Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

(Luận văn thạc sĩ) chính sách khoa học và công nghệ của mỹ dưới thời tổng thống bill clinton (1993 2001)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HƢƠNG SEN

CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA
MỸ DƢỚI THỜI TỔNG THỐNG BILL CLINTON
(1993-2001)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HƢƠNG SEN

CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA
MỸ DƢỚI THỜI TỔNG THỐNG BILL CLINTON
(1993-2001)

Luận văn thạc sỹ chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 03 11

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH DŨNG

Hà Nội - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Mạnh Dũng. Các số liệu trong nghiên
cứu hồn tồn trung thực. Tơi xin chịu trách nhiệm trước những kết quả đã
nghiên cứu - điều tra trong luận văn này.

Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hƣơng Sen


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu này, để tôi đạt được mục tiêu và
các kết quả trong đề tài nghiên cứu của mình; tơi đã nhận được sự chia sẻ, hỗ
trợ, giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Mạnh Dũng (Giảng viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội) và các thầy/cô trong
Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Trong phạm vi của cơng trình nghiên cứu này, cũng như bản thân tác
giả cịn hạn hẹp về kinh nghiệm. Vì vậy, nghiên cứu khơng tránh khỏi những
thiếu sót, tơi mong nhận được sự chia sẻ, góp ý của q thầy cơ cùng tồn thể
bạn đọc. Mọi thông tin liên quan tới nghiên cứu này có thể liên hệ tác giả
Nguyễn Thị Hương Sen (email: )
Chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hƣơng Sen



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 3
3. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 4
5. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu ......................................................................... 4
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 4
7. Đóng góp của đề tài ................................................................................... 6
8. Cấu trúc của luận văn............................................................................... 7
CHƢƠNG 1. TÌNH HÌNH KH&CN CỦA MỸ TRƢỚC NĂM 1993 VÀ BỐI
CẢNH LỊCH SỬ KHI TỔNG THỐNG BILL CLINTON LÊN CẦM QUYỀN .. 8
1.1 Tình hình KH&CN của Mỹ trƣớc năm 1993 ......................................... 8
1.2 Bối cảnh lịch sử khi Tổng thống Bill Clinton lên cầm quyền ............. 14
1.2.1 Tình hình thế giới.................................................................................. 14
1.2.2 Tình hình trong nước ............................................................................ 18
CHƢƠNG 2. NHỮNG ĐIỀU CHỈNH VÀ CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KH&CN CỦA MỸ (1993-2001) ...................... 25
2.1 Những điều chỉnh trong chính sách phát triển KH&CN của Mỹ dƣới
thời Tổng thống Bill Clintơn 1993-2001...................................................... 25
2.1.1Chuyển từ ưu tiên phục vụ quốc phòng sang ưu tiên phục hồi sức
mạnh kinh tế Mỹ ............................................................................................ 25
2.1.2 Chuyển từ nguyên tắc “phân chia trách nhiệm” sang xây dựng cơ chế
tác động mới của Nhà nước tới KH&CN...................................................... 29
2.2 Các biện pháp hỗ trợ thực hiện chính sách phát triển KH&CN của
Chính phủ....................................................................................................... 35
2.2.1Tuyên truyền, thuyết phục về định hướng mới .................................... 35
2.2.2 Tăng cường ngân sách và điều chỉnh nguồn lực đầu tư cho KH&CN ....... 36
2.2.3Khuyến khích tư nhân đầu tư vào nghiên cứu ứng dụng ................... 39



2.2.4Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời sự phát triển của KH&CN ..... 41
2.2.5 Tăng cường vai trò quản lý phối hợp của bộ máy nhà nước .............. 43
2.2.6 Tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin ................. 44
2.2.7 Sử dụng các công cụ gián tiếp để thúc đẩy phát triển KH&CN ......... 45
Tiểu kết ........................................................................................................... 47
CHƢƠNG 3. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ ĐỐI VỚI KINH TẾ - XÃ HỘI MỸ DƢỚI THỜI TỔNG THỐNG BILL
CLINTON (1993-2001) VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM....... 50
3.1 Tác động tích cực .................................................................................... 50
3.1.1Về kinh tế ................................................................................................ 50
3.1.2 Về xã hội ................................................................................................ 65
3.2 Hệ lụy của chính sách ............................................................................. 73
3.2.1 Nền kinh tế cịn bất ổn .......................................................................... 73
3.2.2 Góp phần làm gia tăng sự bất bình đẳng trong xã hội Mỹ. ................ 73
3.3 Một vài kinh nghiệm cho Việt Nam....................................................... 78
3.3.1 Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho KH&CN ................ 79
3.3.2 Tập trung nghiên cứu ứng dụng, phục vụ sản xuất............................ 81
3.3.3 Chính sách phát triển nguồn nhân lực ................................................ 82
3.3.4 Chính sách hỗ trợ phát triển KH&CN ................................................. 83
Tiểu kết ........................................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 99


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Số tiền đầu tư cho nghiên cứu, phát minh của Mỹ qua một số năm (tính
theo giá năm 1992) .......................................................................................... 37
Bảng 3.1: Thay đổi giá của sản phẩm công nghiệp công nghệ thông tin ....... 51

Bảng 3.2: GDP của các nước G-7 (tỷ USD) ................................................... 55
Bảng 3.3: GDP theo đầu người của các nước G7 (%) .................................... 66
Bảng 3.4: Tăng trưởng việc làm ở các nước OECD ....................................... 70
Bảng 3.5 : Tỷ lệ tham gia các bậc trung học và sau trung học trong .............. 71
đối tượng có việc làm ở Mỹ ............................................................................ 71
Bảng 3.6: Tỷ lệ sử dụng máy tính trực tiếp tại nơi làm việc 1984-1997 ........ 72


