Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quan hệ chính trị việt nam hoa kỳ giai đoạn 1995 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỒN NGỌC TUẤN

QUAN HỆ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM – HOA KỲ
GIAI ĐOẠN 1995 – 2005

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: QUAN HỆ QUỐC TẾ

Hà Nội – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỒN NGỌC TUẤN

QUAN HỆ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM – HOA KỲ
GIAI ĐOẠN 1995 – 2005

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Trần Nam Tiến

Hà Nội – 2010


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan bản luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tơi. Các tư liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng.
Tơi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về nội dung trình bày
trong luận văn.
Tác giả luận văn

Đoàn Ngọc Tuấn


MỤC LỤC
MỤC LỤC ........................................................................................................... 1
DẪN LUẬN ......................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 4
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 5
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 9
6. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 9
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
CHÍNH TRỊ VIỆT NAM - HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1995 - 2005
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực ...................................................................... 11
1.1.1. Sự vận động của thế giới đầu thập niên 90 của thế kỷ XX ......................... 11
1.1.2. Sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh ......... 13
1.1.3. Tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Đơng Nam Á ................ 15
1.2. Tình hình và chính sách đối ngoại của Việt Nam...................................... 21
1.2.1. Tình hình Việt Nam ................................................................................... 21
1.2.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ .................................. 22
1.3. Tình hình và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ......................................... 25
1.3.1. Tình hình Hoa Kỳ ........................................................................................................25


1.3.2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Việt Nam .................................. 26
1.4. Vài nét về mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trước năm 1995 .................. 29
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1975 ......................................................................... 29
1.4.2. Giai đoạn từ tháng 4-1975 đến 1990 .......................................................... 34
1.4.3. Giai đoạn 1991 đến 1995 ........................................................................... 36

1


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM - HOA KỲ
(1995 – 2005)
2.1. Hoạt động ngoại giao thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển.................... 42
2.1.1. Giai đoạn 1995 – 2000............................................................................... 42
2.1.2. Giai đoạn 2001 – 2005............................................................................... 45
2.2. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm giải quyết hậu quả chiến tranh ........ 55
2.2.1. Vấn đề POW/ MIA .................................................................................... 55
2.2.2. Vấn đề chất độc da cam/dioxin .................................................................. 60
2.3. Vấn đề người Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ ............................................. 64
2.3.1. Quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ ............................... 64
2.3.2. Quan hệ của cộng đồng người Việt với quê hương .................................... 65
2.4. Một số vấn đề cịn tồn tại trong quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ ... 69
2.4.1. Vấn đề về ý thức hệ và văn hóa ................................................................. 69
2.4.2. Vấn đề về dân chủ và nhân quyền .............................................................. 72
2.4.3. Sự khác biệt về thể chế .............................................................................. 77
2.4.4. Di sản chiến tranh và nhóm người Việt chống lại chế độ trong nước ......... 78
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM VÀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ
CHÍNH TRỊ VIỆT NAM – HOA KỲ TRONG NHỮNG

THẬP NIÊN TIẾP THEO CỦA THẾ KỶ XXI
3.1. Thành tựu đạt được từ sự phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ ......... 85
3.1.1. Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ .................................... 85
3.1.2. Các quan hệ khác ....................................................................................... 88
3.2. Những đặc điểm trong quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ ................. 92
3.2.1. Sự tác động của yếu tố lịch sử ................................................................... 92
3.2.2. Tính hai mặt của mối quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ ...................... 93
3.2.3. Mẫu số chung của sự gặp gỡ, hợp tác cùng phát triển giữa hai dân tộc....... 94
3.2.4. Quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ chịu sự tác động của tình hình thế giới
2


và khu vực ........................................................................................................... 94
3.3. Triển vọng quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ .................................... 96
3.4. Khuyến nghị.............................................................................................. 103
KẾT LUẬN...................................................................................................... 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 115
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 122

3


DẪN LUẬN

1. Lý do chọn đề tài
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tan rã (1991), trật
tự thế giới hai cực đối đầu tồn tại hơn nửa thế kỷ kết thúc, cục diện thế giới và cấu
trúc quyền lực quốc tế đã có những thay đổi sâu sắc và được sắp xếp lại. Thế cân
bằng chiến lược trên phạm vi toàn cầu đã thay đổi. Quan hệ giữa các quốc gia – dân
tộc khơng cịn bị chi phối nặng nề bởi ý thức hệ, thay vào đó là lợi ích dân tộc được

đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế. Trước sự thay đổi to lớn của tình hình thế
giới, việc cải thiện và thiết lập quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các
trung tâm chính trị - kinh tế hàng đầu của thế giới trở thành một đòi hỏi tất yếu và
cấp bách của hoạt động đối ngoại Việt Nam.
Quá trình phát triển quan hệ với các đối tác có thực lực và tiềm năng lớn trên
nhiều lĩnh vực đã đáp ứng yêu cầu nhanh chóng vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế kéo dài đã nhiều năm của Việt Nam, phá thế bị bao vây cấm vận, chuẩn bị
những tiền đề cần thiết cho thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Mặt khác, việc Việt Nam tăng cường quan hệ đối tác với các nước lớn, các
trung tâm kinh tế - chính trị chủ chốt trên thế giới đặc biệt là với Hoa Kỳ tạo ra mối
quan hệ ràng buộc, đan xen về lợi ích của các đối tác đó đối với Việt Nam và Việt
Nam có thể khai thác “Nhân tố nước lớn” trong từng mối quan hệ cụ thể tạo điều
kiện thuận lợi phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Ngày 11-7-1995, Hoa Kỳ đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt
Nam. Lịch sử quan hệ giữa hai nước đã bước sang một trang mới. Kể từ đó, quan hệ
chính trị giữa hai nước đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Như vậy, chỉ trong vòng 10 năm (1995 – 2005), quan hệ chính trị Việt Nam –
Hoa Kỳ đã có những bước tiến đáng kể. Đây là kết quả của những nỗ lực không
ngừng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam và Hoa Kỳ
vẫn đang tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ giữa hai nước vì

