, Dương Hướng…thì Lê Lựu với
thể loại tiểu thuyết đã đưa ơng lên vị trí danh dự của những nhà văn xuất sắc
thời kỳ đổi mới. Là một nhà văn suốt đời hướng về con người, Lê Lựu đã gây
dựng nên một thế giới nhân vật phong phú, đa sắc màu. Từ những người lính
trở về sau chiến tranh khó khăn khi hịa nhập với cuộc sống đổi thay, đến
những người nơng dân còn lạc hậu bị ràng buộc với những quan niệm phi lý,
những con người tự đánh mất chính mình gây ra những bi kịch đau buồn đến
những con người tha hóa bởi lịng tham vật chất, chức quyền…Xót xa hơn là
những người phụ nữ ln khát khao tình u, hạnh phúc nhưng lại bị xã hội
đè nén và những con người do hoàn cảnh mà trở nên lừa lọc, giả dối…Tất cả
hiện lên chân thực từ tấm lòng chân thành, giàu tình thương u của Lê Lựu,
ơng khơng hề thương thay khóc mướn mà trải lịng mình dưới từng trang
sách. Suốt cuộc đời Lê Lựu “chỉ theo đuổi một nguyên tắc là Thật”, ông

7


“không thể viết được nếu không bám vào sự thật”. Đó chính là nét độc đáo
trong văn chương Lê Lựu.
Sự hấp dẫn của tiểu thuyết Lê Lựu và một thế giới nhân vật sinh động,
chân thực đã thôi thúc chúng tơi tìm hiểu đề tài: “Thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới”. Mặt khác, qua đây chúng tơi cũng muốn bày
tỏ tình cảm, sự kính trọng, ngưỡng mộ trước tài năng của một nhà văn tiêu

biểu của nền văn học đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong sự phát triển không ngừng của văn học đương đại, Lê Lựu ngày
càng khẳng định được vị trí chắc chắn của mình trong lịng độc giả và thu hút
sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình. Về vấn đề thế giới nhân vật trong
tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới đã có một vài nhà nghiên cứu quan tâm
nhưng chỉ mới dừng ở mức nhận định, khái quát. Sau đây chúng tôi xin đề
cập đến một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu:
Cuốn Lê Lựu tạp văn (2002) là một cơng trình tổng hợp những bài viết,
những bài phê bình văn học của Lê Lựu đối với các nhà văn, nghề văn. Đặc
biệt ở phần 4 cuốn sách đã tập hợp khá nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu,
phê bình về tác giả. Đó là Phong Vũ với “Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút
viết truyện ngắn”, là Lê Thành Nghị với “Thời xa vắng - một tâm sự nóng
bỏng”, tác giả Thiếu Mai “nghĩ về một “Thời xa vắng chưa xa””, Nguyễn
Hòa “Suy tư từ một “Thời xa vắng””, Nguyễn Ngọc Thiện nhấn mạnh đến
“khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - những tìm tịi và thể nghiệm”, Trần
Đăng Khoa tìm hiểu “Lê Lựu - chân dung văn học”… Khi tìm hiểu về vấn đề
xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu, Phan Vũ nhận định: “Lê Lựu có
ý thức rõ rệt trong việc tạo nên những cảnh ngộ, việc miêu tả cuộc đời, số
phận của mỗi nhân vật. Ở mỗi người anh muốn tìm hiểu khai thác và diễn tả
cả mặt nổi bên ngồi, lẫn mặt chìm bên trong. Điều đó ít nhiều làm cho các

8


nhân vật tiểu thuyết Mở rừng có dáng vẻ khác nhau” [23, tr.526]. Bài viết còn
khẳng định sở trường của Lê Lựu khi khắc họa những nhân vật người
lính:“anh dễ thành cơng khi miêu tả những người lính trẻ, nhất là những
người lính có gốc gác ở một vùng q. Loại nhân vật này anh rất thuộc, anh
thân thiết và tri kỉ” [23, tr.529].