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- ASEAN: Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các Quốc
gia Đông Nam Á)
- GDP: Gross Domestic Product (tổng sản phẩm quốc nội)
- NASA: National Aeronautics and Space Administration (Cục Quản trị
Không Gian và Hàng Không Quốc gia – Hoa Kỳ)
- KH&CN: Khoa học và công nghệ
- R&D: Research & development (Nghiên cứu và triển khai)
- OECD: Organization for Economic Cooperation and Development (Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế)
- WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bắc Mỹ là một lục địa rộng lớn và giàu có, nơi mà “trời và đất chưa
bao giờ hòa hợp với nhau tốt hơn để tạo nên một nơi như thế cho sự cư trú
của con người” [8; tr.8]. Với những điều kiện thuận lợi, chỉ chưa đầy 100 năm
kể từ ngày tuyên bố độc lập (1776) đến khi nội chiến kết thúc (1865), nước
Mỹ đã xây dựng được một cơ sở kinh tế vững chắc. Cũng trong khoảng thời
gian đó, Mỹ đã có những bước tiến lớn về KH&CN, tạo nên sự đột phá trong
sản xuất, kinh doanh và từng bước củng cố nền tảng xã hội của mình. Trong

những năm 40 của thế kỷ XX, Mỹ là nước khởi đầu và đạt nhiều thành tựu
nhất trong cuộc cách mạng KH&CN. Đây chính là nền móng tạo tiền đề cho
sự phát triển và vươn lên mạnh mẽ của quốc gia trẻ tuổi này. Nước Mỹ đã có
những bước tiến ngoạn mục, trở thành một nền kinh tế tư bản phát triển điển
hình, một cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến những
biến chuyển lớn lao: Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Yalta giải thể,
một kỷ nguyên mới đã mở ra làm đảo lộn những tiêu chí chính yếu về chính
trị, quân sự, kinh tế trong sức mạnh của một quốc gia. Qn sự khơng cịn là
tiêu chí đơn thuần nữa mà cơ sở của sức mạnh đã trở nên đa dạng hơn: từ nay
phải thêm vào con số trọng lượng và vũ khí những thành tựu kinh tế, những
tiềm lực khoa học kỹ thuật, khả năng cách tân (đổi mới) trong tất cả các lĩnh
vực. Đặc biệt là sự chinh phục lãnh thổ đã phải nhường chỗ cho sự chinh phục
các thị trường và các công nghệ mới. Do vậy, giành ưu thế KH&CN trong
một số lĩnh vực then chốt nhất định sẽ tạo ra cho lực lượng nắm được ưu thế
này vị trí chi phối trên vũ đài quốc tế. Những công nghệ mới ra đời tạo nên
một nhân tố phi thường của quyền lực và sự làm chủ các cơng nghệ này từ
nay có thể xem là có ý nghĩa quyết định đối với vị thế của một cường quốc
cũng như khả năng triển khai sức mạnh quân sự trên quy mô hành tinh.

1


Là một quốc gia trẻ tuổi, luôn đi tiên phong trong cuộc cách mạng
KH&CN, coi công nghệ là công cụ “chìa khóa vàng” đối với sự phát triển đất
nước, Mỹ đã rất nhạy bén khi tiến hành điều chỉnh chiến lược phát triển trong
đó nổi bật là sự điều chỉnh trong chính sách KH&CNdưới thời cầm quyền của
Tổng thống Bill Clinton (1993 - 2001). Trải qua quá trình phát triển song hành
cùng sự phát triển của đất nước, chính sách KH&CNdưới thời Bill Clinton
đánh dấu bước phát triển về chất của KH&CNHoa Kỳ, phù hợp với nhu cầu

phát triển của đất nước và xu thế khách quan của thời đại. Nó mang đậm dấu
ấn riêng của một thời kỳ lịch sử đặc biệt và để lại nhiều bài học giá trị cho
nhân loại.
Sự điều chỉnh kịp thời, đúng đắn của Chính phủ Clintonđã phát huy tối
đa tiềm lực của quốc gia về KH&CN, khiến cho nước Mỹ đạt được những
thành tựu đáng kinh ngạc. Giai đoạn 1993-2001là thời kì tăng trưởng thịnh
vượng dài nhất trong lịch sử nước Mỹ với tỉ lệ thất nghiệp và lạm phát thấp;
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Nước Mỹ trở thành cái nôi
của nền “kinh tế mới” - “kinh tế tri thức” - đây được coi là xu thế phát triển
mới nhất của nền kinh tế thế giới trong thập niên 90 của thế kỷ XX và những
thập niên đầu thế kỉ XXI. Đòn bẩy tạo nên bước phát triển nhảy vọt của kinh tế
Mỹ trong thời kỳ này là sự phát triển của KH&CN.
Do vậy, những điều chỉnh về mặt chính sách cùng những thành tích nổi
bật về kinh tế - xã hội Mỹ trong thời kì cầm quyền của Tổng thống Bill Clinton
(1993 - 2001), đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà chính trị, các học
giả, các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách ở nhiều nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tơi lựa chọn vấn đề "Chính sách
khoa học và công nghệ của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton (19932001)" làm đề tài nghiên cứu luận văn. Tìm hiểu nội dung này không chỉ giúp
chúng ta hiểu được những điều chỉnh trong chính sách KH&CN, thấy được
tác động sâu sắc, nhiều chiều của KH&CNđối với kinh tế-xã hội Mỹ mà còn
2


