Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thuyết đức trị của khổng tử và ảnh hưởng của nó đối với phương thức quản lý xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.93 MB, 90 trang )

I
QUC GIA H NI
HC


TRNG I
KHOA HC
X HI
ô HC


ã V NHÂN VĂN

NGUYỄN QUỐC ĐOÀN

THUYẾT ĐỨC TRỊ CỦA KHổNG TỬ VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIÊT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẨN: TS. Đ ỗ MINH CƯƠNG
Cơ QUAN CÔNG TÁC: VIỆN KHOA HỌC Tổ €HỨC. BAN-TQ CHỨC ĩítU N G
UƠNG

ĐAI HOC QUỐC GIA HÀ NƠI
TRUNG TÁM THÒNG TIN THƯ VIỀN

V- u/ýq


HÀ NỘI - 2006


LỜI CAM ĐOAN
Tơi


cơng

x in

cam đoan

trìn h

n g h iê n

đ ộ c l ậ p của t ô i .
sử

dụng

tro n g

L uận
cứ u

N hững t ả i
lu ậ n


văn

văn

nảy

khoa

học

liệ u

được

hoàn

to à n

c h ầ n t h ự c vả c ó x u ấ t x ứ r õ r à n g .
N êu



đ iề u



sai

tr á i,


tô i

x in

c h ị u h o à n to à n t r ắ c h n h i ệ m .

Hà nội, ngày 15 tháng 09 năm 2005


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Tr.1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Tr. 1

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Tr.2

4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của luận vãn

Tr.4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


Tr.5

6. Những đóng góp mới của luận văn

Tr.5

7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Tr.5

8. Kết cấu của luận văn

Tr.5
PHẦN NỘI DUNG

Tr.6

CHƯƠNG 1: MỘT s ố NỘI DUNG ĐỨC TRỊ c ơ BẢN CỦA KHổNG TỬ

Tr.6

1.1.

Hoàn cảnh và điều kiện ra đời của thuyết Đức trị.

Tr.6

1.2.

Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử - tác giả của Thuyết Đức trị.


Tr.8

1.3.

Nội dung cơ bản của thuyết Đức trị.

Tr. 10

1.3.1. Quan điểm của Khổng Tử về Trời, Người và đạo cai trị - quản lý.

Tr. 10

1.3.2. Nguyên tắc và các phương thức quản lý xã hội của thuyết Đức trị.

Tr. 19

1.3.2.1.

Nguyên tắc coi trọng, đề cao mặt đạo đức của con người và điều chỉnh

các quan hệ xã hội dựa vào các chuẩn mực đạo đức chung.
1.3.2.2. Các phương thức quản lý cơ bản của thuyết Đức trị.

Tiểu kết chương 1

Tr.19
Tr.23

r.36


CHƯƠNG 2: THUYẾT đức

tr ị

Đối v ớ i

phư ơng thức q u ả n lý

XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Ảnh hưởng của thuyết đức trị đối với phương thức quản lý xã hội ở Việt Nam.

Tr.38
Tr.38

2.1.1. Phương thức quản lý xã hội ở Việt Nam trong lịch sử dưới ảnh hưởng của

thuyết Đức Trị.

Tr.38

2.1.2. ảnh hưởng của thuyết Đức trị trong phương thức quản lý

xã hội Việt Nam hiện đại.

Tr.50

2.2. Vờn đề phát huy tính tích cực của thuyết Đức trị và hạn chế Tiêu cực của nó đối
với phương thức quản lý xã hội nước ta giai đoạn hiện nay.
Tiểu kết chương 2


