Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

(Luận văn thạc sĩ) huyền thoại trong tiểu thuyết quà của chúa của dorota terakowska luận văn ths văn học 60 22 30

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.05 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HƢỜNG

HUYỀN THOẠI TRONG QUÀ CỦA CHÚA
CỦA DOROTA TERAKOWSKA

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HƢỜNG

HUYỀN THOẠI TRONG QUÀ CỦA CHÚA
CỦA DOROTA TERAKOWSKA

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nƣớc ngoài
Mã số: 60 22 30

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Thuỷ

Hà Nội - 2013



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 5
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 8
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu.................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 12
6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 12
CHƢƠNG 1: ADAM, EWA VÀ MÓN QUÀ CỦA CHÚA ............................. 13
1.1. Adam......................................................................................................... 14
1.2. Ewa ........................................................................................................... 20
1.3. Myszka – Món quà của Chúa ................................................................... 25
CHƢƠNG 2: THỜI GIAN VÀ NHỮNG SONG CHIẾU HUYỀN THOẠI .. 31
2.1. Thời gian tuần hoàn và tiếp nối................................................................... 31
2.2. Những song chiếu huyền thoại qua lăng kính thời gian ........................... 37
2.2.1.Sự đan cài câu chuyện sáng tạo của Chúa vào diễn biến cốt truyện ..... 37
2.2.2.Những song chiếu huyền thoại.................................................................. 39
2.2.3.Diễn giải huyền thoại qua từng chương ................................................... 43
CHƢƠNG 3: KHƠNG GIAN QUA NHỮNG BIỂU TƢỢNG ....................... 51
3.1. Trục khơng gian cao – thấp, trên - dưới ...................................................... 51
3.1.1. Không gian dưới nhà ................................................................................ 51
1


3.1.2. Khơng gian phịng áp mái ........................................................................ 56
3.2. Thế giới “thực” và thế giới “mơ” ................................................................ 64
3.3. Một số biểu tượng khác ............................................................................... 69
3.3.1. Nước .......................................................................................................... 69
3.3.2. Đất ............................................................................................................. 69

3.3.3. Ánh sáng .................................................................................................... 70
3.3.4. Vườn .......................................................................................................... 70
3.3.5. Táo ............................................................................................................. 71
3.3.6. Cây ............................................................................................................. 71
3.3.7. Ngày thứ tám……………………………………………………..……………...74

PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 76

2


MỞ ĐẦU
Dorota Terakowska là một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của nền văn học
Ba Lan đương đại. Sinh ngày 30 tháng 8 năm 1938 tại Krakow, tốt nghiệp Khoa
Xã hội học Đại học Tổng hợp Jagielonski Krakow, Terakowska nhiều năm là biên
tập viên của báo Gazeta Krakowska, tạp chí Przekrój, là người đồng sáng lập báo
Czas Krakowski. Những tác phẩm văn học chính của bà: Con gái của những mụ
phù thủy (được đưa vào Danh sách những cuốn sách hay toàn thế giới – Jan
Christian Andersen, Giải thưởng của Ủy ban Ba Lan Hội đồng thế giới sách IBBY
1992), Chúa tể Lewaw (được xếp vào danh sách 10 cuốn sách vàng những năm 80
dành cho trẻ em, là sách đọc cho lớp VI), Tấm gương Ngài Gryms (best-seller,
được tặng giải thưởng Maly Dong, trong cuộc thi Best-seller 1995), Nỗi cô đơn
của các thần linh (được công nhận là “cuốn sách của năm 1998”, Giải thưởng Ủy
ban Ba Lan IBBY, Giải thưởng của tạp chí Sách mới xuất bản), Nơi thiên thần
Giáng thế (“Cuốn sách hay nhất 1999”, Giải thưởng của Ủy ban Ba Lan IBBY),
Con nhộng (best-seller năm 2001), ở Xứ Mèo, Chuyến du ngoạn điên rồ của bà
Brygida trong thành Krakow, Gia đình, Con người là một địa chỉ tốt, Ngày và đêm
của mụ phù thủy… Trong các tác phẩm văn học của mình, Terakowska thường đề
cập tới những vấn đề hóc búa của con người và cuộc sống hiện đại, những thân

phận trớ trêu, cuộc đời của những người bị ruồng bỏ, ốm yếu, tật nguyền. Bà dồn
nhiều tâm huyết cho mảng đề tài thanh thiếu niên. Năm 2002, bà được tặng Giải
thưởng của Tổng thống Cộng hòa Ba Lan về sự nghiệp sáng tác và hoạt động nghệ
thuật dành cho thanh thiếu niên.
Ở Việt Nam, độc giả biết đến tên tuổi của Dorota Terakowska qua hai tiểu
thuyết Hoang thai và Quà của Chúa do dịch giả Lê Bá Thự dịch. Hoang thai ra đời
năm 2001, kể về cơ gái mới lớn có tên là Ewa sống tại thị trấn nghèo Bulgaria. Cô
khao khát được lên thành phố lớn sinh sống, thoát khỏi cảnh nghèo khổ nơi tỉnh lẻ,
mơ về một mối tình có thể đổi đời như trong phim Mỹ. Nhưng vì nhẹ dạ cả tin,
Ewa đã bị cưỡng dâm đến mức có thai. Dù phải đối mặt với biến cố lớn trong đời
3


nhưng điều đó khơng đặt dấu chấm hết cho tất cả mà đối với Ewa, đó lại là sự mở
đầu. Với cô, thai nhi như trang nhật ký sống động, là lương tâm, mục đích sống
của cơ. Tiểu thuyết có nhiều yếu tố bất ngờ, gay cấn, đa chiều, đề cập đến những
vấn đề gần gũi với đời sống đồng thời cũng chỉ ra những bất cập, những bức xúc
của cuộc sống hiện đại và kinh tế thị trường vốn vẫn còn mới mẻ với người Ba
Lan. Đặc biệt, Hoang thai cịn là bức thơng điệp dành riêng cho các bạn trẻ, nhất là
phái nữ ở tuổi mười tám, đôi mươi, cần nhìn nhận thế giới một cách tích cực, phải
thực tế, không nên viển vông, ảo tưởng để tránh phải trả giá khôn lường. Mặt khác,
bản thân mỗi người cũng phải biết đương đầu, đối mặt với những “sự cố” trong
đời. Hoang thai được tặng giải thưởng Witryna 2003, do các nhà sách và các nhà
xuất bản bình chọn, giành danh hiệu cuốn sách số một trong năm thuộc loại sự kiện
xuất bản.
Tiếp nối thành công của tiểu thuyết Hoang thai, năm 2009, Quà của Chúa
tiếp tục được ấn hành và nhanh chóng được nhiều bạn đọc Việt Nam tìm đọc, mến
mộ.
Quà của Chúa là cuốn tiểu thuyết hiện đại kể về bé Myszka bị thiểu năng
tuần hoàn não. Myszka được sinh ra trong một gia đình hồn hảo với một người

cha Adam thành đạt, giỏi làm ăn, lắm tham vọng và một người mẹ Ewa biết chăm
lo, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Sự ra đời của em đã làm cuộc sống vốn bình
yên của hai vợ chồng Adam và Ewa bị đảo lộn. Tám năm Myszka tồn tại trên thế
gian là tám năm em sống trong sự thiếu thốn tình thương của người cha và sự dị
xét của những ánh nhìn thiếu thiện cảm. Cuối truyện, Adam nhận ra lỗi lầm của
mình, nhưng lúc anh biết yêu thương con cũng là giây phút Myszka phải rời xa
cuộc sống. Như một sự bù đắp lại, Adam và Ewa có thêm một em bé gái thứ hai
hồn hảo, xinh đẹp như hai người thầm mong muốn.
Nhiều bạn đọc Ba Lan cho rằng Quà của Chúa là một trong những cuốn tiểu
thuyết hay nhất, được họ thích nhất trong thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI. Một số người còn cho đây là một kiệt tác văn chương. Có một điều chắc
4