Tìm hiểu tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Thiếu Mai đã khẳng
định tài năng xây dựng nhân vật của Lê Lựu:“Lê Lựu tỏ ra hiểu nhân vật của
mình đến chân tơ, kẽ tóc đến tận những ngọn ngành, sâu thẳm nhất của tình
cảm, suy nghĩ” [23, tr.577].
Lê Tất Cứ tìm hiểu về Lê Lựu và tiểu thuyết Ranh giới (1979) đã đặc
biệt nhấn mạnh đến ngịi bút xây dựng nhân vật của Lê Lựu thơng qua hình
tượng trung tâm của tác phẩm - nhân vật Ngân:“Điều đáng nói trước tiên trong
Ranh giới là tác giả đã không để cho các nhân vật mải miết chạy theo cốt truyện
làm mờ đi tính cách, mờ đi tư tưởng mà anh muốn truyền đến bạn đọc. Anh đã
lấy việc xây dựng một hệ thống tính cách để chuẩn bị cho quá trình phát triển
của cốt truyện” [23, tr.622]. Tác giả nhấn mạnh:“Ngòi bút Lê Lựu đã lách vào
một chỗ khó khăn của hiện thực tâm lý nhân vật” [23, tr.624].
Lê Hồng Lâm khi nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Lê
Lựu đã cho rằng: “Ông ln viết hết mình như ơng sống, u ghét rạch rịi và
đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách của nhân vật. Ở mức độ nào đó nhà văn
Lê Lựu đã tạo ra những nhân vật điển hình cho những hồn cảnh điển hình”
[23, tr.703]. Nhà phê bình Hồng Thái cũng có quan điểm tương tự khi tìm
hiểu tác phẩm Hai nhà:“tiểu thuyết Hai nhà đọc rất “vào” vì ngịi bút phân
tích tâm lý của Lê Lựu đạt đến trình độ lão luyện” [23, tr.717].
Cuốn Thời xa vắng - tiểu thuyết và phim (2004) tiếp cận tác phẩm Thời
xa vắng trên hai phương diện: phim và tiểu thuyết. Nhà nghiên cứu Văn học
Việt Nam Norico Kato trong bài “Về Thời xa vắng” đã khẳng định: “Thời xa

9


vắng là cuốn tiểu thuyết rất thành công trong việc miêu tả nội tâm của những cá
nhân đang phải gánh chịu những thương tổn và lo toan và là một cuốn tiểu thuyết
mà nền văn học mới đang tìm kiếm trong mớ hỗ độn của xã hội” [33, tr.355].
Trong công trình Tiểu thuyết đương đại (2005), Bùi Việt Thắng nhận

định đóng góp của Lê Lựu khi bàn về kiểu nhân vật bi kịch: “Từ sau 1975,
trong điều kiện mới cái bi kịch được vận dụng như một hình thức hữu hiệu để
tái hiện đời sống trong tồn bộ tính chất bi tráng của nó vốn là một đặc trưng
của lịch sử Việt Nam thời hiện đại. Nhà văn Lê Lựu là người đã thành công
trong nhiệm vụ xây dựng một kiểu nhân vật bi kịch mới của văn học - bi kịch
lạc quan” [39, tr.134] và“tác giả đã quan tâm đến số phận con người cụ thể:
phát hiện và miêu tả quá trình tâm lý phức tạp của con người thụ động, méo
mó và cơ hội tới con người chủ động, hồn thiện và trung thực là nhiệm vụ
chính mà tác giả đã thực hiện thành công một cách căn bản” [39, tr.187].
Những sáng tác của Lê Lựu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều luận văn tốt nghiệp Đại học và Sau đại học. Các cơng trình đã tiếp cận
Lê Lựu trên các bình diện như: khơng gian, thời gian, nghệ thuật trần thuật,
nghệ thuật tự sự…Có thể kể đến một số cơng trình sau:
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hiền “Tiểu thuyết Lê Lựu thời
kỳ đổi mới” (2002), (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) đã
tìm hiểu sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sơng và những nỗ lực hiện đại
hóa thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu. Luận văn đã làm nổi bật được cảm hứng
bi kịch và sự nhận thức lại hiện thực trong tiểu thuyết Lê Lựu qua bộ ba tác
phẩm trên.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Võ Thị Mỹ Hạnh “Nghệ thuật trần thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu” (2008), (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh) đã tiếp cận tiểu thuyết Lê Lựu trên phương diện nghệ thuật thông

10


qua việc tìm hiểu về người trần thuật, kết cấu lời văn trần thuật và giọng điệu
trần thuật. Từ đó thể hiện được sự sáng tạo nghệ thuật và đóng góp của tác giả
đối với nền văn học dân tộc.

Luận văn Thạc sỹ của tác giả Đào Thị Cúc “Không gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới” (2010), (Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tiếp cận nghệ
thuật tiểu thuyết Lê Lựu trên bình diện khơng gian, thời gian nghệ thuật. Luận
văn đã trình bày được những dạng thức, mơ hình của khơng gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết của Lê Lựu…Từ đó làm nổi bật nét đặc sắc nghệ
thuật tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới.
Ngồi ra cịn có thể kể đến một số cơng trình khác như: Nghệ thuật viết
tiểu thuyết Lê Lựu (2006) - luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Hồng Vân, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tư duy nghệ thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu (2013) - luận văn thạc sỹ Mai Thị Liên, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội…
Có thể nói, Lê Lựu và tiểu thuyết của ông thu hút nhiều luận văn
nghiên cứu ở các phương diện nội dung cũng như nghệ thuật. Nhưng vấn đề
mà chúng tơi đi sâu tìm hiểu thì chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
cụ thể và tồn diện.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về Lê Lựu đều có tiếng nói khá
thống nhất, khẳng định tài năng và tinh thần miệt mài lao động của nhà văn
trên con đường tìm tịi, sáng tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam thời
kỳ đổi mới. Tuy nhiên, vấn đề mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu là “thế giới
nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới” chỉ mới dừng lại ở mức
khái quát, sơ lược, thường thì tác giả chỉ kết hợp nhận xét trong những phê
bình, nghiên cứu chung về Lê Lựu. Vì vậy, trên cơ sở những cơng trình đã