Tr.66
Tr.77

PH Ầ N K ẾT L UẬN
DANH MỰC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tr.79
T r .8 3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đức trị là một nội dung cốt yếu của Nho học, ỉà một lý luận về chính trị,
quản lý có ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội từ thời cổ đại đến nay, khơng chỉ ớ
Trung Quốc - nơi nó sinh ra - mà còn ở cả một số nước khác trong khu vực.
Nằm cạnh Trung Quốc, Việt Nam không thể không chịu sự ảnh hưởng của
Nho học - Nho giáo. Từ khi du nhập cho đến ngày nay, Nho giáo đã có những
bước thăng trầm biến đổi, từ chỗ bị phản kháng mãnh liệt trong đời sống cộng
đồng dân cư người Việt ngay buổi ban đầu, Đức trị Nho giáo đã dần dần chiếm
lĩnh, dần dần khẳng định vị trí của mình từ trong đời sống làng xã cho đến các
triều đinh phong kiến trung ương tập quyển. Ngày nay, trước những biến đổi lớn
lao của xã hội, Đức trị Nho giáo khơng cịn độc tơn là một cơng cụ cai trị, quản
lý xã hội, song nó vẫn chứa đựng một số hạt nhân hợp lý và giá trị bền vững cần
được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và năng lực quản lý của Nhà nước
đối với xã hội là một vấn đề quan trọng và cấp bách của nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Cải cách tổ
chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới

nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng bộ máy
nhà nước tinh gọn; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đáng và đang
viên trong các cơ quan nhà nước”. [14, 132]
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đang rất chú ý tới việc đổi mới phưtmg thức
lãnh đạo, quản lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Q
trình ấy địi hỏi cần tiến hành thường xun, lâu dài, cần tiếp cận ở nhiều phương
điện khác nhau trong đó một vấn đề rất quan trọng là cần tổng kết thực tiễn quá
trình lãnh đạo, quản lý xã hội ở nước ta trong lịch sử - từ đó tìm ra yếu tố tích
cực để phát huy, khắc phục những hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm cho CÔQ2
tác lãnh đạo, quản lý hiện nay. Lịch sử và văn hố truyền thống Việt Nam nói
1


ehung, lĩnh vực quản lý xã hội nói riêng, chịu ảnh hưởng rất sâu nặns tư tưởng
của Khổng Tử và Nho học; từ vấn đề quản lý gia đình đến tổ chức đời sống cộng
đồng làng xã, các tổ chức xã hội khác đều mang những dấu ấn, chịu những ảnh
hưởng nhất định của tư tưởng và lý luận Đức Trị, cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực
của nó.
Vì vậy nghiên cứu đề tài “Thuyết Đức trị của Khổng Tử và ảnh hưởng
của nó đối với phương thức quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay” là xuất phát
từ tính cấp bách của lý luận và thực tiễn nước ta. Đó chính là lý do tơi chọn đề tài
này làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Từ thời kỳ Đổi mới đến nay Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị
quyết, văn bản pháp luật có liên quan, đồng thời đã tổ chức nhiều chương trình
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn về vấn đề này.
Ví dụ:

Chương trình KX.03 (2001 - 2005): Xây dựng Đảng trong điểu kiện tron %
điều kiện mới.

Chương trình KX.04 (200ỉ - 2005): Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Chương trình KX.J0 (2004 - 2010): Tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ thốn {ị
chính trị nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong lĩnh vực học thuật, nghiên cứu về Khổng Tử và Nho giáo là một vấn
đề rất hấp dẫn, thu hút sự chú ý của nhiều thế hệ học giả ở nhiều nước khác nhau
trên thê giới, ở Việt Nam bên cạnh các sách dịch sang tiếng Việt của các học
giả Trung Quốc như Phùng Hữu Lan (Đại cương lịch sử Triết học Trurm Quốc),
Đàm Gia Kiện (Lịch sử văn hóa Trung Quốc)... cịn có các cơng trình lớn nghiên
cứu về Nho giáo nói chung và Nho giáo ở Việt Nam nói riêng của các nhà nghiên
cứu nước ta như Trần Trọng Kim (Nho giáo), Nguyễn Hiến Lê (Khổng Tử),
Nguyễn Duy Cần (Nhập môn triết học phương Đông), Nguyễn Khắc Viện (Bàn
về Nho giáo), Vũ Khiêu (Nho giáo xưa và nay, Nho giáo và phát triển ờ Việt
2