chắn, ngay sau khi ấn hành, Quà của Chúa đã trở thành tiểu thuyết best-seller hàng
đầu và từ năm 2001 đến nay, cuốn sách đã liên tục được tái bản với số lượng bản
in rất lớn, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Quả khơng q khi nói rằng,
Dorota Terakowska chính là Joanne Rowling của xứ sở “sương trắng nắng tràn”.
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đất nước Ba Lan với diện tích tương đương Việt Nam và số dân khoảng 40
triệu người nhưng đã có tới bốn giải Nobel văn học gắn liền với tên tuổi của các
nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Henryk Sienkiewicz (Nobel 1905), Wladyslaw
Reymont (Nobel 1924), Czeslaw Milosz (Nobel 1980), Wislawa Szymborska
(Nobel 1996).
Tuy nhiên cho đến nay, bạn đọc nước ta vẫn cịn ít biết đến nền văn học này,
ngồi một số ít các tác phẩm kinh điển đã được dịch ra tiếng Việt như Quo Vadis
và Trên sa mạc và trong rừng thẳm (H. Sienkievicz), Thầy lang (Tadeusz Dolega
Mostowicz), Con hủi (Helena Mniszek), Pharaon (Boleslaw Prus)… hay gần đây
hơn là Thơ (Szymborska), Nghệ sĩ dương cầm (Władysław Szpilman) - một tác
phẩm được chuyển thể thành bộ phim cùng tên đã mang lại giải Oscar cho đạo diễn

Ba Lan Polanski năm 2003.
Có lẽ vì thế, trong những năm gần đây, các dịch giả Việt Nam đã quan tâm
nhiều hơn tới nền văn học đỉnh cao này bằng cách giới thiệu nhiều tác phẩm văn
học Ba Lan đương đại tới độc giả với mong muốn bạn đọc Việt Nam có thể hiểu
thêm về cuộc sống và con người Ba Lan ngày hôm nay, qua đó nối nhịp cầu văn
hóa giữa hai dân tộc, hai đất nước vốn đã có quan hệ ngoại giao tốt đẹp. Có thể
nói, đề tài của chúng tơi là một thể nghiệm nhằm khám phá văn học Ba Lan đương
đại thông qua cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của cây bút nữ Dorota Terakowska.
1.2. “Quà của Chúa” là cuốn sách đầu tiên trên thế giới viết về bệnh đao hấp dẫn
như vậy, cũng là một trong những cuốn tiểu thuyết được đánh giá hay nhất của
thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Thêm vào đó, việc chọn kiểu nhân vật bị
đao và viết về họ đã khẳng định sự sáng tạo, bước đi riêng của nhà văn Dorota
5


Terakowska. Dẫu đây là một loại đề tài khó viết, song với tri thức uyên thâm, lối
quan sát và cảm nhận tinh tế, nhà văn đã khai thác rất hiệu quả nét đẹp tâm hồn ẩn
giấu bên trong của nhân vật bằng văn phong mượt mà, gợi cảm, bút pháp trữ tình,
hư thực đan xen, kịch tính cao khiến người đọc bị cuốn hút từ đầu đến cuối.
Tác phẩm được xây dựng nhằm chứng tỏ khát vọng của con người muốn
vươn lên làm chủ số phận và thế giới của mình. Tuy chưa thành hiện thực, nhưng
khát vọng này vẫn tồn tại, vẫn cháy bỏng. Cuốn tiểu thuyết đầy tính nhân văn cao
đẹp gây xúc động lòng người, khơi gợi niềm hứng thú thâm nhập sâu hơn vào thế
giới nghệ thuật và cắt nghĩa thông điệp của nhà văn.
1.3. Sự xâm nhập của huyền thoại vào trong các tác phẩm văn học từ lâu đã trở
thành dòng chảy bất tận với bao biến chuyển không ngừng. Từ thế kỷ XX, huyền
thoại lại bước vào văn chương với một tư thế mới, người ta bắt đầu khoác lên văn
chương những huyền thoại mới mang đậm ý nghĩa mới mà con người hôm nay
muốn gửi gắm.
Là tiểu thuyết hiện đại, Quà của Chúa ẩn chứa “hàm lượng ma thuật” khá

cao, nhiều chương đoạn mang đậm màu sắc Thiên chúa giáo. Tác phẩm đưa người
đọc vào thế giới huyền ảo, hư hư, thực thực, khi trần thế, lúc thiên đường, khi vườn
nhà, lúc vườn địa đàng, nơi con người được trò chuyện với Đức Chúa Trời. Nhờ có
huyền thoại, người đọc nhận ra vẻ đẹp của tâm hồn, của thế giới mơ ước vượt lên
cái hiện thực trần gian, cái thân thể tật nguyền trong cơ bé tội nghiệp Myszka, từ
đó hướng người đọc tới cuộc sống cao thượng, trong sáng và nhân hậu hơn. Đề tài
khai thác những đặc điểm và ý nghĩa của các yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết
nhằm nhận biết sâu sắc hơn về những giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Quà của Chúa là tác phẩm mới được dịch cách đây không lâu (năm 2009)
nên nguồn tài liệu nghiên cứu về tác phẩm cịn rất hạn chế. Rải rác đây đó có một
vài nhận định chủ yếu giới thuyết về nội dung tác phẩm mà chưa có bất cứ cơng
trình nghiên cứu cơng phu, tỉ mỉ về các khía cạnh nghệ thuật của tiểu thuyết.
6


Nhận xét về giá trị cao đẹp mà tác phẩm đem lại cho người đọc, N.V.N trên
báo Sài Gòn tiếp thị đã viết: Quà của Chúa là “một cuốn sách đẹp và có sức mạnh
xoa dịu chứ khơng mang đến một liều thuốc an thần để chúng ta lãng quên hay trốn
tránh những nghịch cảnh”.[19]
Đứng trên bình diện đề tài tiểu thuyết, nhà thơ Vân Long trên báo Sức khoẻ
và đời sống khẳng định: “Có thể nói bà Dorota Terakowska là nhà văn nữ của thế
giới đã khai thác đến độ sâu nhất tâm lí và tấm lịng người mẹ qua những hoàn
cảnh hết sức nhạy cảm và cá biệt như cuốn sách này”.[20]
Đánh giá về những đóng góp to lớn mà tác phẩm mang lại cho người đọc,
nhà văn Vân Đình Hùng đưa ra nhận xét: “Cốt truyện Quà của Chúa được nữ văn
sĩ Ba Lan Dorota Terakowska kể lại với văn phong riêng, đầy nữ tính và nhân văn.
Cách nhìn cuộc sống đời thường qua lăng kính của bà thật khác thường, nhân vật
trong truyện của bà cũng thật khác thường… Quà của Chúa của Dorota
Terakowska và những tác phẩm dịch khác của Lê Bá Thự đem đến cho người đọc