thấy được vai trò chiến lược của nhân tố này đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia.
Tìm hiểu về những điều chỉnh trong chính sách KH&CNcủa Mỹ trong
thời kì cầm quyền của Tổng thống Clinton cũng chính là nghiên cứu sự thích
ứng của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện mới. Do vậy, nghiên cứu vấn đề này
có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Làm rõchính sách KH&CNcủa Mỹ dưới thời Tổng
thống Bill Clinton (1993-2001)
- Mục tiêu cụ thể:
+ Luận văn làm nổi bật sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử thế giới và trong
nước, chỉ rõ sự điều chỉnh kịp thời trong chính sách KH&CN của Mỹ
+ Chỉ ra những tác động tích cực và những hệ lụy của KH&CN đối với
tình hình kinh tế- xã hội nước Mỹ trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XX.
+ Nêu lên một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoạch
định chính sách KH&CN.
2.2 Nhiệm vụ
- Thơng qua việc nghiên cứu tài liệu, tác giả phân tích, đối chiếu làm nổi
bật bối cảnh lịch sử mới của thế giới và nước Mỹ trong thập niên cuối
của thế kỷ XX. Trên cơ sở nghiên cứu những chính sách KH&CN
trước thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Bill Clinton (1993-2001) cũng
như các văn kiện ban hành trong quá trình đương nhiệm của Chính phủ
Bill Clinton, luận văn làm rõ sự điều chỉnh trong chính sách khoa học
cơng nghệ của Mỹ giai đoạn 1993-2001.
- Phân tích số liệu cụ thể về sự tăng trưởng kinh tế cũng như xã hội
Mỹđể đánh giá tác động của chính sách KH&CNđối với sự phát triển
kinh tế - xã hội Mỹ và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3


3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ đạo là các phương pháp của khoa học lịch sử như
phương pháp lịch đại, phương pháp đồng đại, phương pháp phân kỳ, phương
pháp phân tích, so sánh... Những phương pháp này cho phép chúng tôi dựa
trên những nguồn tài liệu / sử liệu để kết nối, xâu chuỗi và diễn giải về những

thay đổi của hồn cảnh lịch sử cũng như chính sách khoa học cơng nghệ và
tác động của những chính sách đó đối với sự phát triển của nước Mỹ trong
giai đoạn 1993-2001.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp logic, phương pháp thống
kê... để thực hiện luận văn. Chúng tôi sử dụng những phương pháp này nhằm
làm nổi bật sự thay đổi trong chính sách khoa học cơng nghệ của Mỹ, làm rõ
sự chuyển biến của kinh tế-xã hội Mỹ dưới tác động của những chính sách đó.
Về hướng tiếp cận: Nghiên cứu đề tài chính sách KH&CNcủa Mỹ dưới
thời Bill Clinton, chúng tôi xác định các phương pháp tiếp cận dưới góc nhìn
lịch sử KH&CN. Hướng tiếp cận này phù hợp với đề tài cũng như mục đích
nghiên cứu đặt ra.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Chính sách khoa học và cơng nghệ của Mỹ giai đoạn 1993-2001
4.2Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Bill Clinton (1993-2001).
Về không gian: Đề tài nghiên cứu về nước Mỹ thời kỳ 1993-2001
5. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu
- Tài liệu sơ cấp: văn kiện của Tổng thống Bill Clinton về KH&CN
- Tài liệu thứ cấp: sách, báo, các cơng trình chun khảo...
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khoa học công nghệ dưới thời Tổng thống Bill Clinton là một đề tài
khá mới mẻ, thú vị và thu hút nhiều nhà nghiên cứu, trong đó phải đặc biệt kể
đến tác giả Vũ Đăng Hinh. Trong cuốn: “Chính sách kinh tế mỹ dưới thời Bill
4


Clinton”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2002, tác giả đã trình bày một
cách có hệ thống những chính sách phát triển kinh tế của Tổng thống Bill
Clinton như chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế Mỹ, chính sách thương mại,

chính sách tài chính tiền tệ... trong đó có chính sách KH&CN.Tác giả Nguyễn
Thiết Sơn trong cuốn “Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế”, NXB Khoa học xã
hội năm 2003 đã bước đầu phân tích về sự điều chỉnh trong chính sách khoa
học cơng nghệ của Mỹ dưới thời Tổng thống Clinton và Tổng thống Bush.
Nội dung và hướng tiếp cận gần giống với tác giả Vũ Đăng Hinh. Đây là
những nguồn tài liệu có giá trị tham khảo, cung cấp thông tin và dữ kiện quan
trọng cho tác giả trong quá trình làm luận văn.
Trong cuốn “Cấu trúc lại nền kinh tế Mỹ từ thập kỷ 70 của thế kỷ trước
đến nay”, NXB Thế giới năm 2005 tác giả Vũ Đăng Hinh cũng đề cập đến một
số chính sách KH&CN và sự xuất hiện của một cơ cấu kinh tế lành mạnh ở Mỹ.
Các tác giả Lê Văn Sang, Đào Lê Minh, Trần Quang Lâm trong cuốn
“Chủ nghĩa tư bản hiện đại” cũng dành một số trang nói về sự phát triển của
nền kinh tế Mỹ, trong đó tác giả nhấn mạnh nguyên nhân phát triển là chính
sách hợp lý về KH&CN.
Cuốn “Tuyển chọn văn bản luật khoa học và công nghệ của một số
nước trên thế giới” của Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học
công nghệ của Bộ Khoa học công nghệ và mơi trường, NXB Chính trị quốc
gia năm 1997 đã trình bày về luật chính sách khoa học và kỹ thuật của hợp
chúng quốc Hoa Kỳ (có hiệu lực từ năm 1976). Trong luật này, lần đầu tiên
chính sách khoa học và công nghệ của quốc gia được công bố. Tuy không
cung cấp những thông tin phục vụ trực tiếp cho luận văn nhưng tác phẩm đã
đưa ra những căn cứ chứng minh rằng khoa học công nghệ luôn luôn là chính
sách được chính phủ Mỹ ưu tiên hàng đầu.
Ngồi ra, các bài viết trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay như: Nguyễn
Điền với bài“công nghệ tin học xâm nhập vào quá trình sản xuất kinh doanh
của các trang trại nông nghiệp Mỹ”số 06 xuất bản năm 1997; Lưu Ngọc
5