4


lợi ích chung của nhân dân hai nước. Vậy, điều gì đã làm cho mối quan hệ chính trị
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong giai đoạn 1995 – 2005 lại có bước phát triển đặc
biệt đến như thế? Tại sao mối quan hệ này lại diễn ra như vậy? Những yếu tố nào đã
chi phối nó và chúng ta có thể rút ra được từ những bài học kinh nghiệm lịch sử gì?
Giải quyết được những vấn đề nêu trên có vai trị rất quan trọng đối với việc tiếp tục
đẩy mạnh sự phát triển quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995 – 2005

là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn.
Về phương diện lịch sử, việc nghiên cứu mối quan hệ chính trị Việt Nam –
Hoa Kỳ sẽ góp phần nêu bật tính tất yếu và ý nghĩa chiến lược của mối quan hệ này,
đồng thời góp phần khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà nước
ta, giúp chúng ta hiểu rõ hơn những thành tựu về công tác đối ngoại của Đảng và
nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới.
Về thực tiễn, việc nghiên cứu này sẽ góp phần vào việc củng cố và tăng
cường mối quan hệ chính trị, hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tơi mạnh dạn chọn vấn đề “Quan hệ
chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995 – 2005” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn Thạc sĩ Quan hệ Quốc tế của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Chiến lược đối ngoại của các nước lớn, đặc biệt là Hoa Kỳ, có ảnh hưởng sâu
sắc đối với hồ bình, an ninh và sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế
giới. Bất cứ nước nào cũng phải tính đến các nước lớn trong việc hoạch định chính
sách đối ngoại của mình và có đối sách xử lý các vấn đề trong quan hệ với các nước
lớn. Những động thái trên đã và đang tác động mạnh mẽ tới Việt Nam, vừa là cơ
hội, vừa là thách thức lớn, buộc chúng ta phải nhận thức đầy đủ và có đối sách thích
hợp với xu thế chung, với từng nước lớn, đặc biệt là với Hoa Kỳ.
Đối với nước ta, Hoa Kỳ là đối tác lớn và quan trọng. Quan hệ với Hoa Kỳ
tạo ra cho chúng ta cơ hội mới, nhưng cũng đặt chúng ta trước khơng ít những khó
khăn và thách thức.
5


Do đó việc nghiên cứu mối quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ trong chiến
lược quốc phòng an ninh và đối ngoại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách đối
với nước ta. Nó khơng chỉ làm rõ chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đối với khu vực
Đơng Nam Á, mà cịn góp phần luận chứng cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của các

đối sách trong chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ.
Mục đích của việc nghiên cứu Quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ giai
đoạn 1995 – 2005 là nhằm tái hiện một bức tranh toàn cảnh về quan hệ chính trị
Việt Nam và Hoa Kỳ trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa và trình bày một cách khoa
học, có chọn lọc và phân tích, qua đó cung cấp một nguồn tư liệu hữu ích cho các
độc giả quan tâm đến vấn đề này. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề xuất một số kiến
nghị để thúc đẩy mối quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nhằm đáp ứng
những đòi hỏi của thực tiễn và điều kiện của Việt Nam hiện nay.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ chính trị Việt Nam - Hoa Kỳ (1995 - 2000) là một đề tài mới, được
dư luận quan tâm, nhưng đến nay trong giới khoa học vẫn chưa có một cơng trình
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Trên thực tế, “quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ”
giai đoạn sau khi bình thường hóa cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên
gia ngoại giao đề cập đến nhưng chỉ là từng lĩnh vực riêng biệt. Mặc dù vậy, đó
cũng là những tư liệu rất quan trọng.
Về sách, có thể kể đến Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ của Đỗ Đức Định
(Nxb. Thế giới, 2000); Quan hệ kinh tế của Mỹ và Nhật Bản với Việt Nam từ năm
1995 đến nay của Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Thị Như Hoa (Nxb. Chính trị quốc
gia, 2001); The Effect of the United State Granting MFN Status to Vietnam của
Emiko Fukase - Will Martin (Nhóm nghiên cứu phát triển của Ngân hàng Thế giới,
Washington D.C., USA, 17-11-1998); Quan hệ Việt – Mỹ thời kỳ sau chiến tranh
lạnh (1990-2000) của Lê Văn Quang (Nxb. Đại học Quốc gia TP.HCM, 2005);
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ hướng về phía trước của Nguyễn Mại (Nxb. Tri thức,
2008); Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: Thực trạng và triển vọng của Trần Nam Tiến
(Nxb. Thông tin và Truyền thơng, 2010)… Các cơng trình trên chủ yếu phân tích,
6


đánh giá về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trên cơ sở tổng quan của mối quan hệ này,
trong đó có đề cập đến quan hệ chính trị giữa hai nước.