trong nước những khám phá thú vị về đất nước Đại Bàng Trắng và nền văn học Ba
Lan đương đại”.
Theo một cách rất riêng, nhà thơ Văn Đắc cũng đã bảy tỏ niềm xúc động
trào dâng sau khi gấp lại cuốn tiểu thuyết: “Tơi có cảm giác, đó là các chương của
một trường ca về khát vọng sống của con người. Lời ca về sự nhiệm màu của tạo
hóa, lời tụng kinh Đấng Cứu Thế, lời vỗ về của Chúa, “sức mạnh và sự vĩ đại của
Chúa được phản ánh trong con người tật nguyền”. Có thể nói, những trang viết khó
nhất và cũng cao siêu nhất chính là tác giả đã tưởng tượng ra một thế giới khát
khao đầy mơ mộng của đứa bé tật nguyền. Dịch giả Lê Bá Thự thật sự giàu vốn từ
ngữ để dịch rõ ý, rõ tình. Nhiều chương đoạn như những bài thơ văn xuôi thuần
Việt… Tôi dừng bút, thở nhẹ nhàng theo làn gió trong vườn – Quà của Chúa, mà
nhà văn – dịch giả Lê Bá Thự đã tìm đến và mở ra cho chúng ta”.[21]
Riêng bản thân dịch giả Lê Bá Thự, khi được phóng viên báo điện tử Tổ
quốc – Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch hỏi lý do vì sao lựa chọn dịch tiểu thuyết
Q của Chúa, ơng đã trả lời thẳng thắn: “Vì đây là tác phẩm tơi thích, tơi thích vì
7


tơi thấy nó độc đáo, nó độc đáo vì đề tài lạ và khó viết, khó viết mà viết rất hay, rất
hay vì miêu tả nội tâm nhân vật và khai thác cái đẹp ẩn giấu bên trong cái bề ngồi
rất tài tình, tài tình đến độ làm chúng ta xúc động trào nước mắt, ngạc nhiên và
khâm phục”. [22]
Để đánh giá chính xác giá trị của dịch phẩm và công lao của người dịch, Ban
Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đã tặng bằng khen cho tác phẩm dịch Quà của
Chúa, trong khuôn khổ Giải thưởng văn học thường niên 2010.
Tóm lại, cho đến nay chưa có đề tài nào mang tên “Huyền thoại trong Quà
của Chúa của Dorota Terakowska”. Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên khai
thác tiểu thuyết Quà của Chúa trên bình diện nghệ thuật của tác phẩm.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1.


Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố huyền thoại hiện hữu trong
cấu trúc tác phẩm làm nên giá trị thẩm mỹ - nghệ thuật của nó.
Huyền thoại (Tiếng Anh: myth; tiếng Nga: mif; tiếng Pháp: mythe) là một
thuật ngữ được nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong luận văn
của mình, chúng tôi chỉ giới hạn đề cập những vấn đề liên quan đến mục đích
nghiên cứu của đề tài.
Theo Bách khoa từ điển Wikipedia (Wikipedia Encyclopedia), huyền thoại
(myth) bắt nguồn từ “mythos” trong tiếng Hy Lạp (nghĩa là “câu chuyện”, “tác
phẩm tự sự”), “liên quan đến những câu chuyện mà một nền văn hoá nhất định tin
là thực, những câu chuyện này sử dụng cái siêu nhiên để cắt nghĩa những sự kiện
tự nhiên, để giải thích bản chất của vũ trụ và con người”.
Trong nghĩa hẹp, huyền thoại được dùng để xác định một thể loại văn học
dân gian. Ở đây, có khi huyền thoại được sử dụng hốn đổi với truyền thuyết, hay
truyện cổ dân gian. P. Brunel gọi đó là “một tình trạng mơ hồ về thuật ngữ vĩnh
viễn khơng thể triệt tiêu hồn tồn như ta muốn”.
Tuy nhiên, trong nghĩa rộng hơn, người ta nói đến huyền thoại như những
tác phẩm được sáng tạo với tư duy huyền thoại, kiểu tư duy tiền logic và thần bí,
8


mang tính ẩn dụ, biểu trưng, tái hiện những quan niệm khái quát, trừu tượng trong
hình thức cụ thể cảm tính.
Theo cách nói thơng thường, cũng như cách hiểu rộng nhất, huyền thoại là
“một điều tưởng tượng nào đó”, đối lập với thực tại. Trong Thi pháp huyền thoại,
E.M.Meletinski tóm tắt bản chất của huyền thoại trong bốn điểm:
(1) Trong các xã hội nguyên thuỷ, huyền thoại có quan hệ chặt chẽ với nghi
lễ, ma thuật và thực hiện chức năng duy trì trật tự (cả tự nhiên lẫn xã hội ), kiểm tra

và giám sát xã hội.
(2) Huyền thoại là sản phẩm của lối tư duy huyền thoại, hình thức tư duy cổ
xưa nhất của loài người, với những đặc tính riêng về mặt logic và tâm lý.
(3) Huyền thoại là một thứ ngôn ngữ tượng trưng mà con người dùng để mơ
hình hố, phân loại và giải thích tư nhiên, xã hội và bản thân mình.
(4) Với tư cách là phương thức tư duy thống lĩnh toàn xã hội thì tư duy
huyền thoại là hiện tượng đặc trưng cho các nền văn hoá cổ sơ, song, với tư cách là
một “trình độ” nhất định của tâm thức con người thì huyền thoại vẫn cịn tồn tại
trong những nền văn hoá khác nhau ở những thời kỳ lịch sử muộn hơn.
Ở Việt Nam, thuật ngữ myth được dịch là thần thoại và huyền thoại, trong
đó thần thoại được hiểu là những câu chuyện kể về thế giới cổ xưa, huyền thoại là
thần thoại được viết theo kiểu mới, đưa vào nhiều ý nghĩa và nội dung hiện đại
theo chủ quan của nhà văn. Nó bao hàm nghĩa rộng hơn thần thoại, không chỉ
hướng đến các câu chuyện cổ xưa, các huyền thoại cổ đại mà bao chứa cả huyền
thoại hiện đại. Với mục đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chủ yếu sử dụng
cách hiểu thứ hai, áp dụng huyền thoại trong văn học hiện đại để nghiên cứu tác
phẩm. Từ đó, có thể kể ra đây một số định nghĩa tiêu biểu về huyền thoại:
Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, huyền thoại được hiểu là những câu
chuyện có ý nghĩa sâu thẳm, vĩnh cửu, tồn nhân loại, thường dưới dạng biểu
tượng và có chức năng biểu đạt thân phận con người. [10;35]
Trong tập bút ký Huyền thoại ngày nay, Roland Barthes cho rằng huyền
thoại gắn chặt với ngơn ngữ và thơng tin, trong đó đặc trưng của nó là một “hệ
9


thống thông báo” hay một “thông điệp”. Ý nghĩa của huyền thoại thường có
ngun cớ thơng qua các loại suy.
Như vậy, dù có rất nhiều định nghĩa, cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm
“huyền thoại”, nhưng tựu trung lại nội hàm của huyền thoại có thể xác định trên ba
ý lớn sau: Huyền thoại là những câu chuyện kể về những điều kỳ diệu, hoang