11


nghiên cứu chúng tôi sẽ kế thừa, tiếp thu để hồn thành luận văn của mình với
mong mỏi khẳng định hơn nữa giá trị văn chương Lê Lựu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: là thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu
thời kỳ đổi mới trên các khía cạnh như: các kiểu nhân vật, tính cách, đặc điểm
nhân vật thể hiện trong tác phẩm và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Lê
Lựu.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung tìm hiểu 5 cuốn tiểu thuyết tiêu
biểu của Lê Lựu thời kỳ đổi mới. Đó là:
- Thời xa vắng (1986)
- Đại tá không biết đùa (1990)
- Chuyện làng cuội (1991)
- Sóng ở đáy sơng (1994)
- Hai nhà (2000)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Sử dụng phương pháp này để tiếp cận
trực tiếp với tác phẩm trên mọi phương diện, từ đó khái quát làm nổi bật vấn
đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: Cơng trình đi sâu tìm hiểu về thể
loại Tiểu thuyết. Từ đó làm nổi bật nét đặc sắc của Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ
đổi mới nói riêng và tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu tác giả và tác phẩm trong
sự đối chiếu với những tác giả và tác phẩm khác là hết sức cần thiết vì qua đó
sẽ làm nổi bật được nét riêng, nét độc đáo của đối tượng.
- Phương pháp phân tích: Trên cơ sở hai phương pháp trên chúng tôi
tiến hành phương pháp này để làm rõ vấn đề. Từ đó để khái quát, tổng hợp lại
những vấn đề đã nghiên cứu.

12


- Phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội: Văn học nói chung và tiểu
thuyết Lê Lựu nói riêng mang hơi thở chung của thời đại. Vì vậy tìm hiểu tiểu

thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới không thể khơng nói đến sự tất yếu phải đổi
thay, chuyển hướng của văn học nghệ thuật trong giai đoạn này. Sử dụng
phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội nhằm lý giải cơ sở thực tiễn và quá trình
chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm của Lê Lựu.
5. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã sử dụng những kiến thức về thi pháp học và tự sự học để
đi sâu phân tích sự mới mẻ trong quan niệm cũng như nghệ thuật tiểu thuyết
của Lê Lựu khi khắc họa nhân vật. Từ đó khẳng định tài năng và những đóng
góp của tác giả cho nền văn học dân tộc nói chung và văn học Việt Nam
đương đại nói riêng.
Với đề tài này, chúng tơi cũng mong muốn góp thêm tiếng nói, cách
tiếp cận về tác giả, tác phẩm và góp thêm một tài liệu cho việc học tập, nghiên
cứu và giảng dạy Lê Lựu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì phần
Nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời
kỳ đổi mới.

13


Chương 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢY
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Nền văn học Việt Nam là một nền văn học phong phú, đa dạng về thể
loại. So với các thể loại như thơ hay truyện ngắn thì tiểu thuyết phát triển

chậm hơn, tìm thấy hướng đi muộn hơn, nhưng những đóng góp của nó trong
thời kỳ này vẫn không thể phủ nhận.
Trong giai đoạn 1930 - 1945 qua những sáng tác của nhóm Tự lực văn
đồn và các nhà văn hiện thực chủ nghĩa, tiểu thuyết thực sự được quan tâm
và phát triển khá mạnh mẽ. Đến những năm 50 tiểu thuyết ngày càng khẳng
định vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.
Nền văn học sau cách mạng tháng Tám gắn bó mật thiết với vận mệnh
dân tộc. Nó hướng vào phục vụ những nhiệm vụ chính trị, theo sát những yêu
cầu của từng giai đoạn cách mạng nên văn học giai đoạn này là một nền văn
học mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nền văn học
hướng về đại chúng. Cùng với các thể loại khác, tiểu thuyết giai đoạn này góp
phần cổ vũ lịng u nước và tinh thần kháng chiến, ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, phản ánh được hiện thực lịch sử dân tộc, xây dựng nên
những nhân vật anh hùng cách mạng, kết tinh những phẩm chất của dân tộc
và tinh thần của thời đại.
Thời kỳ này văn học đã thốt khỏi cái nhìn bế tắc về con người để
hướng tới cái nhìn con người làm chủ vận mệnh đất nước, dân tộc và cả vận
mệnh của chính mình. Với quan niệm này con người được thể hiện chủ yếu
trong văn học là con người phơi phới lạc quan, dù gặp mn ngàn khó khăn
gian khổ nhưng cuối cùng nhất định chiến thắng. Đấy là những con người
ln ln qn mình về sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, quên mình