Về Báo, Tạp chí có những bài như Quan hệ Việt - Mỹ sau bình thường hóa
(Tạp chí Cơng tác tư tưởng văn hóa, số 6-1997) và Những ghi nhận sau bình thường
hóa Việt - Mỹ (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1-1997) của Nguyễn Hữu Cát; Bước
tiến mới quan trọng trong quan hệ Việt – Mỹ của Đỗ Lộc Diệp (Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay, số 2-1998); Một số nét về quan hệ nông nghiệp giữa Mỹ và Việt Nam
trong thời gian gần đây của Nguyễn Điền (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 5-1997);
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ của Vũ Khoan (Tạp chí Cộng sản, số 15
(8-2000)); Hiệp định thương mại Việt - Mỹ: Cơ hội và thách thức của Bùi Đường
Nghiêu (Tạp chí Châu Á - Thái Bình Dương, số 3-1999); Những bước tiến trong
quan hệ hàng không Việt Nam - Mỹ (Tạp chí Hàng khơng Việt Nam, số 112-2000);
Mỹ - Việt Nam và quyền sở hữu trí tuệ của Steven Robinson (Tạp chí Châu Mỹ ngày
nay, số 3-1998); Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam của Phạm Thị Thi (Tạp chí Châu Mỹ
ngày nay, số 5-2001); Vấn đề bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ trong bối cảnh quốc
tế mới hiện nay của Vũ Văn Thư (Tạp chí Khoa học chính trị, số 6-2001); Quan hệ
kinh tế thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ của Trần Đình Vượng (Tạp chí Kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương, số 3-1997).
Ngồi ra cịn có nhiều tin và bài viết đăng trên các báo Nhân dân, Sài Gịn
giải phóng, Quốc tế, Thời báo kinh tế Việt Nam v.v… có liên quan đến đề tài. Đặc
biệt, mảng tài liệu từ Thông tấn xã Việt Nam như Tin hàng ngày, Tài liệu tham khảo
đặc biệt, Tài liệu tham khảo chủ nhật, tài liệu tham khảo hàng tháng v.v… có ý
nghĩa rất quan trọng đối với chúng tôi. Qua nguồn tư liệu của Thông tấn xã Việt
Nam, chúng tơi có thể tiếp cận những quan điểm, những đánh giá của các chính
khách, các học giả ở phương Tây kể cả Hoa Kỳ về các vấn đề liên quan đến quan hệ
giữa chính trị Việt Nam - Hoa Kỳ trong giai đoạn 1995 - 2005.
Bên cạnh đó, chúng tôi chú ý đến những bài viết, bài phát biểu, các tham luận
ở các hội nghị, hội thảo quốc tế, các cuộc trả lời phỏng vấn của báo chí của các nhà

7



lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta có liên quan đến quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, liên
quan đến quan điểm đối ngoại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ, đặc biệt là giai đoạn
1995 - 2005 v.v… Ngoài ra, chúng tơi cịn tham khảo nguồn tư liệu nước ngoài như:
“The Vietnam - U.S. Normalization Process, CRS Issue Brief for Congress”,
“Permanet normal trade relations for Vietnam”, “America’s Role in Asia”,… để có
bức tranh tồn cảnh về quan hệ hai nước. Sau cùng, chúng tôi tham khảo tư liệu từ
mạng internet, đặc biệt là website chính thức của các cơ quan đối ngoại và kinh tế
của

hai

nước

như:

,

,

,… Trong đó, trên website của Đại sứ
quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ, và Thương vụ Việt
Nam tại Hoa Kỳ có dành hẳn một chuyên mục để để cập về quan hệ giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ.
Nhìn chung, qua tiếp cận các nguồn tư liệu, chúng tôi nhận thấy, hiện vẫn
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu tập trung hoặc chuyên sâu về quan hệ chính
trị Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1995 - 2005. Do đó, trên cơ sở kế thừa những cơng
trình đã có, chúng tơi cố gắng phát triển thêm những gì chúng tơi tiếp cận được để
hồn tất cơng trình nghiên cứu này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ

chính trị Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1995 - 2005. Qua đó, luận văn tập trung
phản ánh quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ trên lĩnh vực chính trị. Việc nghiên cứu này
nhìn từ phía Việt Nam, và một số vấn đề liên quan đến chính trị như: Ngoại giao,
quốc phịng, an ninh, người Việt Nam định cư ở Hoa Kỳ. Trong đó có đề cập đến
những vấn đề cụ thể như: Vấn đề POW/ MIA, chất độc dioxin, “Hội chứng Việt
Nam”…
Về mặt thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ chính trị Việt Nam
– Hoa Kỳ giới hạn trong vịng 10 năm (1995 – 2005) với hai giai đoạn cụ thể:
+ 1995 – 2000: Quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ đã có những bước cải
thiện đáng kể trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là việc Hoa Kỳ tun bố bình thường hố
8


quan hệ ngoại giao với Việt Nam (7-1995), việc ký kết Hiệp định Thương mại giữa
hai nước (7-2000) và chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton
cho thấy hai nước đã bình thường hố hồn tồn quan hệ giữa hai nước.
+ 2001 – 2005: Trên những thành tựu đã đạt được giai đoạn trước, quan hệ
chính trị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc
biệt là sự kiện quan trọng: Chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Việt Nam
Phan Văn Khải (2005).
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng hai phương pháp chính là
phương pháp lịch sử và phương pháp lơ-gích để giải quyết những vấn đề do đề tài
đặt ra. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp liên ngành khác như
các phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, thống kê, so sánh, tổng hợp… để
phân tích các sự kiện một cách khoa học và có hệ thống.
Tất cả các phương pháp đó đều được thực hiện trên nền tảng cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tư tưởng
Hồ Chí Minh đóng vai trị nền tảng lý luận hàng đầu.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Dẫn luận, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phần Phụ
lục. Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ
giai đoạn 1995 – 2005
Chương này giới thiệu tổng quan về bối cảnh quốc tế và khu vực, sự phát
triển mạnh mẽ của Trung Quốc, cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á và
APEC. Nhằm cung cấp cho người đọc hiểu rõ hơn những chính sách của Đảng và
nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng như chiến lược toàn cầu mới của
Hoa Kỳ thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Từ đó chỉ ra nguyên nhân thúc đẩy mối quan
hệ chính trị Việt Nam và Hoa Kỳ.
Chương 2: Thực trạng quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ (1995 – 2005)
Chương này giới thiệu toàn bộ diễn biến mối quan hệ chính trị Việt Nam 9


Hoa Kỳ. Đặc biệt tập trung vào những sự kiện quan trọng của quan hệ hai nước
trong giai đoạn này, cụ thể là việc hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao và
các vấn đề nổi lên trong quan hệ chính trị Việt Nam và Hoa Kỳ. Bên cạnh đó,
chương này cũng chỉ ra những vấn đề cịn tồn tại trong quan hệ chính trị Việt Nam –
Hoa Kỳ.
Chương 3: Đặc điểm và triển vọng quan hệ chính trị Việt Nam – Hoa Kỳ trong
những thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI
Chương này phân tích những thành tựu đạt được trên cơ sở sự phát triển của
quan hệ chính trị giữa Việt Nam – Hoa Kỳ, từ đó rút ra những đặc điểm của mối
quan hệ này. Trên cơ sở đó, nêu ra triển vọng của mối quan hệ chính trị Việt Nam –
Hoa Kỳ. Và từ lĩnh vực chính trị thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển. Để từ đó
có cái nhìn khách quan và đưa ra một số kiến nghị để mối quan hệ giữa 2 nước nâng
lên một tầm cao mới.