đường, có nguồn gốc trong dân gian sơ khai; nhân vật của huyền thoại thường là
những người phi thường có khả năng đặc biệt hay có những đặc điểm kỳ lạ; và
cuối cùng, huyền thoại là phương tiện để phản ánh hiện thực, có ý nghĩa sâu thẳm,
vĩnh cửu, thường được thể hiện dưới dạng biểu tượng.
Từ thế kỷ XX trở đi, sự gia tăng các yếu tố huyền thoại trong các sáng tác
văn học thời kỳ này ngày càng rõ rệt. Đặc biệt, huyền thoại đi sâu vào đời sống thể
loại không phải chỉ ở một vài hiện tượng riêng lẻ, mà ngược lại những sáng tác
huyền thoại đã hình thành nên một dịng tiểu thuyết: tiểu thuyết huyền thoại.
Huyền thoại tác động lên thể loại, phá vỡ những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết
thông thường, biến đổi tất cả các cấp độ của cấu trúc thể loại từ hệ thống nhân vật,
kết cấu – cốt truyện, không – thời gian, cấp độ ngôn từ và cấu trúc chủ thể trần
thuật. Ở đây, luận văn xin được nhấn mạnh ba yếu tố có liên quan đến đề tài, đó là
nhân vật, khơng gian và thời gian.
Về phương diện nhân vật, trong huyền thoại, con người lúc này khơng cịn là
một hiện tượng tự trị, bị tách ra khỏi tập thể và thế giới thiên nhiên xung quanh.
Khi đặt con người vào thế giới vĩ mô, huyền thoại đồng nhất đời sống con người
với các chu kì của thiên nhiên, đó khơng phải là một giai đoạn mang tính tuyến
tính, nằm giữa sự ra đời và cái chết mà như là một chu kì lặp lại liên tục. Vì
J.Frazer coi tính chu kì là đặc trưng nổi bật nhất của huyền thoại, nghi lễ “Cành
vàng” theo ông, dựa trên cơ sở chu kỳ của thiên nhiên – sự trỗi dậy và héo tàn. Sự
phát triển và khô héo được gắn liền với lễ thành hôn, cái chết và sự phục sinh của
con người và các vị thần. Mặt khác, trong hầu hết các tiểu thuyết huyền thoại của
thế kỉ XX, ta có thể thấy ở các nhân vật chính đều thấp thống “bóng dáng” của

10


các nhân vật huyền thoại, cuộc đời, các sự kiện liên quan đến nhân vật đó đều cần
được soi chiếu lí giải từ cốt truyện huyền thoại.
Về yếu tố khơng – thời gian, tiểu thuyết huyền thoại thế kỉ XX cố gắng kết

hợp các nguyên tắc tổ chức không – thời gian của cả tiểu thuyết và huyền thoại.
Một mặt tiểu thuyết huyền thoại vẫn hướng về phía thì tương lai nhưng mặt khác
lại diễn ra quá trình “nén” chặt thời gian quá khứ, tương lai và thời hiện tại. Quá
khứ, tương lai được xếp song song với hiện tại. Để tạo ra độ nén, các nhà văn thế
kỉ XX thường gắn không-thời gian với thế giới bên trong, chiều sâu tâm lí nhân
vật.
Thời gian huyền thoại là cách thức làm cho một câu chuyện hiện thực bị
tách ra khỏi bối cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội của nó. Thời gian huyền thoại thường
trải màu sắc bàng bạc của nó qua sự tái điệp thời gian (xét trong trật tự niên biểu)
và những câu chuyện xảy lặp từ quá khứ đến hiện tại (của một nhân vật hay một số
nhân vật), những đoạn ngưng của hồi ức, trữ tình ngoại đề khiến người đọc khó
nắm bắt thời gian, sự mờ hóa thời gian. Đặc điểm quan trọng nhất của thời gian
huyền thoại là tính tuần hồn tiếp nối. Quan niệm về tính chu kỳ, tuần hồn của
thế giới trong cảm quan cổ đại đã hình thành một trong những thủ pháp quan trọng
nhất của thi pháp huyền thoại hóa, thủ pháp vẫn thường được tiếp nhận như là sự
tự phát quay trở về với các chu kỳ của huyền thoại cổ đại.
Trong khi đó, khơng gian huyền thoại được hiểu là không gian pha lẫn thực
và hư. Người đọc cảm giác mình đặt chân đến một miền đất vừa hư vừa thực.
Khơng gian huyền thoại thường có tính biểu tượng. Không gian huyền thoại không
nhất thiết phải là không gian kỳ bí như trong thần thoại: thiên đường, địa ngục hay
miền đất xa lạ. Nó là hiện thực ngay trong cuộc sống của chúng ta.
Quà của Chúa là một tiểu thuyết có chứa các chi tiết mang màu sắc huyền
thoại như một phẩm chất nghệ thuật, đó cũng là cách nhà văn biểu tượng hóa các
xung đột để người đọc suy ngẫm về điều cốt lõi: sự bất toàn của tạo hóa và thái độ
ứng xử của con người trước sự bất tồn đó.
3.2.

Phạm vi nghiên cứu
11



Luận văn khảo sát tiểu thuyết Quà của Chúa của Dorota Terakowska trên ba
khía cạnh cơ bản: nhân vật, khơng gian và thời gian trong sự song chiếu rõ nét với
huyền thoại về sự ra đời của con người và vạn vật.
Nghiên cứu được làm trên bản dịch Quà của Chúa của dịch giả Lê Bá Thự,
NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2009.
4.

Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu

Nhiệm vụ chính của đề tài là phân tích, cắt nghĩa đặc điểm, ý nghĩa, giá trị
nghệ thuật của các yếu tố huyền thoại trong cấu trúc tác phẩm.
Hướng nghiên cứu của luận văn nhằm mục đích giải mã thơng điệp nghệ
thuật của nhà văn, đồng thời góp phần nhận biết một phong cách tiểu thuyết Ba
Lan đương đại.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Do tính chất tổng hợp của luận văn nên chúng tôi kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: cấu trúc, phê bình huyền thoại, phê bình thi pháp học, và
một số các thao tác: phân tích, tổng hợp, thống kê. Trong đó, phương pháp chính là
phương pháp cấu trúc, chia tách văn bản thành các lớp để tìm hiểu, đi sâu phân tích
và phương pháp phê bình huyền thoại, đứng dưới góc độ huyền thoại để soi chiếu
vào tác phẩm.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung luận văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Adam, Ewa và món quà của Chúa
Chƣơng 2: Thời gian và những song chiếu huyền thoại
Chƣơng 3: Không gian qua những biểu tƣợng


12


CHƢƠNG 1
ADAM, EWA VÀ MÓN QUÀ CỦA CHÚA
Nhân vật văn học chính là linh hồn tạo nên sức sống của tác phẩm văn học
thuộc mọi thể loại. Đó khơng chỉ là phương tiện khái quát nghệ thuật, thể hiện
quan niệm của nhà văn về cuộc sống mà còn là thước đo tài năng và sự sáng tạo
của tác giả.
Quà của Chúa của Dorota Terakowska dài gần 400 trang xoay quanh ba
nhân vật chính: vợ chồng Adam, Ewa và đứa con tật nguyền – Myszka. Ngoài tên
tiểu thuyết Quà của Chúa mang đậm màu sắc Thiên Chúa giáo, tên hai nhân vật
chính (Adam và Ewa) trong tác phẩm cũng gợi nhắc đến tên hai con người đầu tiên
xuất hiện trong quá trình sáng tạo sự sống của Chúa trời.
Theo Kinh Cựu ước, Thiên Chúa tạo dựng thế giới mn lồi trong sáu
ngày. Ngày thứ sáu là ngày con người được dựng lên từ đất, người đầu tiên đó
chính là Adam. Sau đó, Người tạo ra một khu vườn (Eden – vườn địa đàng) và đặt
người nam ở đó, để làm việc và trơng nom nó, đồng thời cho phép anh ta ăn tất cả
các loại quả từ cây trong vườn trừ Cây Nhận thức Tốt và Xấu. Chúa cũng tạo ra
các lồi thú. Và khi Adam thấy cơ đơn nơi vườn địa đàng, cần một người để phụ
giúp nhưng khơng lồi vật nào muốn, Chúa đã làm Adam ngủ và tạo ra một người
phụ nữ từ xương sườn số bảy bên trái của anh ta. Đây cũng là người phụ nữ đầu
tiên của loài người – Ewa.
Theo học thuyết của giáo phụ Kito, trước khi phạm tội, ông Adam và bà
Ewa mặc trên mình chiếc áo chồng của đức hạnh khơng thể hủ bại, những dục
13


vọng nội tâm của họ đều phải quy phục lý trí. Theo Augustine, họ có tri thức thực

nghiệm về Chúa trời. Chúa hiện lên và nói chuyện với họ, thuở ấy, họ khơng có
nỗi ưu phiền lo lắng và có thể dốc lòng thờ Chúa. Sau khi phạm tội, niềm diễm
phúc ấy khơng cịn nữa và người phạm lỗi đầu tiên là Ewa, người đã cám dỗ
Adam.
Từ câu chuyện trong Kinh thánh về hai sinh linh đầu tiên của thế giới loài
người, Dorota Terakowska đã dựng nên một câu chuyện với hai nhân vật mang
cùng tên gọi đó (Adam-Ewa) theo một cách rất đời thực của xã hội hiện đại.
1.1.