14


vì tập thể, là những con người đầy ý chí, nghị lực, đầy niềm tin với tấm lịng
vì tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Điểm lại những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết giai đoạn này, ta có
thể thấy rằng, với quy mơ rộng lớn của mình, tiểu thuyết thực sự đã phản ánh
chân thực bức tranh rộng lớn của hiện thực cuộc sống thơng qua những hình

tượng điển hình trong những hồn cảnh điển hình. Khác với giai đoạn đầu thế
kỷ XX, ở giai đoạn lịch sử hào hùng, mang âm hưởng và màu sắc sử thi này,
con người tập thể, con người lý tưởng được đề cao hơn bao giờ hết. Nền văn
học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết nói riêng dù sinh ra và lớn lên
trong khói lửa chiến tranh nhưng lại vô cùng hào hùng và rực rỡ. Những Sống
mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Đất nước đứng lên của Nguyên
Ngọc, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Hòn đất của Anh Đức, Bão biển
của Chu Văn, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu…thực sự đã tái
hiện thành công chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, thống nhất nước nhà.
Văn học thời kỳ này nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã xứng đáng
với sứ mệnh cao cả của một nền văn học cách mạng hướng về đại chúng nhân
dân, phục vụ chiến đấu và đã đóng góp được những thành tựu xuất sắc, góp
phần quan trọng cho sự phát triển văn học dân tộc trong thời đại mới. Tiểu
thuyết thời kỳ này đã ghi lại được những hình ảnh khơng thể phai mờ về một
thời kỳ lịch sử đầy gian lao, hy sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc ta.
Những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng
lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống dân tộc vừa
đậm nét thời đại hiện lên chân thực, sinh động trên từng trang văn, ngọn bút.
Những sáng tác của Nguyên Ngọc, Nguyên Hồng, Anh Đức, Nguyễn Khải,
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu…đã tạo nên những hình tượng đẹp đẽ
và có chiều sâu về người lính, bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ,… Hình

15


tượng nhân vật quần chúng, hình ảnh những người lao động mới, của mọi
tầng lớp nhân dân nổi lên với phẩm chất cơ bản là lòng yêu nước và căm thù
giặc. Sự phản ánh hiện thực ấy đã ghi nhận những nét đẹp của đất nước và
con người Việt Nam trong khói lửa chiến tranh. Đấy khơng phải là vẻ đẹp cổ

xưa hay ước lệ của thơ văn cổ, cũng khơng phải là vẻ đẹp đìu hiu đượm buồn
của thơ mới mà là vẻ đẹp hào sảng, khỏe khoắn của con người “rũ bùn đứng
dậy sáng lòa” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi).
Như vậy, văn học thời kỳ này đã vượt lên những mất mát đau thương,
gác lại những cảm xúc nỗi buồn cá nhân để hướng đến khí thế hào hùng, hăng
say đánh giặc, ngợi ca những thành tích, chiến công, những hành động tốt đẹp
của con người trong chiến đấu, trong lao động, hướng tới một cuộc sống mới
với con người mới, yêu mến chế độ, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng,
tin tưởng vào tương lai của đất nước. Nhưng một nền văn học chỉ hướng đến
cái chung, gạt đi cái riêng, ý thức cá nhân bị tan biến vào ý thức cộng đồng
nên đời sống thế sự và riêng tư ít được quan tâm, thể hiện. Mặt khác, vì coi
trọng việc phản ánh hiện thực trong phát triển cách mạng nên văn học thời kỳ
này khơng đủ để bao qt tồn bộ sự phong phú và phức tạp của đời sống.
Hơn thế nữa, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn hoàn toàn chi phối
về mặt đề tài và chủ đề của tác phẩm nên nó cũng hạn chế sự sáng tạo của
người cầm bút, làm nghèo đi khả năng và sức mạnh của hư cấu tưởng tượng,
hạn chế sự đa dạng của các thủ pháp nghệ thuật.
1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Đại thắng mùa xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng
đưa tới một chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Trong suốt những
năm tháng đấu tranh giành độc lập cho đất nước, nền văn học Việt Nam luôn
đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước thăng

16


trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo
của một giai đoạn văn học mới. Mặc dù giai đoạn văn học ấy cũng đang tiếp
diễn, nhưng đến những năm đầu thế kỷ XXI đã đặt ra một nhu cầu tự đổi mới,

