LỜI NÓI ĐẦU
T
rong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta
không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh
tế đất nước, mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986
đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước).
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì
tất yêú phải đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: Xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh. Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức
tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam là
một nội dung phức tạp và rộng. Do trình độ hạn hẹp và có hạn trong một
bài tiểu luận nên em không tránh khỏi những khiếm khuyết trong việc
nghiên cứu. Em rất mong được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo để bài viết
này của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
1
I. HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI MÁC- LÊ NIN.
Mọi người đều biết trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có
không ít cách tiếp cận, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất
phát từ những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự
phan chia lịch sử tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng
hạn như nhà triết học duy tâm Hê - ghen (1770 - 1831) phân chia lịch sử xã
hội loài người thành ba thời kỳ chủ yếu: thời kỳ phương Đông, thời kỳ cổ
đại, thời kỳ Gree - ma - ni. Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phu- ri-ê
(1772-1837) chia lịch sử xã hội thành bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội,
giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn văn minh.
Mọi người cũng đã quen với những khái niệm thời đại đồ đá, thời đại
đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước. . . và gần đây là các
nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu
công nghiệp.
Mỗi cách tiếp cận trên có những điểm hợp lý nhất định và do đó đều
có ý nghĩa nhất định, nhưng chưa nói lên bản chất sự phát triển của xã hội
theo một cách toàn diện tổng thể mà do đó có những hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch
sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật
để nghiên cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã
hình thành nên học thuyết về “hình thái kinh tế xã hội”.
Hình thái kinh tế xã hội là một khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định. Với một quan hệ sản xuất c
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
2
Lý luận về hình thái kinh tế xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ
sở xem xét cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Tức toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của thời
đại: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật. . . Do đó, nó cắt
nghĩa xã hội được sáng tỏ hơn, toàn diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá
trình phát triển của xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội mới với tư
cách là “Hòn đá tảng” của xã hội học Mác xít nói chung cho phép chúng ta
hình dung quá trình phát triển của lịch sử là một quá trình tự nhiên. Loài
người đã trải qua năm hình thái kinh tế: xã hội cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và ngày nay đang quá độ lên
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt
vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay
thế. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, hoặc khủng
hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá hơn
không thể phù hợp thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất
hiện một phương thức sản xuất mới toàn diện hơn, có quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất.
Như vậy, bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ
biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ về mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chúng ta
phải nắm bắt được thế nào là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
1)
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là
biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu
sản xuất (quan hệ nhất là công cụ lao động) với người lao động với kinh
3
nghiệm và kỹ năng lao động nghề nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò
quyết định phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật
chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
quản lý trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong
quan hệ sản xuất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định
các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một
cách khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người.
Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội và tính
phương pháp đa dạng trong hình thức biểu hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện
chứng với nhau biểu hiện ở chỗ:
+ Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển.
Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất mà trước hết là công cụ.
+ Công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ
sản xuất hiện có và xuất hiện ddòi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ thay thế bằng quan hệ sản xuất mới.
+ Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất
(phù hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ
sản xuất (ổn định tương đối) quan hệ sản xuất lạI trở thành xiềng xích kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp ). Phù hợp và
không phù hợp là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu
thuẫn.
4
+ Khi phù hợp cũng như không phù hợp với lực lượng sản xuất , quan
hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất thể hiện
trong nội dung sự tác động trở lạI đối với lực lượng sản xuất, mục đích xã
hội của lực lượng sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích. Từ đó
hình thành những yếu tố thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng
thông qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản.
Phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất như sự thống nhất giữa hai mạt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất
xã hội. Trong “Hệ tư tưởng Đức” (1846) lần đầu tiên Mác- Ănghen đã hình
dung sự thống nhất đó như là một “quan hệ song trùng”, giữa hai “sự trao
đổi chất” tất yếu và phổ biến ở mọi nền sản xuất - xã hội. Đó là “trao đổi
chất giữa người với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và giữa người với người
(quan hệ sản xuất)”.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất được Mác - Ănghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với trình độ , tính chất của lực lượng sản xuất.
Đây là một trong những quy luật cơ bản của đời sỗng xã hội. Quy
luật này chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động.
Khi công cụ lao động sản xuất đựoc sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để
sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của nhiều
người thì lực lượng sản xuất có tính chất cá thể, công cụ sản xuất được
nhiều người sử dụng.
5
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và
hiện đại của công cụ sản xuất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ
sảo của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội , tổ chức quản
lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu.
Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thứoc đo trình độ của
phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi
của quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, Mác
nói: “Cái cối xay quay bằng tay cho xã hội có lãnh chúa phong kiến, cái cối
xay chạy bằng hơi nước cho xã hội có nhà tư bản”.
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc
con người không ngừng cải tiến, hoàn thiện và chế tạo ra những công cụ, tri
thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao
động cũng ngày càng phát triển.
Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản
xuất phải thích ứng với môi trường. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình
thành và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm
thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn của
chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là giai
cấp là mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc
cách mạng xã hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế
xã hội.