Adam

Adam – chồng của Ewa, cha của Myszka được xây dựng trong tác phẩm với
rất ít các chi tiết miêu tả ngoại hình, chủ yếu thơng qua cách cảm nhận của
Myszka. Trong sự liên tưởng của cô con gái, người cha có nét tương đồng với
người đàn ơng quảng cáo điện thoại di động trên ti vi. Đó là người đàn ông có:
“hàm răng trắng như răng chó sói, đầu chải bóng mượt… nói q nhanh, vẻ hài
lịng và đầy tự tin, bảnh bao, lịch sự, điện thoại áp bên tai, tay xách cặp đen, đang
rất vội vàng…”. Sở dĩ Myszka liên tưởng bố với ông quảng cáo trên ti vi là bởi cả
hai người đều có những điểm chung, và điểm chung lớn nhất chính là sự trốn chạy.
Adam lúc nào cũng vội vã, khơng có thời gian dành cho con gái. Tuy nhiên trong
mắt Myszka, bố luôn đẹp, trang nhã và lịch sự.
Adam có giọng nói lạnh lùng, gắt gao. Điều này được Myszka cảm nhận rõ
nét nhất. Với em, giọng nói của bố khơng du dương dễ nghe như giọng của mẹ. Dù
em khơng hiểu được bố nói gì vì bố nói rất nhanh nhưng Myszka vẫn cảm nhận
được nó giống như “những chiếc kim nhỏ” đâm vào tai hay như “cái máy khoan”
xoáy sâu vào hai lỗ tai Myszka đơi khi lại “chấn động như luồng gió gắt, ác hiểm
trước cơn giơng, thình lình đổi hướng – và im bặt” làm em đau buốt.
Adam trong tác phẩm là một người đàn ơng thành đạt, giàu có, nhiều tham
vọng. Adam là người rất giỏi chuyên môn, anh trở nên có giá đối với cơng ty
chun làm dịch vụ săn tìm tài năng, đối với việc tìm kiếm cán bộ lãnh đạo trong

ngành tin học. Trong một tương lai khơng xa, nếu được người Mĩ tin tưởng, anh có
14


thể trở thành chủ tịch hội đồng quản trị. Chưa bao giờ Adam gặp thất bại trong
kinh doanh. “Anh chạm tay vào cái gì là y rằng cái đó biến ngay thành vàng, cứ
như ở cung vua Midas vậy. Mỗi quyết định có liên quan tới đầu tư vốn của công
ty, các khoản mua bán, hợp nhất, chuyển dịch vốn hoặc thay đổi nhân sự của công
ty đều rất thành cơng”[18;97]. Vai trị lãnh đạo trong cơng ty của Adam là rất lớn.
Mọi sóng gió thương trường có khắc nghiệt đến đâu cũng không đủ sức quật ngã
khả năng kinh doanh phi thường của Adam.
Chính bởi thành cơng trong sự nghiệp nên Adam luôn xây dựng cuộc sống
theo một nguyên tắc đã được tính tốn kỹ lưỡng. Mọi diễn biến trong cuộc đời của
đôi vợ chồng trẻ đều được Adam lên kế hoạch cẩn thận. Vì thế, anh ln nhắc đi
nhắc lại với Ewa cụm từ: “Kế hoạch làm ăn của gia đình chúng ta”. Khơng giống
những người bạn cùng trang lứa sau khi kết hôn đều sinh con ngay, thậm chí một
vài người bạn của Ewa cịn có con ngay trong trường đại học, Adam và Ewa quyết
định có con sau khi anh đã tính tốn kỹ trong máy tính cái gọi là “nợ và vốn”. Khi
đó Adam 37 tuổi, Ewa 35. Và thế là Myszka chào đời. Đứa bé khơng chỉ là kết quả
của tình u giữa Adam và Ewa mà còn là nơi Adam gửi gắm biết bao dự định, kế
hoạch đường đời. Ngay từ khi đứa bé còn trong bụng mẹ, Adam đã vẽ ra một
tương lai định sẵn. Nếu là một hoàng tử, “mai kia nó sẽ là một ngơi sao lớn của
ngành tin học và thị trường chứng khốn”, cịn nếu nó là con gái, Adam đã vạch ra
cho con một tương lai gói gọn trong mười một từ: “Một trường đại học danh tiếng,
một người chồng ưng ý”. Cũng chính bởi Adam đã hy vọng quá nhiều, đã vẽ ra
một màu hồng tươi sáng nên anh khó chấp nhận nổi sự thật rằng, Myszka – con gái
anh là một đứa trẻ tật nguyền, bị bệnh đao và thiểu năng trí tuệ.
Chưa kể đến, Adam cịn là người đề cao tính thẩm mỹ, u cái đẹp, u sự
hồn hảo. Chỉ cần nhìn cách họ trang trí cho ngơi nhà có thể biết Adam cầu tồn
đến mức nào. Tồn bộ khơng gian ngơi nhà của họ đều do chuyên gia tư vấn hảo

hạng thiết kế:“Tiền sảnh rộng, phòng ngủ của hai vợ chồng, phòng sinh hoạt
chung, phòng khách đột xuất, bếp liền phòng ăn, phòng làm việc của Adam, phòng
khách, hai nhà tắm – và phòng cho con. Nhà hầm và phòng áp mái. Tầng trệt, tầng
15


một và tầng áp mái”[18;36]. Vốn là người hoạt động kinh doanh nên Adam rất mê
phong thủy. Từ ngoại thất nhà đến nội thất của ngôi nhà đều phải tuân theo nguyên
tắc phong thủy: “góc phải tầng trên của căn nhà sẽ làm phịng ngủ, một vị trí đảm
bảo cho vợ chồng sống hạnh phúc cho đến khi đầu bạc răng long, cịn góc bên trái
sẽ là phịng làm việc của Adam, một vị trí đắc địa đối với cơng việc chuyên môn
và con đường làm ăn của anh chồng”[18;36].
Anh là một người chồng rất mực yêu thương vợ, vun vén cho hạnh phúc gia
đình. Chỉ cần nhìn cảnh Adam bế Ewa trên tay mình trong tiếng chng gió ngân
nhẹ nhàng là đủ hiểu tình yêu hai người dành cho nhau. Cuộc sống của gia đình
Adam chỉ cịn thiếu mỗi đứa con khỏe mạnh nữa thôi là hạnh phúc của họ viên
mãn. Đứa con là khao khát mãnh liệt nhất của Adam và Ewa khi sự nghiệp của cả
hai đã chín muồi. Adam đã miệt mài lao động suốt quãng thời gian của tuổi trẻ vì
mong muốn đứa con sau khi chào đời sẽ được hưởng một cuộc sống tốt đẹp hơn bố
mẹ của nó trước kia. Sẽ là tuyệt vời nếu Myszka chào đời là một đứa bé khỏe
mạnh, trí tuệ thơng minh thừa hưởng từ bố và mẹ. Chỉ cần có vậy, cuộc sống của
họ sẽ là lý tưởng, là đáng mơ ước. Thế nhưng, Myszka lại là một đứa bé tật
nguyền, mắc bệnh đao ở thể nặng. Đứa con của Adam lại rơi vào trường hợp hiếm
hoi nhất trong sáu trăm, bảy trăm ca sinh nở. Mọi kế hoạch đường đời của Adam
dường như tan vỡ kể từ khi Myszka xuất hiện. Vốn là một người cầu tồn, thích cái
hồn hảo, Adam khơng tin nổi một sinh linh cực kỳ “phi thẩm mỹ” với “hai con
mắt nhắm nghiền lồ lộ hai nếp nhăn vừa xếch vừa to” như Myszka lại là con gái
mình.
Thế giới nội tâm của Adam diễn biến vô cùng phức tạp, xáo trộn, không
nhất quán. Là một doanh nhân bản lĩnh, quyết đoán trên thương trường, Adam