người cầm bút cảm thấy không thể tiếp tục những lối viết như trước, mà cần
hướng đến một sự đổi thay.
Khi bước vào một giai đoạn lịch sử - xã hội mới, cả nước đứng trước
một yêu cầu “phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường”. Sự thay đổi ấy
đã tác động đến giới sáng tác. Cuối năm 1986, Đại hội Đảng lần tứ VI được
tiến hành, đánh dấu sự đổi mới của Đảng về tư duy, nhận thức, trước hết ở
quan niệm đề cao thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, phát
huy tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, chống sức ì và tính bảo
thủ của quan niệm cũ, mở ra một bối cảnh mới cho sự sáng tạo. Đảng khuyến
khích và u cầu văn nghệ sĩ cần có những thể nghiệm mạnh bạo và sáng tạo
nghệ thuật ở loại hình cũng như các hình thức biểu hiện. Nghị quyết 05 của
Bộ Chính trị (ngày 28.11.1987) yêu cầu: “Thực hiện chủ trương đổi mới của
Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra với quy mơ
và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các
nền văn hóa ngày càng mở rộng… nền văn hoá, văn nghệ nước ta cũng phải
đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”. Điều này đã tạo cho
người cầm bút sự tự tin và mạnh dạn hơn trong những tìm tịi, sáng tạo nghệ
thuật khi viết về đời sống, hiện thực, những tình huống, sự kiện xã hội.
Văn học thời kỳ này cũng thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy nghệ
thuật. Một hiện thực mới, một cơng chúng mới nên địi hỏi một cách viết,
cách nhìn nhận và phản ánh mới. Sự đổi mới của các nhà văn trở thành tất yếu
sống cịn của chính họ. Văn học thời kỳ này vì thế khơng chỉ đổi mới ở phạm
vi đề tài, mà còn đổi mới về tư duy nghệ thuật, về cảm hứng, cách viết… Giờ
đây, những người cầm bút hiểu rõ hơn ai hết sứ mệnh của văn chương đối với

17


cuộc sống. Thời kỳ đổi mới với những biến động phức tạp thực sự là mảnh đất lý
tưởng cho sự sáng tạo của tiểu thuyết: “Thời nay rộng cửa, gợi được rất nhiều

thứ để viết…cái hôm nay, cái ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ
với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất
phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ” (Nguyễn Khải) [41].
Trước hết có thể thấy rõ bước phát triển của văn học trên bình diện tư
duy nghệ thuật. Giờ đây văn chương không chỉ là sự ngợi ca, khâm phục mà
còn là sự phân tích, lý giải các hiện tượng của hiện thực. Nếu trước đây chủ
yếu cách nhìn đơn điệu, rạch rịi thiện ác, địch ta, cao cả, thấp hèn…thì giờ
đây cách nhìn nhiều chiều hơn, đa diện và phức tạp hơn. Với xu hướng nhìn
thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã dấn thân vào hiện thực, đi vào tiêu
điểm nóng hổi nhất của đời sống. Trong tác phẩm, họ đã ý thức cần phải bóc
trần thế giới, phơi bày sự thật. Nhiều cây bút đã nêu ra những mặt trái cịn bị
che khuất, lên án những lực lượng, những thói quen, nếp sống, cách hành xử
lạc hậu lỗi thời, làm cản trở quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của con
người cũng như sự phát triển của xã hội. Những tác phẩm Thời xa vắng, Hai
nhà (Lê Lựu), Đám cưới khơng có giấy giá thú, Ngược dịng nước lũ (Ma Văn
Kháng), Một cõi nhân gian bé tý (Nguyễn Khải), Đi về nơi hoang dã (Nhật
Tuấn), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Thiên sứ (Phạm Thị
Hồi), Trả giá, Sóng lừng, Cõi mê (Triệu Xuân), Chim én bay (Nguyễn Trí
Huân), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng),
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ăn mày dĩ vãng, Phố,
Cuộc đời dài lắm (Chu Lai)…là những minh chứng tiêu biểu, đóng góp
khơng nhỏ vào sự đổi mới của tiểu thuyết thời kỳ này.
Các thế hệ nhà văn thời kỳ này ngày càng ý thức về sự đổi mới trong
sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, và cuối cùng họ đã để lại cho nền văn
học dân tộc những trang tiểu thuyết theo đúng nghĩa của nó, góp phần làm

18


cho diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa dạng hơn, đồng thời tiếng nói về

cuộc đời và con người trong tiểu thuyết cũng giàu sắc điệu và đa nghĩa hơn:
Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn (Nguyễn Bình
Phương), Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Cõi người rung
chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Cơ hội của chúa, Khải
huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy
Anh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Tường thành (Võ Thị Xuân Hà), Ngụ cư
(Thuỳ Dương), Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế Hồng Linh), Bóng của
cây sồi (Đỗ Bích Thuý), Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ (Nguyễn Ngọc
Thuần), Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai)…
Nếu như trước đây các nhà tiểu thuyết hướng tới những bức tranh hiện
thực hồnh tráng thì giờ đây họ “trở về xem xét con người Việt Nam một cách
sáng tỏ và để đào xới vào nó sâu hơn” [3, tr.2], họ nhận thấy rằng cần phải
viết về cái gì đó của con người, cho con người. Đất nước chuyển sang giai
đoạn mới, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi thay. Con người trong tổng hoà
của những mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp hơn. Không phải ngẫu nhiên
mà đề tài thế sự, đời tư nổi lên như một vấn đề trung tâm của mọi “nỗ lực
sáng tạo” trong tiểu thuyết đương đại. Phan Cự Đệ cũng đã từng nhận định:
“Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lý bên trong, để cho nhân vật soi bóng vào
nhau hoặc tự khám phá mình như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã
qua…Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như một sự tự phán
xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện” [10, tr. 153]. Sự
đổi mới trong nhận thức của nhà văn thực sự đã mang đến cho văn học một
cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc khi viết về con người. Con người với đầy
đủ các phẩm chất, bản năng, ý thức, phần con, phần người, từ con người tập
thể mang tính cộng đồng chuyển sang con người cá thể đời thường với những
mâu thuẫn phức tạp, con người bi kịch, con người sám hối, con người thức