10



CHƯƠNG 1

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
CHÍNH TRỊ VIỆT NAM - HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1995 – 2005
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
1.1.1. Sự vận động của thế giới đầu thập niên 90 của thế kỷ XX
Từ những năm cuối thập niên 80 đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến
nay, tình hình thế giới có nhiều biến động quan trọng và phức tạp, đặc biệt là sự sụp
đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Bản thân Hoa Kỳ và các
đồng minh của mình cũng có nhiều vấn đề được đặt ra trong bối cảnh mới. Những
diễn tiến của bối cảnh trên là cơ sở để Hoa Kỳ điều chỉnh chiến lược toàn cầu sau
chiến tranh lạnh.
Thứ nhất, sự tan rã của Liên Xô, siêu cường cạnh tranh toàn diện với Hoa Kỳ
về cả ý thức hệ, kinh tế, chính trị và quân sự, sau chiến tranh lạnh Hoa Kỳ trở thành
siêu cường thế giới duy nhất. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu, chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng và về cơ bản môi trường quốc tế
trở nên thuận lợi hơn với Hoa Kỳ.
Mặt khác, xét trên bình diện quốc tế của thời kỳ quá độ của trật tự thế giới,
với sự sụp đổ của Liên Xơ và cùng với nó là sự kết thúc chiến tranh lạnh, thế đối
đầu hai cực giữa 2 siêu cường khơng cịn nữa, đã kéo theo những thay đổi trong trật
tự chính trị thế giới.
Chiến tranh lạnh kết thúc đã đem lại cho Hoa Kỳ nhiều sức mạnh, Hoa Kỳ
đóng vai trò khống chế trong nhiều vấn đề của thế giới. Sự trỗi dậy của các trung
tâm quyền lực như EU đã và đang tăng cường xu thế ngày càng độc lập trong quan
hệ với Hoa Kỳ. Trung Quốc với thành tựu sau nhiều năm tiến hành cải cách vừa qua
hiện đang trỗi dậy mạnh mẽ là nước có khả năng thách thức vai trò của Hoa Kỳ
trong tương lai. Nước Nga thời kỳ sau chiến tranh lạnh cũng đang chuyển mình, nỗ
lực trên đường khơi phục lại vị trí và ảnh hưởng của mình. Vì thế, một trong những
vấn đề đặt ra cho chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh là ngăn chặn

11


khả năng xuất hiện một siêu cường hoặc một nhóm nước có tiềm lực liên kết với
nhau thách thức vị trí siêu cường duy nhất của Hoa Kỳ.
Thứ hai, việc hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp
đổ là tổn thất lớn chưa từng có của phong trào cách mạng và phong trào xã hội chủ
nghĩa nói chung, chủ nghĩa xã hội hiện thực nói riêng. Các nước xã hội chủ nghĩa
cịn lại đứng trước thách thức hết sức gay gắt. So sánh lực lượng trên thế giới thay
đổi theo hướng bất lợi cho phong trào cách mạng và hịa bình trên thế giới. Sự tan rã
của Liên Xô không thể không kéo theo những trăn trở về lý tưởng, hoang mang về
niềm tin vào chủ nghĩa xã hội trong một bộ phận giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động. Chính trong bối cảnh đó, mơ hình kinh tế thị trường và các giá trị dân chủ
phương Tây trở thành sự lựa chọn của khơng ít quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, thời kỳ sau chiến tranh lạnh, đấu tranh giai cấp và dân tộc, các cuộc
xung đột cục bộ, xung đột tôn giáo, sắc tộc trên thế giới không dịu đi mà tiếp tục
diễn ra gay gắt dưới những hình thức mới. Tình hình trên ở một mức độ nào đó đe
dọa an ninh của Hoa Kỳ, gây khó khăn cho việc thiết lập trật tự thế giới mới của
Hoa Kỳ. Song song đó thế giới đang đứng trước hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội,
chính trị phức tạp như đói nghèo, bệnh tật, ô nhiễm… cùng với mâu thuẫn và những
xung đột tôn giáo, sắc tộc, biên giới làm cho nhiều khu vực trên thế giới mất ổn
định.
Thứ tư, đối với bản thân Hoa Kỳ, chiến tranh lạnh kết thúc, kinh tế lâm vào
tình trạng trì trệ, sức cạnh tranh của nền kinh tế giảm, thâm thụt cán cân buôn bán ở
mức báo động bởi vì trước đó là ngun nhân quan trọng là chạy đua vũ trang tốn
kém đã trực tiếp tác động đến nền kinh tế Hoa Kỳ.
Về chính trị, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan
rã đã làm cho Hoa Kỳ mất đi một mối đe dọa rõ ràng, cụ thể đối với sự sống còn của
chủ nghĩa tư bản. Hoa Kỳ đang rất cần xác định rõ những lợi ích cơ bản của mình
trong tình hình mới và những thách thức chủ yếu đối với những lợi ích đó để xây

dựng một chiến lược mới cho thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Trong cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa
12