khơng ngờ mình lại gục ngã ngay trước bão táp trong gia đình mình.
Anh ln tránh né hiện thực bằng cách chối bỏ sự xuất hiện của con gái.
Chính bởi cái vị trí đỉnh cao trong sự nghiệp khiến Adam cầu toàn trong mọi thứ.
Anh sợ người khác nhìn mình với ánh mắt thương hại. Vì vậy, Adam tìm mọi cách
thuyết phục Ewa bỏ lại Myszka cho trại đặc biệt nuôi dưỡng. Dù là người đàn ông
16


trụ cột trong gia đình nhưng khi đứng trước khó khăn, Adam khơng chọn cách đối
mặt mà từ chối, tìm mọi cách che giấu nó. Lỗi lầm đầu tiên và lớn nhất của Adam
chính là ở thái độ này.
Khi Ewa quyết định mang Myszka về ni nấng, chăm sóc, Adam trốn tránh
sự thật bằng cách sống trong một căn phòng tách biệt với hai mẹ con. Ngôi nhà kể
từ khi có Myszka đã thay đổi hồn tồn. Nếu như trước kia, ngôi nhà ấy là sự đồng
điệu của hai tâm hồn duy mỹ, u thích sự hồn hảo thì nay, nó là sự tách biệt rõ
rệt thành hai khơng gian khác nhau giữa căn phòng làm việc của Adam và căn
phịng ngủ của hai mẹ con Ewa. Để tránh nhìn thấy đứa con gái xấu xí, dị dạng,
anh bắt đầu chuyển từ phòng ngủ của hai vợ chồng sang phòng làm việc, chuyển
tất cả đồ đạc từ “gối, chăn lông chim, gối nhỏ, chăn len của Adam. Khơng lâu sau
đó, bộ đồ mộc mới được đặt trong phòng làm việc: chiếc đi văng nhỏ không ăn
nhập với nội thất căn phịng”[18;38]. Mấy hơm sau là chiếc đi văng màu mận tím,
cái màu l loẹt khơng ăn nhập chút nào với màu xám lạnh của phòng làm việc, cái
màu xám mà đúng ra phải hoà đồng với “màu xanh nhạt, gam màu tạo dễ dàng cho
sự tập trung”; hay “Vải giả da bọc cửa màu nâu thẫm, hoàn toàn trái nghịch với
tiền sảnh màu phớt hồng lịch sự”. Dần dần, khoảng cách giữa Adam và Ewa ngày
càng lớn. Họ tách biệt nhau về giờ ăn sáng, sau đó là giờ ăn tối. Câu chuyện họ nói
với nhau cũng thưa dần, đối đáp chỉ xảy ra khi nào thật cần thiết. Giờ đây, ngơi nhà
ấy khơng cịn là khơng gian tràn ngập tình yêu thương mà là nơi ẩn chứa bao điều
phiền muộn, là ngôi nhà của sự im lặng, sự chết mòn trong cảm xúc giữa Adam và
Ewa. Sâu xa, chúng ta có thể hiểu được chính Adam là người tạo ra khoảng cách

ấy. Bởi anh không đủ dũng cảm để đón nhận sự thật nên ln tìm cách trốn tránh,
chối bỏ. Chính anh mới là người cơ đơn trong ngơi nhà của mình. Một mình Adam
sống lặng lẽ, đi đi về về không ai hay với một bên là hai mẹ con Ewa và Myszka
hàng ngày trò chuyện, mẹ thêm hiểu con gái, con gái biết yêu thương mẹ. Chỉ có
mình Adam là “tật nguyền” trong tâm hồn.
Thiếu bản lĩnh trong cuộc sống, anh ln tìm cách đổ lỗi cho Ewa khi cô
sinh ra một đứa bé tật nguyền. Anh cho rằng, bệnh đao là do di truyền, chính bệnh
17


mất trí nhớ của bà Ewa đã ảnh hưởng đến Myszka. Adam ln cảm thấy sợ khi bị
soi mói bởi những ánh mắt nhìn Myszka… Khơng ít lần trong tác phẩm, tác giả đề
cập đến điều này: “anh, một người chỉ biết có thành đạt và quen với thành cơng,
dắt tay một sinh linh bất lực, dị thường đi trên phố, thì đó là cơng khai thú nhận
mình thất bại chứ cịn gì. Anh nghĩ, có lẽ anh khơng chịu đựng nổi những cái nhìn
đầy thương hại hoặc tị mị của thiên hạ.”[18;95]. Bởi thế, Adam thường xuyên
mang nỗi ám ảnh về đứa con tật nguyền vào trong những giấc mơ: “Adam nằm mơ
thấy Myszka lột sạch quần áo, trần truồng ngay tại ngã tư đông người qua lại nhất
của thành phố, gần văn phòng của anh”[18;290].
Khảo sát trong tác phẩm, có tới ba chương liên tiếp nhà văn đặt điểm nhìn
trần thuật vào Adam (chương: Ánh sáng; Sự sống; Sự sống tiếp theo). Điều đó
chứng tỏ, Adam thường xuyên quan sát mọi thứ diễn ra quanh mình. Anh suy nghĩ
miên man về cuộc sống và về đứa con gái bé bỏng tật nguyền. Dù bên ngồi anh tỏ
ra khơng quan tâm, nhất quyết chối bỏ sự có mặt của Myszka, nhưng trong sâu
thẳm trái tim người đàn ông này vẫn ẩn chứa tình yêu thương. Adam thường nấp
sau cánh cửa quan sát con gái, bí mật theo dõi bệnh tình của con, ln ln trăn trở
về con. Giống như Ewa, anh mua rất nhiều sách về căn bệnh này để tìm hiểu.
Nhưng khác vợ ở một điểm, đó là anh thường mong chờ những điều vơ vọng, khó
có thể xảy ra trong hiện tại mà khơng tìm cách giải quyết nó. Adam tỏ ra căm ghét
số phận và ln đặt câu hỏi: tại sao họ không sinh con khi khoa học đã tiến thêm

một bước trong khả năng điều khiển các gien, khi đó sẽ khơng bao giờ có chuyện
đứa bé chào đời bị bệnh đao, hay giá Myszka khơng có mặt trên đời thì cuộc sống
của họ chắc đơn giản bội phần…
Đơi lúc tình u của người cha lại trỗi dậy trong anh giúp anh có thể hiểu
con gái nói gì, mong muốn điều gì. Có khi Adam nhận biết âm thanh phát ra từ
miệng con gái còn nhanh hơn cả Ewa. Anh hiểu Myszka nói “nhaaa” khơng phải là
bố mà nghĩa là nhảy. Người bố ấy thấy nghẹn họng khi nghĩ đến cái mong muốn
đầy bất lực của con gái, đó là được nhảy nhẹ nhàng, thanh thoát như những đứa trẻ
khác. Lúc này, Dorota Terakowska như đứng về phía Adam, nói hộ suy nghĩ trong
18