Trịnh-Bùi Trường Giang “Kinh tế Mỹ năm 1997 - điểm sáng của thế giới

công nghiệp phát triển” số 01 xuất bản năm 1998; Michael J.Mandel “Cuộc
suy thoái sắp tới của nền kinh tế internet” số 06 xuất bản năm 2002; Đỗ Lộc
Diệp“Đặc trưng của kinh tế Mỹ hiện nay”số 04 xuất bản năm 1997; Nguyễn
Cảnh Chắt “những chính sách và biện pháp của Mỹ trong việc phát triển
khoa học kỹ thuật” số 05 xuất bản năm 2002; Nguyễn Thu Hằng “Nước Mỹ từ
thâm hụt đến thặng dư ngân sách - thực chất và tác động” số 06 xuất bản năm
2000; Trần Văn Tùng “Hoa Kì và nền kinh tế tri thức” số 03 xuất bản năm 1999...
đã cung cấp những thông tin và số liệu quan trọng để tác giả tham khảo làm cơ sở
phân tích, đánh giá.
Bên cạnh nguồn tài liệu tiếng Việt, các văn kiện của Tổng thống
Clinton về KH&CN như: “Technology for America’s Economic Growth, A
New Direction to Build Economic Strength, President William J. Clinton Vice
President Albert Gore, Jr., February 22, 1993” đã cung cấp cho chúng tôi
nguồn tư liệu gốc quý giá để phác thảo những nét chính trong chính sách
KH&CN của Mỹ trong giai đoạn này.
Một số bài viết, báo cáo của OECD trên các website đã cung cấp cho
chúng tôi những số liệu về sự phát triển kinh tế Mỹ, trên cơ sở đó chúng tơi
đánh giá khách quan tác động của chính sách KH&CN.
Tựu chung lại, nhiều nghiên cứu, chun khảo, cơng trình khoa học của
các học giả trong và ngoài nước là cơ sở lý luận và nguồn tài liệu quan trọng
trong q trình thực hiện đề tài luận văn “Chính sách khoa học công nghệ của
Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton (1993-2001)”.
7. Đóng góp của đề tài
- Luận văn là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu và đánh giá một
cách hệ thống chính sách KH&CN của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill
Clinton (1993-2001).
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, có thể so sánh và rút ra một số bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoạch định chính sách KH&CN.
6



8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục...
bố cục của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tình hình KH&CN của Mỹ trước năm 1993 và bối cảnh lịch sử
khi Tổng thống Bill Clinton lên cầm quyền
Chương 2: Những điều chỉnh và các biện pháp hỗ trợ thực hiện chính sách KH&CN
của Mỹ (1993-2001)
Chương 3: Tác động của chính sách KH&CNđối với kinh tế - xã hội Mỹ
dưới thời Tổng thống Bill Clinton (1993-2001) và một số kinh nghiệm cho
Việt Nam

7


CHƢƠNG 1
TÌNH HÌNH KH&CN CỦA MỸ TRƢỚC NĂM 1993 VÀBỐI CẢNH
LỊCH SỬKHI TỔNG THỐNG BILL CLINTON LÊN CẦM QUYỀN
1.1 Tình hình KH&CN của Mỹ trƣớc năm 1993
Kể từ khi lập quốc (1776) là một nước vô danh bên bờ Đại Tây Dương,
Mỹ đã từng bước vươn lên khẳng định vị thế của mình. Từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai, Mỹ đã trở thành một quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế
giới. Năm 2000, GDP của Mỹ chiếm gần 30% GDP toàn thế giới [6; tr.15].
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến Mỹ đạt được sự phát triển to
lớn đó là do Chính phủ thường xun coi trọng và đề ra những chính sách
thúc đẩy KH&CN phát triển, đặc biệt là việc nghiên cứu, phát minh.
Mỹ là quốc gia có chính sách phát triển KH&CN từ rất sớm và trong
mỗi thời kỳ chính sách KH&CN của Mỹ lại có những đặc trưng riêng.
Từ khi xuất hiện với tư cách một quốc gia độc lập (1776), Hoa Kỳ đã
khuyến khích khoa học và phát minh. Bản thân Hiến pháp Hoa Kỳ phản ánh

mong ước khuyến khích sự sáng tạo khoa học khi trao cho Quốc hội quyền
“thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và các môn nghệ thuật hữu ích, bằng việc
đảm bảo cho các tác giả và các nhà phát minh đặc quyền đối với những tác
phẩm và khám phá của họ trong những khoảng thời gian nhất định” [93;
tr.59]. Điều khoản này tạo thành cơ sở cho các hệ thống bằng sáng chế và bản
quyền của Hoa Kỳ, những hệ thống này đảm bảo rằng các phát minh và các
cơng trình sáng tạo khác không thể bị sao chép hoặc sử dụng mà không để
cho người tạo ra nó được hưởng một sự đền bù nào đó.
Nhận thức về vị trí, vai trị của KH&CN không chỉ được thể hiện rõ ở
các nhà lãnh đạo nước Mỹ mà cịn bén rễ vào từng cơng dân bình thường.
G.Washington, vị Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, ngay từ đầu đã rất quan
tâm, cổ vũ những phát minh về vũ khí của các nhà khoa học nghiệp dư. Các
công dân Mỹ được thông tin một cách đầy đủ và nhanh chóng về các hoạt
động KH&CN hơn ở các nước khác. Một kết quả nghiên cứu dù là nhỏ mới
8