19



tỉnh, con người nhận đường, con người suy tư dằn vặt, con người cô đơn, cay
đắng, con người anh hùng, con người hèn hạ... đã đi vào văn chương một cách
chân thực, nhân bản, giàu tính hướng thiện, được soi rọi dưới cái nhìn đa diện
nhiều chiều. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những
bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo, qua
giọng điệu phê phán, tự vấn. Những mặt trái của đời sống, sự tha hóa về nhân
cách, những số phận bi kịch, những nỗi đau khắc khoải, những mất mát tổn
thương…được đặc tả vô cùng chân thực trên từng trang viết. Vẫn là những
người lính, người mẹ, người vợ, nghệ sĩ, trí thức, nơng dân... nhưng giờ đây
họ được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau, được đặt vào trong nhiều vòng
quay của cuộc đời, kể cả những vịng xốy nghiệt ngã nhất với đầy đủ các sắc
màu, các cực đối lập: nhân tính và phi nhân tính, đạo lý và thất đức, bản ngã
và phi bản ngã... và cũng không né tránh những mặt khuất lấp của cuộc đời,
kể cả “góc tăm tối cuối cùng”. Giờ đây con người khơng phải sống vì cộng
đồng, xả thân vì nghĩa lớn, con người quen sống với đám đơng, ít đối diện với
bản thân mà là con người với tư cách cá nhân, sống với nội tâm và suy nghĩ
của chính mình, con người với thế giới bên trong đầy bí ẩn và phức tạp. Số
phận con người bình thường với những bi kịch của cuộc đời hiện lên chân
thực, đa dạng. Đó là bi kịch giữa khát vọng và thực trạng, giữ cái muốn vươn
lên và cái kìm hãm, giữa thanh lọc và tha hóa, giữa nhân bản và phi nhân bản.
Tiểu thuyết thời kỳ này không chỉ đi sâu vào thân phận con người qua
cách nhìn nhận con người như một cá thể bình thường trong những mơi
trường đời sống bình thường mà cịn đề cập tới khát vọng về đời sống, về
hạnh phúc cá nhân, tình u đơi lứa. Các tác giả đã khai thác con người tự
nhiên trước nhu cầu của hạnh phúc đời thường, của cuộc sống riêng tư.
Những tác phẩm của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Nguyễn Khắc
Trường, Dương Hướng…đã thể hiện được sự gắn bó giữa sự nghiệp chung và

20



hạnh phúc riêng, giữa con người cá nhân và con người xã hội. Việc đi sâu vào
thế giới tinh thần của con người, vào quá trình tự ý thức của nó đã góp phần
củng cố thêm sự hình thành con người cá nhân trong xã hội, làm cho văn học
thời kỳ này đứng cao hơn văn học trước cách mạng, khi mà ở đó vấn đề tự do
cá nhân chủ yếu chỉ mới đặt ra trong phạm vi tự do tình cảm của con người.
Tiểu thuyết sau đổi mới vì vậy đã quan niệm con người cá nhân như “một
nhân cách, một nhân cách kiểu mới”. Con người với sự hòa hợp giữa con
người tự nhiên, con người tâm linh và con người xã hội. Con người đó vừa
đời thường, trần thế vừa đẹp đẽ, thánh thiện, luôn khao khát và hướng tới cái
đẹp. Đó chính là nét nổi bật mang đậm tính nhân văn của tiểu thuyết thời kỳ
này khi nhìn nhận về con người.
Sự đổi mới về tư duy, quan niệm nghệ thuật về con người kéo theo sự
đổi mới về phong cách và ý thức nghệ thuật. Văn học thời kỳ này đã xuất hiện
một số cây bút mới với lối viết thực sự khác trước. Sự biến đổi của ý thức
nghệ thuật đang chuyển từ quan niệm về văn học như hình thức giáo dục
tuyên truyền sang quan niệm văn học như hoạt động sáng tạo, nhận thức và
tác động vào cuộc sống. Vào những năm 30 của thế kỷ XX sự xuất hiện của
các tác phẩm với tên tuổi của Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng
Phụng…đã tái hiện bức tranh đa dạng về hiện thực xã hội, giúp độc giả hiểu
thêm về con người và những cảnh sống xung quanh. Đến giai đoạn 1945 1975 do yêu cầu của cuộc kháng chiến, văn học lại chuyển hướng sang hoạt
động tuyên truyền chính trị, giáo dục, tư tưởng, động viên cổ vũ quần chúng.
Mãi đến thời kỳ đổi mới sáng tác văn học với hoạt động nhận thức và tự nhận
thức mới thực sự phát triển. Người đọc có thể tiếp cận hình tượng từ nhiều
phía, có thể rút ra những kết luận khác nhau từ một tác phẩm.
Bên cạnh tính đa nghĩa của hình tượng và sự phong phú về chủ đề,
giọng điệu của tác phẩm cũng được viết theo lối mới. Không còn là chất