tư bản vẫn tiếp tục diễn ra với những biểu hiện mới, đa dạng và phức tạp. Nội dung
của cuộc đấu tranh giữa hai chế độ chính trị xã hội khác nhau đã chuyển từ đối đầu
mang tính tồn cầu sang chấp nhận tính đa dạng hóa chế độ chính trị, vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, cạnh tranh cùng tồn tại.
Trước những thay đổi của tình hình thế giới và ở các khu vực, hầu hết các
nước đều điều chỉnh chiến lược đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới, mà nổi bật
nhất là sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước lớn. Nó tác động sâu sắc
đến nhiều quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh so sánh lực lượng trên thế giới thay đổi
mạnh mẽ, các nước lớn đều chú trọng điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng
tăng cường mở rộng quan hệ nhằm phát huy ảnh hưởng, giành giật lợi ích về mọi
mặt và tạo lập một vị thế có lợi nhất trong quá trình hình thành trật tự thế giới mới.
Cách thức tập hợp trở nên đa dạng, linh hoạt và cơ động hơn. Lợi ích quốc gia, dân
tộc có vị trí nổi trội đang qui định mục tiêu, nội dung, phương châm, chính sách đối
ngoại và cách thức tập hợp của mỗi nước.
1.1.2. Sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ thời kỳ sau chiến tranh lạnh
Những điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với khu vực châu Á –
Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh đã và đang tác động mạnh mẽ đến cục diện
khu vực này nói chung và Đơng Nam Á nói riêng, làm xuất hiện những phương thức
tập hợp cơ động, linh hoạt nhưng cũng rất phức tạp. Sự ổn định chính trị và phát
triển kinh tế ở khu vực này nhiều thập niên qua phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố các
nước lớn. Nhìn tổng thể, các nước lớn do quyền lợi khác biệt nhau nên có nhiều mâu
thuẫn ở đây. Song, xu hướng chung là họ thường thỏa hiệp, phân chia lợi ích với
nhau và điều đó trong nhiều trường hợp làm phương hại đến lợi ích các nước vừa và
nhỏ. Bởi vậy các nước vừa và nhỏ thường thực hiện chính sách duy trì quan hệ cân
bằng với các nước lớn. Bên cạnh đó tìm cách tận dụng cả những cơ hội nảy sinh

chính từ những mâu thuẫn trong quan hệ giữa các nước lớn với nhau.
Chiến lược đối ngoại của các nước lớn, đặc biệt là của Hoa Kỳ có ảnh hưởng
sâu sắc đối với hịa bình, an ninh và sự phát triển của các nước trong khu vực và trên
thế giới. Bất kỳ nước nào cũng phải tính đến các nước lớn trong việc hoạch định
13


chính sách đối ngoại của mình và có đối sách xử lý các vấn đề trong quan hệ với các
nước lớn. Những động thái trên đây tác động mạnh mẽ đối với Việt Nam, vừa là cơ
hội, vừa là thách thức lớn, buộc chúng ta phải nhận thức đầy đủ và có đối sách thích
hợp với xu thế chung, và với từng nước lớn đặc biệt là với Hoa Kỳ.
Chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh được định hình dưới
chính quyền Tổng thống Bush (cha), thơng qua việc điều chỉnh trong chiến lược
“Vượt trên ngăn chặn”. Báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia vào tháng 8/1991 đã
nhấn mạnh mục tiêu của Hoa Kỳ là vượt trên ngăn chặn, tìm kiếm sự hịa nhập của
Liên Xơ vào hệ thống quốc tế, thúc đẩy tự do dân chủ và cải cách chính trị - kinh tế
ở Liên Xô; thiết lập trật tự thế giới mới và vai trị lãnh đạo khơng thể thiếu của Hoa
Kỳ. Dưới chính quyền Bill Clinton, với bản đánh giá từ dưới lên trên (tháng 91993), chiến lược đối ngoại mới “Cam kết và mở rộng” của Hoa Kỳ (1995) và
Chiến lược An ninh quốc gia cho thế kỷ XXI (1997) đã từng bước xác định toàn
diện chiến lược an ninh để bảo vệ lợi ích quốc gia. Đặc biệt vào năm 2000, Hoa Kỳ
đưa ra “Chiến lược an ninh quốc gia cho thế kỷ mới” đã xây dựng một cách hệ
thống, toàn diện các quan điểm chiến lược mang tính tồn cầu cho thời kỳ sau chiến
tranh lạnh [22, tr.17].
Cũng như các chiến lược trước đó, một trong những cơ sở để xây dựng chiến
lược toàn cầu sau chiến tranh lạnh của Hoa Kỳ là xác định rõ lợi ích quốc gia trên
các lĩnh vực cốt yếu trong bối cảnh quốc tế mới, chiến lược an ninh quốc gia cho thế
kỷ mới xác định rõ những lợi ích sau: Một là, những lợi ích sống cịn; Hai là, những
lợi ích quốc gia quan trọng; Ba là, những lợi ích nhân đạo và những lợi ích khác.
Như vậy sau chiến tranh lạnh, lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ được xác định trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh. Những lợi ích này nhằm đảm bảo duy trì vị trí

siêu cường số 1 của Hoa Kỳ trong một thế giới có nhiều trung tâm quyền lực.
Thực thi ba mục tiêu chiến lược trên. Hoa Kỳ xác định rõ các đường hướng ở
từng khu vực như sau:
Với châu Âu: “Xây dựng một châu Âu hòa nhập, dân chủ, thịnh vượng và
hòa bình” và “phối hợp với các đồng minh và đối tác của chúng ta (Mỹ) khắp Đại
14