đạt được cũng được công bố ngay. Chẳng hạn như cuộc triển lãm thế kỷ được
Tổng thống Grant mở tại Philadelphia vào tháng 5 năm 1876 là một ví dụ điển
hình. Quốc hội đã dành riêng một khoản 2 triệu USD, Pennsylvania góp một
triệu USD và Philadelphia có 1,5 triệu USD cho cuộc triển lãm ở công viên
Fairmon. Nơi đây trưng bày các phát minh lớn trong các thập kỷ qua, bao
gồm điện thoại, máy chữ, máy in rônêô và đầu máy xe lửa Corliss 2500 sức
ngựa mà sau này George Pullman đã mua cho nhà máy sản xuất xe lửa có toa
giường nằm [3; tr.660-661].
Cùng với chính sách ưu tiên phát triển của Nhà nước thì việc quản lý
cũng tạo điều kiện hết sức thuận lợi choKH&CN ở Mỹ. Chính sách quản lý
hoạt động khoa học ln kiên trì đường lối phi tập trung hóa. Ngay từ buổi
ban đầu, việc tổ chức nghiên cứu khoa học ở quốc gia này có thể hình dung
như một bức tranh sinh động, được khảm bằng nhiều mảnh ghép với những

hình dáng và màu sắc khác nhau, không theo một đường lối hoạt động và cơ
cấu tổ chức cứng nhắc của một cấp trung ương, nhưng đều hướng vào mục
tiêu duy nhất là phục vụ cuộc sống.
Nhờ những ưu thế trên nhiều phương diện và do có chủ trương nhập cư
tích cực những người có trình độ chun mơn, nước Mỹ là nam châm thu hút
lao động khoa học trên toàn thế giới. Mỗi Viện và trường Đại học ở Mỹ có hệ
thống tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo riêng, với nội dung
và phương thức hoạt động khác nhau. Viện Masachuset thành lập từ năm
1861, hiện có 5 trường đại học với 34 khoa. Trường Đại học Rokefeller do tư
nhân thành lập từ năm 1901, chuyên đào tạo và nghiên cứu các vấn đề y học
theo phương hướng hoàn toàn tự do với khẩu hiệu “Hãy để cho họ (các nhà
khoa học) tìm tịi, cái gì tùy theo ý muốn của họ, hãy giúp đỡ họ, nhưng đừng
có xu hướng làm thầy họ”[49; tr.53-54].
Mỹ là nước đứng đầu thế giới về phát minh, sáng chế, đồng thời cũng
là nước tích cực trong việc thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ thông qua nhiều
phương cách. Amaya Naohiro - cố vấn đặc biệt của Bộ công nghiệp và ngoại
9


thương Nhật Bản coi những tiến bộ kỹ thuật trong những năm cuối thế kỷ
XIX như một nền văn minh: “Nếu như nước Anh là cái nôi của nền văn minh
than đá, thì Mỹ là cội nguồn của nền văn minh dầu hoả và điện”[49;tr.78].
Với sự nở rộ của những phát minh kỹ thuật, Andrew Carnegie đánh giá năm
1886 rằng: “nước Mỹ được sinh ra là để trở thành một nước công nghệ tiên
tiến nhất và dân chủ nhất trong lịch sử thế giới dường như chắc chắn đã
thành hiện thực”[3; tr.769].
Đầu thế kỷ XX, Quốc hội Mỹ đã thông qua những đạo luật hỗ trợ cho
quá trình phát triển công nghiệp theo phương thức mới (liên kết giữa khoa
học kỹ thuật với sản xuất) bằng những hợp đồng ký kết giữa nhà nước và các
công ty tư nhân. Tới thời tổng thống Roosevelt (1901-1909), người ta cịn

chính thức thành lập một Ủy ban để triển khai các hoạt động hỗ trợ này. Ủy
ban này có chức năng đặt hàng, hỗ trợ tài chính và mua các sản phẩm đã đặt
hàng để đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra (1914-1918) đã làm nảy sinh nhu
cầu rất lớn về hàng hóa quân sự, do đó giới cầm quyền Mỹ đã đẩy mạnh đầu
tư vào phát triển khoa học - kỹ thuật. Một mạng lưới các phịng thí nghiệm
Liên bang đã hình thành để thực hiện các hợp đồng cho Chính phủ.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, do những thay đổi nhất định, chính
quyền Liên bang đã giảm bớt sự chú ý đến KH&CNso với giai đoạn trước.
Tuy nhiên, Chính phủ vẫn là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu để thúc đẩy
tiến bộ KH&CNở các ngành tiên tiến nhất của cơng nghiệp. Ví dụ, để phát
triển ngành hàng khơng, chính quyền Liên bang đã thơng qua một chương
trình dưới hình thức luật vào năm 1926 mang tên “Phát triển hàng khơng”.
Đây là một chương trình phát triển quy mơ và lâu dài nhất của Mỹ trong lĩnh
vực hàng không. Trong chương trình này, nhà nước vừa tài trợ cho nghiên
cứu vừa đầu tư cho tổ chức sản xuất phương tiện hàng khơng phục vụ cho cả
mục đích dân sự và quân sự.

10


Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ năm 1939 đã tạo ra những điều kiện
thuận lợi để Mỹ trở thành nơi khởi nguồn của cuộc cách KH&CN hiện đại.
Nếu như Anh là nước dẫn đầu thế giới công nghiệp trong kỷ nguyên máy hơi
nước và than đá thì Mỹ là nước dẫn đầu trong kỷ nguyên điện và dầu hỏa.
Nhất qn với tư tưởng “khoa học, chìa khóa dẫn tới sự tiến bộ của nước
Mỹ” [3; tr.144], Mỹ đã chăm lo xây dựng một lực lượng khoa học hùng hậu
với sự dẫn đầu của khoa học cơ bản, thu hút nhiều tài năng kiệt xuất của thế
giới làm cho khoa học cơ bản và công nghệ hiện đại ở Mỹ phát triển rất
nhanh. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ tập trung vào nghiên cứu ứng