Naffi'JT Nguyên Taĩ Thư (Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1), Nguyễn Đăng 111ục
(Lịch sử Triết học phương Đông)...
Bên cạnh cách tiếp cận truyền thống về Khổng học và Nho giáo là nghiên
cứu các tư tưởng triết học, đạo đức học, thời gian gần đây còn xuất hiện cách tiếp
cận với Nho học từ góc nhìn hẹp hơn, chun sâu hơn. Ví dụ trons các cuốn
sách: Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh hiện đại (NXB Văn hố
Thơng tin, Hà Nội, 1997), Các học'thuyết quản lý (NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996), Đại cương lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới (NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1999). Về thuyết Đức trị, các nhà nshiên cứu Ihường khai
thác vấn đề này dưới góc độ đạo đức học, giáo dục học và chính trị học. Dưới góc
độ đạo đức, thuyết Đức trị được quan tâm khai thác các chuẩn mực và quy phạm
đạo đức xã hội. Dưới góc độ chính trị, thuyết Đức trị được coi như một phương
thức cai trị đất nước, một cơng cụ thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà
nước, nó thường được dùng với nshĩa để phân biệt với mặt đối lập của nó là

thuyết Pháp trị. v ề những cách tiếp cận này thì đã có rất nhiều cơns trình khoa
học dưới dạng các sách chun khảo, giáo trình đạo đức học và chính trị học
giảng dạy trong các học viện, các trường đại học hav những bài viết đã được xã
hội hóa. ở đây luận văn khơng đi vào phân tích, nshiên cứu thuyết Đức trị dưới
những góc độ chuyên biệt trên, mà chỉ tập truns đi vào phân tích, nghiên cứu
thuyết Đức trị từ góc độ Triết học liên quan tới vấn đề quản lý xã hội, khai thác
những tư tưởng, nguyên tắc, phương pháp quản lý xã hội của thuyết Đức trị. Từ
đó khảo sát sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, phán tích, bình luận những ảnh
hưởng tích cực cũng như tiêu cực để tìm ra lời giải thích về vấn đề này cho công
việc quản lý xã hội ở Việt Nam.
3. M ục đích và nhiệm vụ của L uận văn
Mục đích của Luận văn là làm rõ những nội dung cơ bản của thuyết Đức
trị và ảnh hưởng của nó trong việc quản lý xã hội ở nước ta trong lịch sử và hiện
nay, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy giá trị tích cực, hạn
I

J


chế tiêu cực của học thuyết này đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý xã hội của
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục đích trên Luận văn có các nhiệm vụ chính:
- Tìm hiểu hồn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của thuyết Đức trị của
Khổng Tử.
- Xem xét ảnh hưởng của thuyết Đức trị đối với việc quản lý xã hội ở nước
ta trong lịch sử và hiện đại, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
- Đề xuất một số giải pháp chung nhằm phát huy giá trị tích cực

của Đức


trị Nho giáo đối với quản lý xã hội ở nước ta hiện nay.
4.

Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của Luận văn

Nho học là một trào lưu tư tưởng, học thuyết triết học, chính trị học tồn tại
và phát triển trong nhiều nghìn năm với nhiều tác giả tiêu biểu. Trong Luận văn
này chúng tôi chỉ nghiên cứu Nho học của Khổng Tử, cụ thể là thuyết Đức trị của
Khổng Tử, trong đó luận văn tập trung nhất tới những luận điểm liên quan tới vấn
đề quản lý xã hội.
Quản lý xã hội là một khái niệm rộng. Trong luận văn này, khái niệm quản
ỉý xã hội được xem xét từ hai khía cạnh chính:
- M ột là từ góc độ quan hệ xã hội: xã hội là một tổng hoà của các mối
quan hệ xã hội do nhiều người tạo ra, khơng chỉ các quan hệ kinh tế mà cịn các
mối quan hệ thiết yếu khác như chính trị, văn hóa, tơn giáo, đạo đức... Quản lý xã
hội, được xét là một chức năng của xã hội, là quản lý các lĩnh vực cơ bản của đời
sống xã hội chứ không phải chỉ quản lý một lĩnh vực nào.
- H ai là xem xét từ góc độ cấu trúc, quy mơ của tổ chức xã hội có thể phân
chia thành bốn hình thức, cấp độ của quản lý xã hội là: (1) gia đình, (2) tổ chức
vi mồ (cơ quan, trường học, doanh nghiệp...), (3) tổ chức vĩ mơ (Chính phủ, Nhà
nước, Quốc gia) và (4) xã hội loài người.
Từ góc độ triết học luận văn cố gắng tiếp cận quản lý xã hội một cách tổng
thế, kết hợp việc tiếp cận quản lý toàn diện các mối quan hệ xã hội, các lĩnh vạrc