Tây Dương để đối phó với những thách thức tồn cầu…” [22, tr.22]. Tại đây, Hoa
Kỳ tập trung xây dựng một nền kinh tế thế giới mở cửa hơn không có những trở
ngại bn bán và đầu tư xun Đại Tây Dương, coi “NATO là chiếc neo cam kết ở
châu Âu và yếu tố quyết tử xuyên Đại Tây Dương”. Để thực hiện những cam kết đối
với NATO, “sẽ duy trì khoảng 100.000 quân ở châu Âu”, “duy trì các quan hệ có
tính chất sống cịn xun Đại Tây dương của chúng ta (Mỹ) và giữ vai trò lãnh đạo
của Mỹ trong NATO”.
Với khu vực Balkan và Đông Nam Âu: Thúc đẩy sự hòa nhập một số nền dân
chủ mới vào trào lưu chính của châu Âu. Với các nước vùng Ban tích: Hội nhập một
số nước như Latvia, Litva, Estonia vào cộng đồng xuyên Đại Tây Dương.
Với Đông Á và Thái Bình Dương: Một cộng đồng Thái Bình Dương mới gắn
lợi ích an ninh với sự tăng trưởng kinh tế, dân chủ và nhân quyền. Trong đó, với
Đơng Nam Á, việc “phát triển các quan hệ an ninh và kinh tế tay đơi và khu vực góp
phần ngăn chặn và giải quyết xung đột và mở rộng tham gia của Hoa Kỳ vào các
hoạt động kinh tế của khu vực”. Với lợi ích chiến lược đó, mục tiêu an ninh của Mỹ
trong khu vực được chú trọng là: Một là, Duy trì liên minh an ninh của Mỹ với
Australia, Thái Lan, Philippnines; Hai là, Duy trì dàn xếp an ninh với Singapore và
các nước ASEAN khác; Ba là, Khuyến khích sự nổi lên của một AESAN hùng
mạnh, liên kết có khả năng tăng cường an ninh và thịnh vượng khu vực [22, tr.22].
Như vậy, chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ sau chiến tranh lạnh được xây
dựng hết sức toàn diện, bao gồm tất cả các mặt quân sự, kinh tế, chính trị tư tưởng.
1.1.3. Tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Đơng Nam Á

1.1.3.1. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời vào ngày 1-10-1949. Trung
Quốc được xem là một quốc gia xã hội chủ nghĩa rộng lớn với dân số đông nhất trên
thế giới. Tháng 12-1978, Hội nghị Trung ương 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
đi vào lịch sử đất nước Trung Hoa, khi quyết định chuyển trọng tâm cơng tác của
tồn Đảng từ chỗ coi đấu tranh giai cấp là chính sang lấy xây dựng kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm, mở đầu cuộc cải cách và mở cửa, dân chủ hóa đời sống chính trị và
15


xóa bỏ kinh tế kế hoạch để phát triển đất nước. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, sự
đối đầu Xô – Mỹ đã chi phối hầu hết các quan hệ quốc tế. Đồng thời do tính chất áp
đặt của trật tự 2 cực đã tạo ra những mâu thuẫn nội bộ trong mỗi khối, đặc biệt là
khi tương quan lực lượng đã thay đổi, hai cực suy yếu tương đối trong khi các đối
tác khác đang lớn mạnh dần lên thì ý thức độc lập dân tộc, địi hỏi sự bình đẳng
trong quan hệ quốc tế của các nước ngày càng được nâng cao. Tình hình này tác
động mạnh mẽ đối với Trung Quốc. Thêm vào đó, tình hình nội bộ Trung Quốc
phần lớn thời gian của giai đoạn chiến tranh lạnh có nhiều bất ổn, kinh tế khơng
phát triển. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đã có những bước điều chỉnh chiến lược
đối ngoại và tư duy phát triển nền kinh tế rất linh hoạt.
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, trước yêu cầu về xây dựng kinh tế,
thực hiện “Bốn hiện đại hóa”, từ cuối thập kỷ 80 Trung Quốc đã củng cố quan hệ
với các nước lớn, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu
vực tạo được một môi trường hịa bình, ổn định, nâng cao vai trị, vị thế của mình và
thực tế cho thấy thực lực của Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Sau hai mươi năm cải cách mở cửa nền kinh tế của
Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đặc biệt trong những năm 90 của
thế kỷ XX, Trung Quốc đã thành công trong việc làm cho nền kinh tế quốc dân “Hạ
cánh mềm”, ứng phó có hiệu quả với cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á…, nền
kinh tế tiếp tục tăng trưởng và ổn định, GDP bình quân giai đoạn 1993 – 2005 tăng

trưởng 9,9%/năm, nhiều năm liền là nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới. Trung
Quốc đã là công xưởng lớn và thị trường lớn của thế giới, với sự phát triển mạnh mẽ
của Trung Quốc, điều đó vừa là thách thức đối với kinh tế Việt Nam trong quá trình
vươn ra thị trường thế giới phải đương đầu với hàng hóa và dịch vụ giá cả cạnh
tranh, chất lượng tốt của nước này, vừa là cơ hội để kích thích tăng trưởng kinh tế
hướng vào thị trường rộng lớn, đang gia tăng nhanh chóng nhu cầu hàng hóa và dịch
vụ, mà các nước láng giềng như Việt Nam để có cách tiếp thị tốt thì sẽ mở ra triển
vọng to lớn.
Trong suốt hơn thập niên qua, kể từ ngày quan hệ hai nước bình thường hóa,
16


với vị trí đặc biệt vừa là nước láng giềng, vừa là nước lớn, Trung Quốc luôn là một
trong những ưu tiên chính trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đảng, Chính
phủ và nhân dân Việt Nam hết sức quý trọng tình hữu nghị truyền thống với nhân
dân Trung Quốc.
1.1.3.2. Sự hình thành và phát triển của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương (APEC)
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) được thành lập
vào tháng 11-1989 trong bối cảnh xu hướng liên kết kinh tế phát triển mạnh mẽ,
phát triển kinh tế, đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư, nâng cao năng lực
cạnh tranh… trở thành những ưu tiên trong quan hệ hợp tác ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương. Trong tình hình ấy, APEC ra đời và đáp ứng kỳ vọng vào các nền
kinh tế khu vực là thiết lập một cơ chế hợp tác nhằm nắm bắt những cơ hội, ứng phó
với những thách thức mới do những chuyển biến của tình hình thế giới và khu vực,
đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền
vững của các nền kinh tế thành viên.
Trong những năm qua, APEC đã trải qua nhiều cột mốc đáng nhớ, từ chỗ là
diễn đàn cấp bộ trưởng, sau bốn năm hoạt động, năm 1993 tại Hoa Kỳ, APEC nâng
cấp thành hội nghị cấp cao hằng năm từ chỗ chỉ có 12 thành viên, đến nay APEC đã