dụng và đã cống hiến cho thế giới nhiều sáng chế kỹ thuật quan trọng, cịn
khoa học cơ bản thì vẫn dựa vào Tây Âu. Từ giữa những năm 30, để lẩn tránh
sự khủng bố của chủ nghĩa phát xít, Albert Einstein và hàng loạt các nhà bác
học lỗi lạc khác người Do Thái từ Đức, Italia, Hunggari… di cư sang Mỹ và
lúc đó cùng với lực lượng khoa học đã có từ trước đã tạo nên đội ngũ các nhà
khoa học đông đảo.
Giai đoạn trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), Chính
phủ Mỹ đã có những thay đổi về chất trong chính sách phát triển KH&CN.
Do nhu cầu cao về quân sự và chính trị cùng tiềm lực kinh tế lớn mạnh, lần
đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, nhà nước đã gánh vác vai trò là người chủ
yếu tổ chức, tài trợ, đầu tư và quản lý một chuỗi các cơng việc quan trọng
nhất của nghiên cứu, hình thành cơng nghệ và tổ chức sản xuất vũ khí nguyên
tử. Từ kinh nghiệm thực hiện dự án này, Chính phủ Mỹ đã triển khai những
chương trình tiến bộ kỹ thuật phức tạp khác như chương trình đổ bộ lên mặt
trăng sau này.
Người ta đã nhận ra rằng “khoa học là chân trời không cùng” (nhận xét
của Bush V., một cố vấn khoa học dưới thời Tổng thống Roosevelt) và những
nghiên cứu cơ bản nhiều khi tách rất xa với những sản xuất ứng dụng, khó
hồn lại ngay các khoản đầu tư thông qua tổ chức ứng dụng khai thác ngay
sau đó. Do vậy, vào những năm 1950, vấn đề lựa chọn những lĩnh vực được
11


ưu tiên để phát triển KH&CNđã được đặt ra. Việc tìm kiếm những giải pháp
tối ưu cho sử dụng nguồn lực của nhà nước ở những hướng mà công nghệ cịn
lạc hậu đã trở thành nền tảng cho chính sách KH&CNcủa Chính phủ Mỹ
trong giai đoạn này.
Cũng từ nhận thức khoa học là chân trời không cùng, ở Mỹ đã dần hình
thành học thuyết “phân chia trách nhiệm”; nghĩa là cả Nhà nước và tư nhân
đều có trách nhiệm đầu tư vào phát triển và ứng dụng KH&CN. Quan niệm

này được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đến thời Tổng
thống Carter (1976-1980) đã trở thành một nguyên tắc ưu tiên hàng đầu của
Chính phủ Mỹ.
Quan niệm căn bản của học thuyết “phân chia trách nhiệm” là: Trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường và sự đối đầu về kỹ thuật quân sự ngày một
tăng, thì Chính phủ Liên bang cần nhận tồn bộ trách nhiệm về phát triển
khoa học cơ bản, phát triển kỹ thuật quân sự để đảm bảo an ninh quốc gia,
còn khu vực tư nhân gánh vác phần trách nhiệm nghiên cứu ứng dụng, phát
triển các tiến bộ kỹ thuật đáp ứng cơ chế thị trường và tạo ra các công nghệ
quân sự cũng như các công nghệ dân dụng theo các hợp đồng từ nguồn ngân
sách [57; tr.228].
Từ cuối thập kỷ 70, đặc biệt là từ đầu những năm 80, do vị thế kinh tế của
Mỹ trên thị trường thế giới yếu đi tương đối, tốc độ phát triển các tiến bộ kỹ
thuật có phần chậm lại và đặc biệt là sự cạnh tranh trên trường quốc tế tăng
lên mạnh mẽ đã buộc giới cầm quyền Mỹ phải xem xét lại học thuyết công
nghệ “phân chia trách nhiệm”.
Khi Reagan và Bush cầm quyền đã thay đổi cơ bản nội dung chính sách
KH&CNcủa nhà nước. Mục tiêu cơ bản của chính sách mới là phục hồi địa vị
lãnh đạo của Mỹ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật trên thế giới và giành được
vị thế cạnh tranh vượt trội trên thị trường công nghệ thế giới. Để đi tới mục
tiêu này, những người khởi xướng của chính sách mới cho rằng nhà nước
cũng như tư nhân đều có nghĩa vụ như nhau tài trợ để tạo ra kỹ thuật và công
12


nghệ mới nhất đáp ứng những tiêu chuẩn thế giới và có đủ sức cạnh tranh với
Nhật Bản và Tây Âu trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Vì vậy,
Chính phủ đã đề nghị Quốc hội Mỹ thơng qua hàng loạt văn bản pháp luật hay
các điều khoản bổ sung để thực hiện tinh thần mới này, để bảo vệ các quyền
lợi khoa học kỹ thuật của Mỹ cũng như khuyến khích chuyển giao cơng nghệ

mới vào lĩnh vực công nghiệp như: “Luật phát triển sáng chế kỹ thuật ở các
xí nghiệp nhỏ”, “Luật chuyển giao cơng nghệ của Liên bang”…
Chính phủ Mỹ đã thi hành chính sách thuế ưu đãi đối với các khoản tiền
đầu tư về nghiên cứu, phát minh. Thí dụ, nếu một cơng ty đầu tư nghiên cứu,
phát minh bỏ ra 1 triệu USD để tham gia đầu tư vào một xí nghiệp sáng chế
1

hoặc một chương trình sáng chế phát minh thì nhà nước cũng chỉ thu số thuế
2

so với mức thuế của các khoản tiền đầu tư khác [6; tr.17].
Giới cầm quyền Mỹ cũng không ngừng tăng cường đầu tư cho việc
nghiên cứu, phát minh. Năm 1981, đầu tư về nghiên cứu, phát minh của Mỹ
chiếm 2,32% GDP, năm 1985 là 2,74% và năm 1989 là 2,6% [6; tr.16]. Trong
tổng số đầu tư của Mỹ cho nghiên cứu, phát minh, phần đầu tư của Chính phủ
chiếm 30%.
Mặc dù đã có chính sách KH&CNphục vụ cho phát triển công nghiệp
dân dụng rõ ràng như vậy, song cả chính quyền Reagan và Bush vẫn dành ưu
tiên đầu tư nhiều hơn cho các chương trình kỹ thuật quân sự khổng lồ để tái
vũ trang cho quân đội. Trong thời gian những năm 1980-1988, đầu tư cho tái
vũ trang nước Mỹ đã lên tới 1.500 tỷ USD. Vào năm đỉnh cao 1986, tỷ lệ đầu
tư vào phát triển kỹ thuật quân sự đã chiếm tới 70% tổng đầu tư cho phát triển
khoa học kỹ thuật phục vụ dân sự trong suốt thời gian từ năm 1982 đến đầu
2

những năm 1990 [28; tr.93]. Ngân sách quốc phòng chiếm đến ngân sách
3

nhà nước; phần còn lại của ngân sách dành cho nghiên cứu khoa học là đầu tư
vào các lĩnh vực vũ trụ, môi trường, y tế và nghiên cứu cơ bản tại các trường