lòng anh: “Anh hiểu rằng sinh linh bé bỏng tật nguyền này cũng có nhu cầu như
mọi đứa trẻ khác, cảm nhận có lẽ cũng như chúng, có khi cịn mạnh mẽ hơn là
đàng khác, tuy vậy cái vỏ bọc thân tàn của bé khơng thích bé, giống như con nhộng
giam cầm bó mình trong một chú bướm, chỉ có điều đến lúc nào đó rồi chú bướm
sẽ bay đi – cịn chú bướm này, chú bướm náu mình trong cơ thể Myszka sẽ không
bao giờ bay đi được”[18;98]. Xúc động hơn nữa, trong lần sinh nhật tám tuổi của
con gái mình, Adam đã mua tặng con gái búp bê Barbie và Ken. Anh chờ đợi tiếng
bước chân con gái, tiếng thở phì phị nặng nhọc, nhìn hành động nhận quà của con
qua cánh cửa mà nghẹn ngào.
Hiểu được tâm tư của đứa con gái tội nghiệp cùng những vất vả nhọc nhằn
của Ewa hằn sâu lên đôi mắt mệt mỏi thế nhưng Adam vẫn khơng chiến thắng nổi
tính ích kỷ trong con người mình. Sự giằng co đầy mâu thuẫn giữa một bên là tình
phụ tử thiêng liêng với một bên là sự chối bỏ hiện thực, tránh né sự thật luôn tồn
tại trong suy nghĩ của Adam.
Dường như ở đây có sự song chiếu tương đồng giữa nhân vật Adam trong
tiểu thuyết với Adam trong Kinh thánh. Adam do Chúa sáng tạo nên tượng trưng
cho con người thứ nhất và hình ảnh của Chúa trời; là thứ nhất trong trật tự của tạo
hóa, là đỉnh điểm của thế giới được sáng tạo, là sinh linh tối cao mang tính người;

được Chúa trời sáng tạo nên, mang hình ảnh Chúa nhưng không phải là Chúa.
Adam tượng trưng cho lỗi lầm nguyên thủy, sự sa đọa về tinh thần, sự lạm dụng tự
do một cách phi lý, sự chối từ mọi lệ thuộc.
Trong tác phẩm, Dorota Terakowska xây dựng nhân vật Adam mạnh mẽ
trong kinh doanh nhưng lại thiếu bản lĩnh trong đời sống. Anh trốn tránh sự thật
chỉ vì sợ người khác chê cười và coi đứa con gái xấu xí là thất bại, ảnh hưởng đến
danh tiếng. Sự trả giá cho việc thiếu trách nhiệm mà Adam đã làm chính là lúc
nhận ra yêu thương khi đã quá muộn mằn. Suốt tám năm Myszka lớn lên, chưa
một lần anh ngó ngàng tới việc chăm sóc con. Anh ruồng bỏ con và phó mặc bổn
phận ni nấng ấy cho Ewa. Anh dành suốt mười năm của tuổi trẻ để gây dựng sự
nghiệp nhưng khơng có nổi một ngày trọn vẹn dành cho con gái. Để đến cuối cùng
19


khi tìm ra nguyên nhân bệnh đao của Myszka là do di truyền từ người anh trai tật
nguyền Adas, lần đầu tiên trong suốt tám năm rịng, Adam mới “ơm chặt bàn tay
bé nhỏ của con gái mình”. Mọi sự hối lỗi của anh khơng cịn kịp nữa. Anh khơng
tin sự thật rằng con gái bé bỏng của mình đang hấp hối: “Không. Không phải.
Không phải bây giờ, không thể như vậy được”. Những trang viết cuối cùng trên
hành trình tìm về với yêu thương của Adam thấm đẫm nước mắt. Anh ân hận vì
suốt quãng thời gian qua đã khơng dành cho con tình u thương, che chở của một
người cha. Con gái tật nguyền tội nghiệp của anh đáng lẽ ra phải được ni dưỡng,
chăm sóc, u thương nhiều hơn những đứa trẻ bình thường để bù đắp lại những
thiệt thòi mà cuộc sống đã lấy đi của nó. Adam bng ra câu hỏi đầy bất lực: “Anh
phải làm gì bây giờ hả em?”. Điều anh muốn làm cho con gái để sửa chữa tất cả lỗi
lầm trước kia dường như đã quá muộn. Liên tiếp những câu nói thừa nhận sự thật
của Adam: “Em biết khơng… anh đã có một người anh tật nguyền, bị bệnh
Down”; “Khi con gái ra chào đời, anh đã bị thất vọng, nhưng…”. Như tiếng nấc
nghẹn ngào, trái tim người cha ấy đang đau xót tột cùng trước sự ra đi vội vàng của
cơ con gái, vì anh chưa làm được điều gì cho con, chưa một lần làm trịn trách

nhiệm của một người cha.
Biến cố lớn xuất hiện trong gia đình Adam cũng chính là phép thử tuyệt vời
cho bản lĩnh của các nhân vật, để từ đó giá trị nhân văn của tác phẩm được người
đọc cảm nhận một cách sâu sắc và lắng đọng nhất.
1.2.

Ewa

Ewa – nhân vật có cái tên trùng với sinh linh thứ hai do Chúa tạo ra trong
sáu ngày sáng tạo sự sống của mình. Theo Kinh thánh, Ewa được lấy ra từ xương
sườn của Adam lúc Adam ngủ nên người ta có niềm tin là người đàn bà phụ thuộc
và kém quyền người đàn ông. Ewa là người phụ nữ đầu tiên, người vợ đầu tiên, là
bà mẹ của loài người. Ewa biểu thị cho phần cảm tính và yếu tố phi lý tính ở con
người. Cũng có thể, trong nguồn cảm hứng bất tận của mình, Dorota Terakowska
đã xây dựng nhân vật Ewa dựa trên hình tượng người đàn bà đầu tiên của Chúa.

20


Ewa trong Quà của Chúa là một người vợ, một người mẹ khiến chúng ta
khâm phục bởi nghị lực, lòng can đảm và sự hi sinh vô bờ bến. Tác giả đặt nhân
vật người mẹ ấy vào trường hợp bi thảm nhất, chị đã sinh ra một đứa con bị bệnh
đao, vừa dị dạng vừa thiểu năng trí tuệ. Niềm hạnh phúc ngọt ngào trong cuộc sống
hôn nhân với Adam khiến nhiều người phải ghen tị của chị dường như chấm hết
khi có sự ra đời của Myszka. Chị khơng tin nổi vào tai mình khi nghe bác sĩ nhi
khoa thốt ra từ “Down” ở phút thứ mười ba khi khám bệnh cho đứa trẻ sơ sinh.
Giống như tiếng sét ngang tai, giông tố đang ập xuống đầu Ewa. Người phụ nữ
đáng thương đến tội nghiệp ấy cũng như bất cứ ai đều mong muốn những điều tốt
đẹp trong cuộc sống. Chị không thể ngờ điều kém may mắn lại rơi vào gia đình
đang đẹp như mơ của chị. Cũng bởi cái hiện thực đau lịng này mà khơng ít lần