mở rộng gồm 21 nền kinh tế có trình độ phát triển đa dạng, khơng chỉ có các nền
kinh tế phát triển cao như: Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc, mà có cả những nền kinh tế
mới nổi như Trung Quốc, Nga… vì vậy, hợp tác APEC có những nét đặc thù dựa
trên nguyên tắc “Đồng thuận, tự nguyện và không ràng buộc”. Năm 1994, tại Hội
nghị cấp cao APEC lần thứ 2 tại Bogor (Indonesia), lãnh đạo các nền kinh tế APEC
đưa ra tuyên bố Bogor, xác định mục tiêu và tầm nhìn dài hạn của APEC đến năm
2020 với hai dấu mốc quan trọng là thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư tại
châu Á – Thái Bình Dương đối với các nền kinh tế phát triển vào năm 2010 và các
nền kinh tế đang phát triển vào năm 2020.
Hợp tác APEC với ba trụ cột là tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại, đầu tư
và hợp tác kinh tế kỹ thuật, đã giành được nhiều thành tựu to lớn. APEC đã trở
17


thành một diễn đàn liên khu vực quan trọng, kết nối nhiều nền kinh tế năng động và
đóng góp cho sự phồn vinh và phát triển bền vững trong khu vực cũng như trên thế
giới. Mặc dù phải ứng phó với những tác động sâu sắc của tồn cầu hóa, phải đối
mặt với cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 – 1998, APEC vẫn đứng vững và thể
hiện rõ sức sống của một khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới. Hơn 60%
GDP, 50% thương mại và 70% tăng trưởng tồn cầu là có sự đóng góp của các
thành viên APEC. Không những thế APEC tiếp tục được đánh giá là nơi có nhiều
nền kinh tế năng động nhất thế giới, có khả năng phục hồi mạnh mẽ nhất sau khủng
hoảng, và được kỳ vọng sẽ là động lực của nền kinh tế toàn cầu.
Trong bối cảnh chủ nghĩa khủng bố và sự gia tăng của các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống đặt ra những thách thức mới cho khu vực, sự quan tâm của
APEC không chỉ giới hạn trong hợp tác kinh tế mà đã mở rộng sang vấn đề an ninh
và chính trị của khu vực. Không chỉ dừng lại ở những thành tựu trong khu vực,
APEC cịn có nhiều đóng góp cho mang ý nghĩa tồn cầu, đặt nền móng cho sự ra
đời của tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập kinh

tế quốc tế. Việt Nam chính thức gia nhập APEC năm 1998. Nhìn lại tồn bộ q
trình của APEC có thể thấy đây là một diễn đàn có đóng góp quan trọng đối với Việt
Nam trên con đường hội nhập. Cùng với ASEAN, APEC đã mang đến cho Việt
Nam những lợi ích thiết thực cả về kinh tế, chính trị và văn hóa trong hợp tác đa
phương, đồng thời là một kênh hiệu quả để đẩy mạnh hợp tác song phương với các
nền kinh tế thành viên APEC.
1.1.3.3. Sự phát triển của các nước khu vực Đông Nam Á
Đông Nam Á (South East Asia) là khu vực 11 quốc gia(*), nằm ở phía đơng
nam lục địa châu Á có diện tích 4,7 triệu km2, có chế độ nhà nước, chế độ chính trị
và trình độ phát triển kinh tế khác nhau, với số dân trên 500 triệu người. Trong các
nước Đơng Nam Á chỉ có Lào là khơng tiếp xúc với biển còn lại 10 quốc gia đảo
(*)

Brunei, Campuchia, Indonesia, Đông Timor, Lào, Myanmar, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam và
Singapore.

18


hoặc nằm trên bán đảo, có tiếp xúc với biển Đơng, Ấn Độ Dương hoặc Thái Bình
Dương. Do đó, Đơng Nam Á được xem là chiếc cầu nối đại dương, nằm ở vị trí
trọng yếu, nơi nối liền các mạch giao thông giữa các châu lục và đại dương. Trong
bối cảnh của những thập niên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển nổi bật
nhất của Đông Nam Á được đánh dấu bởi sự hình thành và hoạt động của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Ngày 8-8-1967 tại Bangkok (Thái Lan), các
Ngoại trưởng của 5 nước Đông Nam Á là Malaysia, Indonesia, Thái Lan,
Philippines và Singapore đã tuyên bố thành lập ASEAN. Sau đó là lần lượt gia nhập
tổ chức này là Brunei (1984), Việt Nam (1995), Lào và Myanmar (1997), và
Campuchia (1999). Thời kỳ chiến tranh lạnh, Đông Nam Á trở thành một trong
những địa bàn tranh giành ảnh hưởng chủ yếu giữa hai siêu cường là Xô – Mỹ. Các

nước trong khu vực, trực tiếp hay gián tiếp đều bị lôi cuốn hoặc chịu ảnh hưởng của
những tính tốn trong chiến lược tồn cầu của hai siêu cường. Các nước Đông Nam
Á do đó đứng trước nhiều thách thức của một thế giới đối cực toàn diện.
Sau Chiến tranh lạnh, xu thế đối đầu Đơng - Tây khơng cịn, song Đơng Nam
Á vẫn là nơi được sự “quan tâm” của nhiều nước lớn. Các nước lớn tìm cách can dự
vào khu vực nhằm duy trì, bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của họ. Để bảo vệ lợi ích của
mình ở khu vực, Hoa Kỳ đã và đang tăng cường duy trì, thiết lập quan hệ trên các
lĩnh vực quan trọng với nhiều nước Đông Nam Á và kể cả các nước châu Á – Thái
Bình Dương như Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc, v.v… Chính vì vậy, cục diện
chính trị Đơng Nam Á thời kỳ sau chiến tranh lạnh tiếp tục có biến động theo các
chiều hướng khác nhau do các yếu tố bên trong và bên ngồi tác động.
Trên bình diện kinh tế, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, nền kinh tế thế giới và khu vực phát triển cả về trình độ lẫn qui mơ
chưa từng thấy. Kinh tế trở thành yếu tố có ý nghĩa chi phối trong các mối quan hệ
quốc tế. Tiến trình tồn cầu hóa, khu vực hóa cũng được thúc đẩy mạnh mẽ với sự
hình thành các thiết chế, tổ chức tài chính- tiền tệ, thương mại…Sự thừa nhận và
chú trọng ưu tiên phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia là hệ quả
của sự tác động đó. Trong đó việc giữ mơi trường hịa bình ổn định là diễu kiện
19