21



giọng ngợi ca, khâm phục, mang tính răn dạy mà là một thứ giọng kể có vẻ
khơng nghiêm túc, thậm chí như đùa giỡn, vừa coi điều mình kể là thành thực,
vừa coi nó như chẳng có gì quan trọng. Chính điều này đã làm tăng sự phong
phú, lơi cuốn, hấp dẫn của giọng kể. Cách kể chuyện như thế chỉ có thể có
được trên cơ sở của một quan niệm mới về văn học, quan niệm xem văn học
như một hoạt động sáng tạo, một kiểu ứng xử, một kiểu quan hệ của con
người đối với thế giới.
Như vậy, văn học thời kỳ này nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã
thực sự được cởi trói, chủ đề, đề tài được mở rộng, khơng bị gị ép trong
khn khổ hay giới hạn. Văn học tìm về với con người đời thường, con người
cá nhân nhưng vẫn “mới”, vẫn đầy sáng tạo. Văn học được trả lại thiên chức
của mình trong việc phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh
trong mỗi tác phẩm, trong từng tác giả.
1.3. Lê Lựu - nhà văn đạt nhiều thành tựu từ thể loại tiểu thuyết
1.3.1. Vài nét về cuộc đời Lê Lựu
Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942 tại xã Tân Châu,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông là thành viên của Hội nhà văn Việt
Nam từ năm 1974, chuyên về tiểu thuyết và truyện ngắn. Hiện nay, ông đang
đảm nhiệm chức Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tại Hà Nội.
Lê Lựu trưởng thành giữa lúc: “Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa
mượt đồng ấm áp làng quê” (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu). Tất cả
những niềm vui, nỗi buồn của làng quê thời kỳ ấy ông đều chứng kiến. Vốn là
một người nông dân mặc áo lính, ơng ln nghĩ về q hương, gần gũi với
người nơng dân và nơng thơn, nên ơng xem nó là cội nguồn, là quê hương văn
học của mình từ khi bắt đầu cầm bút cho đến tận bây giờ.
Sau khi rời ghế nhà trường bước vào quân đội từ những năm sáu mươi,
Lê Lựu lao vào công việc, sống và tìm hiểu cuộc sống quân đội. Cảm hứng về

22



sự thay đổi của miền Bắc đã thôi thúc ông cầm bút ghi lại những điều mình
thích, nói lên những điều mình muốn nói với mọi người. Sau này càng đi
nhiều, ơng càng được mở rộng tầm mắt và có thêm nhiều mảng đề tài mới.
Sau chiến tranh, ông trở về làm ở tịa soạn tạp chí Văn nghệ qn đội
trong nhiều năm. Lúc làm biên tập, khi đi sáng tác, với quân hàm đại tá, là
một sỹ quan của làng văn nhưng ơng vẫn ln là người lính binh nhì trong đời
thường, vừa chân chất, thật thà, vừa xuề xòa, cởi mở…Với một lòng say mê
sống và viết, Lê Lựu lần lượt cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị và từng
bước khẳng định vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.
Cuộc đời Lê Lựu gặp nhiều bất hạnh, ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm”,
ông đang mang trong mình rất nhiều thứ bệnh. Hàng ngày ông uống thuốc
nhiều hơn ăn cơm, coi bệnh viện gần như là nhà của mình. Khơng chỉ mang
trong mình nhiều căn bệnh quái ác mà đời sống tinh thần của ông cũng mang
nhiều nỗi buồn. Cuộc sống gia đình không trọn vẹn, hạnh phúc. Ơng có hai
người vợ, người vợ đầu là mối tình sắp đặt từ phía gia đình ở Hưng Yên.
Cuộc hôn nhân không như ông mong muốn và hai người đã chia tay từ 40
năm trước. Sau đó, ơng lên Hà Nội, người vợ cũ ở q đã âm thầm chuyển tên
mảnh đất hương hỏa của tổ tiên sang tên mình. Chính ơng đã ví rằng, người
vợ cũ này giống như cô Tuyết - vợ đầu của Giang Minh Sài trong tác phẩm
Thời xa vắng viết năm 1986. Tuy nhiên “thời xa vắng” của Lê Lựu còn xót xa
hơn Giang Minh Sài. Người vợ thứ hai của ông có hai người con, một trai,
một gái. Nhưng cuộc hôn nhân thứ hai này cũng kết thúc trong đau buồn. Giờ
đây, tuổi cao sức yếu nhưng ông vẫn phải tá túc ở trụ sở của trung tâm Văn
hóa doanh nhân, nơi ông sáng lập và làm lãnh đạo nhiều năm liền. Hơn 70
năm cuộc đời, với hai đời vợ và ba người con, giờ đây ông phải cậy nhờ vào
những người khơng phải là ruột thịt của mình.