đại học [49; tr.146]. Do tỷ lệ đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ phục
13


vụ dân sự trong khoảng thời gian từ 1982 đến đầu những năm 1990 tương đối
thấp (dưới 38% [31] nên khoảng cách về công nghệ trong nhiều ngành công
nghiệp dân dụng giữa Mỹ và các đối thủ cạnh tranh Nhật Bản, Tây Âu chưa
thu hẹp được hoàn toàn.
Một biện pháp khác mà Chính phủ Mỹ đã sử dụng thành cơng để phát
triển khoa học - kỹ thuật trong thế kỷ XX là thành lập các “làng khoa học - kỹ
thuật”. Đó là nơi tập trung những trường đại học nổi tiếng, những xí nghiệp
sáng chế và những cơng ty đầu tư nghiên cứu, phát minh. Các đơn vị này
cùng hợp tác với nhau để thực hiện những đề tài khoa học.
Như vậy, trong mỗi giai đoạn khác nhau, Chính phủ Mỹ đã có những
chính sách KH&CNkhác nhau nhưng tất cả đều có chung một mục tiêu cuối
cùng là phục vụ cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống xã hội, đảm bảo
an ninh quốc gia.
1.2 Bối cảnh lịch sử khi Tổng thống Bill Clinton lên cầm quyền
1.2.1 Tình hình thế giới
Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Yalta giải thể với sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là nhân tố quan trọng hàng
đầu làm thay đổi mạnh mẽ tình hình thế giới trong những năm cuối thế kỉ XX.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với ưu thế vượt trội về kinh tế và quân sự, hai
siêu cường thế giới Mỹ - Liên xô đã chạy đua trong cuộc “Chiến tranh lạnh”
kéo dài hơn 40 năm (1945-1991). Cuộc chạy đua vũ trang đã tiêu tốn hơn 3000
tỷ USD khiến cho chính quyền Washington khơng đủ tiền đầu tư vào việc đổi
mới kĩ thuật của nền kinh tế, đúng vào lúc nền kinh tế Mỹ và thế giới ở vào
thời điểm bản lề, chuyển từ nền kỹ thuật công nghiệp sang một nền kỹ thuật
mới - kỹ thuật thông tin với những công nghệ mũi nhọn tạo ra năng suất lao
động cao [60; tr.9]. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến vị thế của Mỹ, đặc biệt

trong bối cảnh Nhật Bản, Tây Âu và các nước công nghiệp mới vươn lên mạnh
mẽ, trở thành đối thủ cạnh tranh với Mỹ. Chiến tranh lạnh kết thúc đồng nghĩa
với việc sức mạnh của một đất nước không phải được đo bằng số lượng vũ khí
14


hạt nhân, bằng những cuộc chạy đua vũ trang mà đó là nguồn sức mạnh tổng
hợp về kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của quốc gia đó. Nhà cầm quyền
Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm mà mấu
chốt là đầu tư cho khoa học công nghệ - động lực thúc đẩy nền kinh tế.
Cuộc cách mạng KH&CNvà sự phát triển của lực lượng sản xuất đã và
đang đưa lồi người vào một kỉ ngun mới, trong đó nền sản xuất được đặt
trên cơ sở kĩ thuật công nghệ thông tin và nguồn tri thức sáng tạo của con
người, nền kinh tế trí tuệ tốc độ cao. Tác động tổng hợp của các bước tiến công
nghệ đã tạo ra một mơi trường kinh doanh tồn cầu, chi phí kinh doanh giảm
mạnh và một loạt các loại hình kinh doanh mới ra đời. Nhờ đó, thương mại
quốc tế ngày càng mở rộng, đầu tư quốc tế tăng nhanh. Kết cấu kinh tế nói
chung có những thay đổi rất cơ bản. Các quốc gia, trước hết là các nước phát
triển nhất đang ở trong cuộc chạy đua mạnh mẽ tiến vào kỉ nguyên mới với
những mức độ khác nhau. Mỹ cũng cần đưa ra những chiến lược mới để cạnh
tranh với các đối thủ khác, đặc biệt là Đức, Nhật và các nước Tây Âu.
Tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trong nền kinh tế thế giới, tác động ngày
càng sâu rộng đến tất cả các mặt của đời sống nhân loại, ở tất cả các vùng khác
nhau của hành tinh. Sự phát triển của cuộc cách mạng KH&CN đã tạo cơ sở
vật chất cơng nghệ cho q trình tồn cầu hóa, đặc biệt là cơng nghệ thơng tin
tạo ra khả năng rút ngắn mọi khoảng cách trên hành tinh. Nó vừa là cơ hội lại
vừa là thách thức đối với các dân tộc. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải
giải bài toán làm thế nào để nắm bắt cơ hội và khẳng định vị thế của mình
trong thế giới tồn cầu này.
Trong thế giới tư bản, ba trung tâm kinh tế, tài chính Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản

đã và đang phát triển ở thế kiềng ba chân. Ở khu vực châu Mỹ có sự liên kết giữa
Mỹ và các nước Mỹ Latinh trong đó Mỹ là nước chi phối. Ở khu vực châu Âu,
Liên minh châu Âu (EU) ra đời với vai trò trung tâm của Đức ngày càng tăng, có
vai trị to lớn đối với nền kinh tế, chính trị - xã hội của các nước thành viên. Ở
châu Á - Thái Bình Dương, vai trò dẫn đầu của Nhật ngày càng rõ nét trong sơ đồ
15


“đàn nhạn bay” của các nước trong khu vực đang có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh. Trong thế kiềng ba chân này, Mỹ vẫn có vai trị quan trọng trong hoạt
động kinh tế tư bản chủ nghĩa nói riêng và kinh tế thế giới nói chung. Tuy nhiên,
vị thế của Mỹ ngày càng giảm sút tương đối, nhất là ở thời kì cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỉ XX trở đi. Sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản, Đức
làm Mỹ suy yếu và mất lợi thế cạnh tranh trên một loạt ngành công nghiệp truyền
thống. Với những đột phá trong công nghệ chế tạo và bán dẫn, Nhật Bản giành
ngôi đầu thế giới từ Mỹ trong hai ngành công nghiệp chế tạo chủ chốt là ôtô và
điện tử. Kinh tế Đức phát triển mạnh, chiếm ưu thế trong các ngành cơ khí chế
tạo. Nếu như ngay sau năm 1945, Mỹ đứng đầu tuyệt đối, chiếm 40% tổng sản
phẩm kinh tế thế giới; đến năm 1950, cả Tây Âu và Nhật Bản gộp lại mới chiếm
2

26,3% nền kinh tế thế giới và bằng của Mỹ nhưng đến năm 1970, Tây Âu và
3

Nhật Bản cộng lại đạt tới 32,4%, lớn hơn Mỹ 1,5 lần (Mỹ là 23%). Năm 1993,
trong khi nền kinh tế Mỹ chiếm 21,5% nền kinh tế thế giới, thì chỉ riêng Nhật Bản
và Cộng hòa Liên bang Đức cộng lại đã đạt 26,4%, lớn hơn nền kinh tế của Mỹ
[4; tr.240]. Cuộc cạnh tranh trong thế giới tư bản nói riêng đang ngày càng trở nên
sôi động. Mỹ vẫn đứng đầu nền kinh tế thế giới, nhưng để lấy lại vị trí trước đây
của mình, Mỹ cần đầu tư nhiều hơn cho khoa học kỹ thuật để tạo nên sự bứt phá
về kinh tế - văn hóa - xã hội.

Thế giới đa trung tâm đang hình thành, trong đó khơng một cường quốc
nào giành được ưu thế tuyệt đối như hai siêu cường Mỹ, Xơ trong thời kì
Chiến tranh lạnh, song nước Mỹ vẫn còn ưu thế tương đối so với các cường
quốc khác trong một thời đoạn tương đối dài. Những cường quốc nói tới ở
đây là Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Âu, các nước cơng nghiệp mới…
Nga thì đang sa lầy sau quá trình khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
(1991) và có thể đến thế kỉ XXI mới có thể gượng dậy được một cách vững
chắc. Trung Quốc có nhiều tiềm năng trở thành đối thủ đáng gờm của Mỹ
song còn đang trên đường phát triển với những bất trắc nội bộ khôn lường.
Nhật Bản và Tây Âu chưa giành được thế trội hẳn so với Mỹ trong tương lai
16


gần. Những trung tâm sức mạnh khác được dự đoán như Ấn Độ, ASEAN,
những nước đứng đầu ở Mỹ Latinh… có thể tham gia chiến lược chung
nhưng cũng cịn hạn chế trong một giai đoạn dài hơn nhiều so với những
trung tâm kia. Nhưng sự xuất hiện và phát triển của họ cũng khơng thể xem
thường. Các tính tốn chiến lược của Mỹ đều phải tính đến hiện trạng và triển
vọng của tình hình thế giới.
Hịa bình, hợp tác và phát triển đã và đang là xu hướng nổi trội trong quan
hệ quốc tế. Chiến tranh lạnh chấm dứt khiến cho cuộc cạnh tranh, chạy đua về
kinh tế giữa các cường quốc vốn đã diễn ra thường xuyên trở nên mạnh mẽ hơn
bao giờ hết. Hầu như mọi quốc gia đều coi sức mạnh kinh tế là nền tảng sức mạnh
của đất nước. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp, trở
thành động lực chính của xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa. Xu hướng này cùng
với cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ, q trình tồn cầu hóa… làm tăng
thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu vực, quốc gia, dân tộc trên thế giới. Các
quốc gia đều nhận thấy vấn đề cấp bách hàng đầu là phải ra sức tận dụng mọi
nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Sức mạnh quốc gia khơng
cịn tùy thuộc vào sức mạnh quân sự, chính trị mà sức mạnh kinh tế nổi lên hàng

đầu, trở thành trọng điểm. Cạnh tranh kinh tế đã và sẽ trở nên quyết liệt hơn.
Trước những địi hỏi khơng ngừng của tình hình thế giới, tất cả các nước tư bản
trong đó có Mỹ, đều phải điều chỉnh chiến lược đối nội và đối ngoại, đặc biệt là
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược KH&CN để tạo cho mình một vị
thế có lợi nhất trong quan hệ quốc tế.
Thế kỉ XX kết thúc bằng một thời kì biến động có tính chất then chốt của
thập niên 90. Đối với chủ nghĩa tư bản nói riêng, thập niên 90 có thể coi là
“thập kỉ rất nóng và cũng rất lạnh, một thập kỉ tăng trưởng và khủng hoảng,
thủ cựu và hỗn loạn” [38; tr.401]. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thập
niên 90 là sự đan xen của tăng trưởng và khủng hoảng, phục hồi và những bước
tiến phưu lưu, các quá trình thống nhất, đa dạng trong một thế giới toàn cầu

17


×