6
Ví dụ: do công cụ sản xuất chủ yếu bằng đã thô sơ, trình độ hiểu biết
hạn hẹp, để duy trì sự sống chống lại mọi tai hoạ của thiên nhiên , con
người phải lao động theo cộng đồng. Do vậy đã hình thành quan hệ sản
xuất cộng sản nguyên thuỷ. Công cụ kim loại ra đời thay thế cho công cụ
bằng đá, lực lượng sản xuất phát triểnnăng suất lao động nâng cao sản
phẩm thặng dư xuất hiện , chế độ chiếm hữu nô lệ dựa trên quan hệ sản
xuất tư hữu.
Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến, ở các nước Tây Âu
lực lượng sản xuất đã mang yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất
phong kiến. Mặc dù hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến được
thay đổi liên tục từ địa tô lao dịch đến địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền song
quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp vẫn không chứa đựng được nội dung
mới của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất
phong kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng sản xuất phát triển
cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất đã
hình thành lao động chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên
môn hoá cao. Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn
gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Giải quyết mâu thuẫn
đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập
quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Theo Mác, do có
được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phát triển sản xuất
của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn của mình, loài người
thay đổi các quan hệ sản xuất của mình.
Mặc dù bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính cách là
hình thức quan hệ sản xuất củng cố những tác động nhất định trở lại đối với
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy, định
7
hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển ngược lại. Nếu lạc
hậu hơn so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay
chỉ là tạm thời so với tất yếu khách quan của cuộc sống nhưng quan hệ sản
xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt của
quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu
giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, đảm bảo trách nhiệm từ sản xuất mở
rộng. Mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất,
tinh thần với người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác
động của quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao
của các phương thức sản xuất hay chính là của các hình thái kinh tế - xã
hội.
Dưới những hình thức và mức độ khác nhau thì con người có ý thức
được hay không và quy luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng
chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh
vực ngoài kinh tế, phi kinh tế.
2)
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Không chỉ đặc trưng bằng quan hệ sản xuất mà nó còn đặc trưng bởi
một kiến trúc thượng tầng xây dựng trên những quan hệ sản xuất của chính
nó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết
chế tương ứng và những quan hệ nội tạng của thượng tầng, đó là những
quan đIểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,
8
triết học và các thể chế tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội và
các toàn thể quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định
người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống
trị nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản
xuất mới là quan hệ mầm mống của xã hội sau.
Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh
tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ
sản xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi
phối các thành phần kinh tế khác.
Xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng,
từ những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nảy sinh giai
cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế sẽ
thống trị về chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã
hội, trong đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí
quan trọng nhất.
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí
thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất
cả các lĩnh vực khác).
Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng
tương ứng. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội
và dời sống tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu
thuẫn kinh tế, từ những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng.
9
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự
thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những
hình thái kinh tế xã hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình
thái kinh tế xã hội khác trong các xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở
hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị
trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng
được biểu hiện là mâu thuẫn cuả giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ
tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào
đó là kiến trúc thượng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở
hạ tầng mới.
Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ,
thay bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp
thống trị mới. Đương nhiên không phải “Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập
tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng”.Trong quá trình hình
thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến
trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liềnvới cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó.
Vì vậy giai cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọ một số bộ phận hợp lý để
sử dụng nó xây dựng xã hội mới.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi về kiến trúc
thượng tầng là một quá trình diễn ra hết sức phức tạp, thường trong xã hội
có đối kháng giai cấp, tính chất phức tạp ấy được thể hiện qua các cuộc đấu
tranh giai cấp. Tính chất này được bộc lộ rõ nét nhất là phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn thấp nhất là xã hội chủ nghĩa), giai cấp
cách mạng phải thực hiện cuộc đấu tranh lật đổ kiến trúc thượng tầng cũ
thiết lập hệ thống chuyên chính của mình, sử dụng nó như là một công cụ
từng bước đấu tranh cải tạo định hướng xây dựng và hoàn thiện cơ sỏ hạ
tầng mới.
10
b) Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng
với cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ thuộc một
chiều vào cơ sở hạ tầng mà trong qúa trình phát triển, chúng có những tác
động qua lại với nhau và ảnh hưởng lớn đến cơ sở hạ tầng cũng như các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện
trong các mặt sau:
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực hiện
nhiệm vụ đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây
dựng bảo vệ củng cố phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thượng tầng
chính là công cụ của giai cấp thống trị , các bộ phận khác của kiến trúc
thượng tầng cũng có tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường
những tác động ấy phảI thông qua hệ thống chính trị, pháp luật hay thể chế
tương ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không
giảm đi mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Trái
lại kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội xã
hội chủ nghĩa nhằm xây dựng lại xã hội mới. Chính mục đích đó quyết định
tính tích cực càng tăng của kiến trúc thượng tầng.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện
trong 2 trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với
quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngược lại,
nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã hội. Những sự tác động kìm hãm đó
chỉ là tạm thời sớm muộn cũng bị cách mạng khắc phục. Về cơ bản, bản
chất giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính là bản chất giữa kinh
11