Ewa phủ nhận sự tồn tại của con gái mình: “trong đầu người mẹ nẩy ra một ý nghĩ:
… nó có thể chết cơ mà! Nó có thể chết, lúc đó mình sẽ sinh đứa con khác, bình
thường”. Chị bắt đầu mong muốn những điều không thể: “Xin phái đến cho tơi một
thầy phù thủy có thể làm thay đổi con gái tơi!”. Chúng ta hồn tồn có thể cảm
thơng cho cảm xúc của Ewa lúc này. Phản ứng của người mẹ ấy trước hiện thực
quá tàn nhẫn ấy là chối bỏ, là không muốn đối mặt.
Hơn ai hết, chị hiểu chồng mình – một người chồng ln thành cơng trong
mọi việc sẽ khó lịng chấp nhận sự ra đời của một đứa trẻ tật nguyền. Vì thế, lúc
đầu Ewa đã gật đầu tán thành ý kiến của chồng: “Đúng. Như thế là hay. Xuất viện
khơng có đứa bé này và quên. Quên. Xóa khỏi cuộc đời này mấy tháng đó đi.
Khơng bao giờ nghĩ tới nữa”. Những câu văn ngắn nối tiếp nhau diễn tả ý nghĩ của
Ewa mà hàm chứa trong đó biết bao thương cảm, đau xót. Tiếng kêu cứu bất lực,
thất thanh của chị khi nghe tiếng con gái khóc: “Cứu tơi với…giúp…”.
Cho mãi về sau này, trong suốt q trình ni dạy Myszka, vẫn có nhiều lần
Ewa mơ rằng có ai đó đã đánh tráo con của chị. Chị ln thấy con gái của mình
khỏe mạnh, xinh xắn bình thường như mọi đứa trẻ khác. Sở dĩ linh cảm đó xuất
hiện là bởi chất chứa trong trái tim người mẹ ấy là một tình yêu thương vô bờ bến.

21


Chị mong những điều tốt đẹp đến với con của mình. Cũng vì thế, Ewa càng ngày
càng thương con nhiều hơn.
Khác với Adam, chị không chọn cách trốn tránh sự thật mà sẵn sàng đối mặt
với khó khăn. Bị buộc phải chọn giữa chồng và con gái, chị đã quyết định chọn
con gái. Bởi hơn ai hết, chị hiểu đứa con tật nguyền của mình rất cần tình yêu, và
chỉ có chị, người sinh ra nó mới làm nổi việc này. Sự can đảm ấy có căn nguyên
sâu xa từ tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp mà Ewa dành cho đứa con mình dứt
ruột sinh ra.
Nếu Adam cương quyết lạnh lùng chối bỏ Myszka bao nhiêu thì chị lại kiên

nhẫn, chịu đựng, dành tất cả tình yêu của mẹ với đứa con, vượt lên mọi cô đơn
khắc nghiệt để ni dưỡng, dạy dỗ con. Đón Myszka về ni thay vì đưa con vào
trại đặc biệt tức là chị đã chấp nhận sự phản đối của chồng, đồng thời hiểu rằng,
những tháng ngày về sau, chị sẽ phải đối mặt với khó khăn một mình, đơn độc mà
khơng có Adam bên cạnh động viên, giúp đỡ. Tình cảm gắn bó keo sơn của hai vợ
chồng cũng sẽ dần rạn nứt. Ngôi nhà ấm áp yêu thương mà Adam và Ewa đã gắng
sức vun đắp suốt quãng thời gian tuổi trẻ giờ sẽ thay đổi, tách biệt. Vẫn biết là vậy
nhưng Ewa ln tin quyết định của mình là đúng. Bởi sinh con ra, người mẹ nào
cũng cần có trách nhiệm yêu thương con, chăm sóc con. Dù nó có xấu xí, dị dạng
đi chăng nữa thì nó vẫn là con mình. Đó là thực tế người ta phải chấp nhận mà
không thể trốn tránh.
Việc đầu tiên chị làm để đối mặt với bệnh tật của con gái mình đó là tìm
hiểu về bệnh đao qua các loại sách. Giá sách trong phòng Ewa bắt đầu được bổ
sung thêm những cuốn sách mới. Giờ đây, Ewa cũng không để ý tới việc nó có phù
hợp với nội thất căn phịng khơng nữa, miễn là nó cung cấp được những nội dung
chị cần. Điều Ewa quan tâm duy nhất lúc này chính là sự phát triển của Myszka.
Khn mặt chị tốt lên sự mệt mỏi: “Ewa, khổ sở vì đêm đêm phải trơng con, ngủ
khơng giờ giấc, thức dậy vẫn cịn ngái ngủ, hai mắt trũng sâu, để lại tự nhủ rằng,
đã trọn ngày – thì bao giờ cũng vậy, đơi mắt của người mẹ này trước tiên phải nhìn
vào Myszka”[18;41]. Nhờ những cuốn sách y học và hàng ngày hàng giờ quan sát
22


con, Ewa đã thêm hiểu và yêu con hơn: “Mẹ yêu con – Ewa nói, áp chặt con gái
vào người mình, tỏ tình trong cơn xúc động”.
Ewa biết rằng bệnh đao là vô phương cứu chữa nhưng chị lại tin rằng phép
màu trong Kinh thánh có thể giúp con gái chị trở lại bình thường. Niềm tin bất diệt
ấy phần nào đã an ủi, vỗ về, tiếp thêm sức mạnh cho Ewa để chị tiếp tục chăm sóc
cho đứa con tội nghiệp.
Với những đặc trưng điển hình của bệnh đao, cơ thể Myszka phát triển

khơng bình thường, trí óc chậm chạp, ba tuổi biết bò, bốn tuổi chập chững những
bước đi đầu tiên. Thế nhưng, Ewa vẫn kiên nhẫn dạy con phát âm từng âm tiết một
“Maa…”. Chị vui sướng tột độ khi con có thể nói được “Maa…” lúc ba tuổi. Chị
cịn th cơ giáo riêng để dạy con phát âm. Quan tâm đến con hàng ngày, Ewa
nhanh chóng hiểu được những điều Myszka mong muốn dù bé nói chưa trịn tiếng
“Chuuuu” là Chúa, “Ta! Ơ” là người đàn ông trong quảng cáo trên ti vi…
Mệt mỏi vì đương đầu với bệnh tật diễn biến ngày càng phức tạp của con gái
Ewa còn thường xuyên phải đối mặt với những lời lẽ cay độc của Adam. Những
cuộc cãi vã nảy lửa bắt đầu xảy ra kể từ khi Ewa mang Myszka về nhà. Adam đổ
lỗi tất cả bệnh tật của Myszka đều do di truyền từ người bà mất trí nhớ của Ewa.
Nếu Adam ruồng rẫy, cương quyết đưa Myszka vào trại đặc biệt dành cho trẻ
khuyết tật, không muốn nhìn thấy đứa trẻ dị dạng ấy trong nhà thì ngược lại, Ewa
lại ra sức bảo vệ, che chở cho con: “Không phải vậy! anh không biết con! Anh
không hiểu con, anh không thấy thứ em nhận thấy được ở con. Con gái cảm nhận
tất cả, hiểu tất cả, chỉ khơng biết chọn từ mà thơi – mẹ nói liền một mạch ra chiều
xin lỗi” [18;74]. Nuôi dưỡng đứa con tật nguyền, Ewa luôn luôn đơn độc, không
một ai giúp đỡ, nay chị lại phải đối đầu với sự xung đột quan điểm của người
chồng. Nếu là người đàn bà khác, chắc hẳn chị đã gục ngã. Nhưng chính tình yêu
đối với đứa con tội nghiệp đã tiếp thêm cho chị nghị lực sống. Dần dần, tình mẫu
tử trong Ewa ngày một nhân lên, giúp chị có thêm động lực vượt qua tất cả khó
khăn trong cuộc sống. Chị sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì con.

23


×