không thể thiếu để phát triển kinh tế.
Các quốc gia Đơng Nam Á với những lợi thế có được đã và đang đứng trước
nhiều vận hội của tiến trình hợp tác, liên kết cùng phát triển, với nhiều ưu thế về địa
lý tự nhiên, tài nguyên, lại là địa bàn có vị trí chiến vơ cùng quan trọng trong hệ
thống đường hàng hải quốc tế. Đây là khu vực chiến lược có quan hệ về lợi ích với
tất cả các cường quốc trên thế giới.
Sau Chiến tranh lạnh, diện mạo về chính trị và kinh tế cũng thay đổi so với
các khu vực khác, là Vấn đề Campuchia được giải quyết bởi giải pháp tồn diện, sự
cải thiện nhanh chóng quan hệ giữa các nước Đông Dương và Myanmar với

ASEAN. Đó là xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển được tăng cường trong khu
vực. Đó là sự cải thiện quan hệ giữa các nước lớn đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
nước Đông Nam Á thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với các nước lớn vốn bị ngăn
cách trong chiến tranh lạnh. Việt Nam, Indonesia, Brunei, Singapore bình thường
hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Tình hình trên đã góp phần thúc đẩy xu thế
hịa bình, hợp tác và phát triển. Điều này cũng có nghĩa, sau chiến tranh lạnh, Đông
Nam Á là một điểm nóng trước kia đã nhanh chóng trở thành địa bàn qui tụ các nỗ
lực quan hệ giữa các nước. Với những chuyển động tích cực trong đời sống an ninh
chính trị và kinh tế ở Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh, đã tới quá trình quan hệ
hợp tác quốc tế của khu vực. Biểu hiện rõ nhất là việc Hoa Kỳ, Nhật Bản, Tây Âu,
Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều nước khác quan tâm và hướng tới thị trường Đông
Nam Á, Thúc đẩy giao lưu chuyển vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ buôn bán với
khu vực.
Những chuyển biến tích cực của các nước Đơng Nam Á đã làm cho vị trí
chiến lược của khu vực này phát triển mạnh mẽ. Đặc điểm hàng đầu hiện nay là sự
phát triển tích cực các nỗ lực hợp tác và liên kết khu vực. Cũng do đó, các thành
viên của hiệp hội đã và đang thu được nhiều thành quả tốt đẹp trong phát triển kinh
tế- xã hội và an ninh chính trị.

20


1.2. Tình hình và chính sách đối ngoại của Việt Nam
1.2.1. Tình hình Việt Nam
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức mới. Trên thế giới, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản có nhiều diễn biến phức tạp; hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa
lâm vào khủng hoảng về kinh tế-xã hội. Ở trong nước, tư tưởng chủ quan, say sưa
với thắng lợi, nơn nóng muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian
ngắn, dẫn đến việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cộng với những khuyết

điểm của mơ hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ,
làm cho kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp rất
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, Việt Nam lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm
vận; các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc xảy ra, hậu quả
rất nặng nề.
Trước tình hình đó, Ðảng và Nhà nước Việt Nam thấy rằng khơng cịn sự lựa
chọn nào khác là phải đổi mới, trước hết là đổi mới cách nghĩ, cách làm nhằm xây
dựng chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả hơn. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc
biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; nắm vững quy luật khách quan,
lấy dân làm gốc… Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương,
chính sách, sản xuất trong nước ngày càng phát triển, lưu thông ngày càng thông
suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân từng bước được ổn định và nâng
cao, xã hội ngày càng lành mạnh, qua đó, chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được
củng cố…
Với tư duy và đường lối phát triển kinh tế mới, chúng ta đã từng bước làm
cho sức sản xuất phát triển khá nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống
nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt
7,5%/năm. Thu nhập bình quân đầu người từ 200 USD năm 1990 tăng lên khoảng
600 USD năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước đã giảm từ 30% năm 1992 xuống
còn 7% năm 2005, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế
21


hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”.
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - cơng nghệ có bước phát triển mới.
Cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Cùng với phát triển kinh tế, cơ cấu
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta đã có nhiều đổi
mới theo hướng ngày càng dân chủ hơn, năng động hơn. Về quốc phòng, an ninh,
chúng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc; giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại và đã kịp thời ngăn chặn,
dập tắt một số vụ gây rối, bạo loạn chính trị của các đối tượng phản động trong và
ngoài nước. Về đối ngoại, đến năm 2001, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với
167 nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới; có quan hệ thương mại với 221
nước và vùng lãnh thổ; đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Ðông Nam Á (ASEAN)
và Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, về mặt đối ngoại, Việt Nam đã và
đang thúc đẩy xây dựng quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực, tăng cường
hợp tác để duy trì một mơi trường hịa bình, ổn định lâu dài phục vụ công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội đất nước. Từ mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước, vị
thế và uy tín của Việt Nam sẽ ngày càng được đề cao trong khu vực cũng như trên
trường quốc tế. Trên cơ sở đường lối đối ngoại và nhu cầu phát triển của đất nước
trong thời kỳ mới, Việt Nam nhận thấy Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan
trọng, có nhiều tiềm năng để Việt Nam thiết lập và mở rộng quan hệ.
1.2.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ
Bước vào nửa cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, trong q trình thực hiện
phương châm “đa phương hố, đa dạng hoá quan hệ quốc tế với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc
lập và phát triển”, chúng ta đặc biệt coi trong quan hệ với các nước lớn, trong đó có
Hoa Kỳ. Thực tế, tuyên bố của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton này 11-7-1995 cũng
như tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt ngày 12-7-1995 mới chỉ là sự
chính thức xác định việc bình thường hố quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ về mặt ngoại
giao. Từ các tuyên bố này, đến việc bình thường hố hồn tồn quan hệ Việt Nam –
22


×