23



Với hơn 50 năm cầm bút, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm, hầu hết
những nhân vật ông viết đều có sự bất trắc, vất vả trên con đường tìm đến
hạnh phúc của mình. Một Giang Minh Sài trong Thời xa vắng với những đấu
tranh cho hạnh phúc riêng, nhưng cũng không đến được với Hương - người
mà Sài yêu hết mực, cuối cùng cả cuộc đời lại phải chịu thất bại trong hạnh
phúc gia đình. Một Núi trong Sóng ở đáy sơng bị cha đẻ ghẻ lạnh từ nhỏ, cuộc
đời lận đận, cuối cùng phải buông xuôi, trượt dài trên con đường tội lỗi, ra tù
vào tội, vất vả mưu sinh. Là Tâm trong Hai nhà chân thật, hiền lành, thương
yêu vợ con nhưng hết lần này đến lần khác bị vợ phản bội, để cuối cùng cay
đắng nhận tin rằng những đứa con anh thương yêu là con của kẻ khác…
Những nỗi buồn, những niềm đau trong cuộc sống khiến Lê Lựu tìm
đến văn chương như một cứu cánh, như món ăn tinh thần khơng thể thiếu.
Càng đau ông càng cố viết, càng viết ông càng khiến người đọc thấm thía hơn
về cuộc đời với mn mặt của nó. Với Lê Lựu văn thực sự là đời, là người.
Ơng đã sống và viết hết mình, cống hiến không mệt mỏi cho văn chương, cho
nghệ thuật.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
Trước khi trở thành nhà tiểu thuyết gặt hái nhiều thành cơng thì Lê Lựu
là một cây bút truyện ngắn. Là một nhà văn trực tiếp đứng trong hàng ngũ của
những anh lính Cụ Hồ, nếm trải bao nhiêu đắng cay của cuộc chiến tranh nên
ông thấu hiểu những mất mát của con người sau chiến tranh. Tác phẩm của Lê
Lựu ln trăn trở về tình đời, tình người.
Khởi nghiệp từ thể loại truyện ngắn, Lê Lựu để lại một số tác phẩm có
giá trị. Năm 1964 ơng trình làng tác phẩm mang tên Tết làng Mụa, sau đó
hàng loạt tác phẩm khác ra đời, như Trong làng nhỏ, Người cầm súng phía
mặt trời, Truyện kể từ đêm trước…và đến Người về đồng cói thì Lê Lựu thực
sự trở thành một cây bút viết văn kỳ cựu. Đây là một tác phẩm xuất sắc trong


24


thời kỳ chống Mỹ, nó mang dáng dấp và hơi hướng tiểu thuyết. Phải chăng
tác phẩm này đã trở thành bước đệm cho Lê Lựu thành công hơn ở thể loại
tiểu thuyết sau này.
Lê Lựu viết chậm, mỗi ngày vẻn vẻn vài trang, nhưng tác phẩm của
ơng vẫn rất có sức hút: “sáng tác của Lê Lựu đã đem đến cho người đọc một
khơng khí khác, tốt ra từ chất liệu của đời, từ hiện thực khách quan. Anh
không giải bày mà để cho sự sống giãi bày. Anh không biểu hiện mà để cho
cuộc sống tự kể. Tuy quá trình vào nghề của anh có chậm nhưng người đọc
thấy rõ bước đi của anh khơng có những hụt hẫng, với cái nguy cơ đơn điệu,
tự lặp lại mình” [40, tr.110]. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên ông ra đời vào năm
1975, có tên là Mở rừng. Qua tác phẩm này, Lê Lựu như muốn phô bày,
muốn diễn tả và cắt nghĩa những vấn đề có ý nghĩa triết lý về chiến tranh, về
con người Việt Nam trong những năm chống Mỹ ở nhiều lớp người, nhiều
cảnh sống…Qua đây tác giả đã tái hiện cuộc sống với muôn vẻ đa dạng và
phức tạp như chính cuộc sống vốn có, như chính con người thường có. Giữa
cái anh hùng với cái thấp hèn, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái hài và cái
bi…dường như luôn đan xen và đấu tranh với nhau. Con người phải luôn
không ngừng đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh, vươn tới lý tưởng, để giải
quyết những mặt nan giải trong cuộc đời. Có thể coi đây là cuốn tiểu thuyết
vào loại khá của văn học Việt Nam những năm 70. Tuy nhiên, do một số lý
do nên nó khơng được người đọc hưởng ứng và giới phê bình quan tâm.
Sau tiểu thuyết Mở rừng thì Ranh giới (1979) là một cố gắng mới của
Lê Lựu. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện lực lượng an ninh cách mạng tiếp
tục truy bắt bọn tình báo CIA, bọn tướng tá ngụy đang âm mưu vượt đường
biển trốn ra nước ngoài mang những tài liệu về quân sự, kinh tế mà chúng thu
thập được ở Việt Nam. Chúng đang tìm mọi cách chống phá cách mạng sau
ngày miền Nam hoàn tồn giải phóng. Với tác phẩm này, Lê Lựu đã phản ánh


25


×