4


của đời sống xã hội - với cách tiếp cận quản lý xã hội ở ba cấp độ: gia đình, tổ
chức và xã hội VI mô (nhà nước, quốc gia, dân tộc).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngồi ra luận văn cịn sử dụng kết hợp các phương
pháp logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, hệ thống cấu trúc,... trong quá trình giải
quyết các vấn đề nêu ra.
6. Những đóng góp mới của Luận văn.
Luận văn góp phần hệ thống hoá những quan điểm của Khổng Tử về quản
lý xã hội, khai thác thuyết Đức trị theo một hướng tiếp cận mới: triết học trong
quản lý xã hội.
Luận văn cũng góp phần làm rõ ảnh hưởng của thuyết Đức trị, cả mặt tích
cực và tiêu cực, đối với phương thức quản lý xã hội ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Những kết quả nghiên cứu của Luận văn đóng góp cho nhận thức sâu hơn,
đầy đủ hơn về ảnh hưởng của Khổng Tử và Nho học đối với xã hội và quản lý xã
hội Việt Nam.
Luận văn có thể sử dụng làm một tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy các chun đề, mơn học có liên quan đến tư tưởng của Khổng Tử.
Những đề xuất, giải pháp của luận văn là những kiến giải có cơ sở khoa
học góp phần vào việc quản lý gia đình, quản lý xã hội một cách có hiệu quả
hơn.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội
dung của Luận văn được chia thành 2 chương, 5 tiết.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ NỘI DUNG ĐỨC TRỊ c ơ BẢN CỦA KHổNG TỬ


1.1. Hoàn cảnh và điều kiện ra đời của thuyết Đức trị
Trung Quốc là đất nước rộng lớn, có nền văn hố và lịch sử lâu đời. Trước
đời Hạ, dân tộc Trung Hoa ở vào giai đoạn xã hội cộng sản ngun thuỷ. Ĩ đó
mọi người sống khơng có bóc lột, khơng có giai cấp, cùng lao động, cùng hưởng
thụ. Họ bầu ra những người tù trưởng để gánh vác công việc chung.
Bước sang thời Hạ (khoảng thế kỷ XXI- XVI TCN), chế độ chiếm hữu nô
lệ (theo kiểu phương Đông) được xây dựng, các tư tưởng quản lý bắt đầu hình
thành từ thời này chỉ bàn tới quyền lực và cách thức cai trị của các hoàng đế,
quân vương đối với thiên hạ và thần dân của họ. Giai cấp chủ nô đã đề ra các
chính sách để phục vụ cho giai cấp của mình, bắt mọi nô lệ phải tuân theo. Thành
hào được xây dựng, hình thành quân đội, đất nước bắt đầu phân chia theo địa
vực, xây dựng cơ cấu nhà nước. Các đời vua thời kỳ này sử dụng mọi hình phạt
tàn khốc để thống trị nhàn dân, bóc lột sức lao động của các nơ lệ. Nói chung là
họ dùng bạo lực, võ lực một cách tự nhiên, tuỳ ý chứ khơng nói nhiều đến “đức
trị”. Giai cấp thống trị thi hành chế độ thế tập cha truyền con nối thay cho chè độ
thiền nhượng (nhường ngôi) của xã hội nguyên thuỷ. Để củng cố địa vị thống trị,
họ dùng tư tưởng “Thiên mệnh” (tất cả mọi người trên thế giới do Thượng đế sắp
xếp và định mệnh). Tư tưởng này phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, dùng
để luận chứng tính hợp lý của chính quyền nhà nước của giai cấp chủ nô. [61, 20]
Sang đời nhà Chu (thế kỷ XI - 221 TCN), tư tưởng quản lý đã thay đổi
bằng cách bổ sung “Đức” vào thuyết “Thiên mệnh”. Họ đã đề xuất tư tưởng
“kính đức báo dàn”, thi hành chính sách thống trị tương đối ơn hoà. Tuy nhiên, tư
tưởng “Đức trị” chỉ thật sự được đề cập đến ở cuối đời Xuân Thu với sự xuất hiện
của nhà tư tưởng lớn: Khổng Tử.

6


Từ thế kỷ thứ VIII TCN, xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có nhiều

biến động lớn lao, toàn diện kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ III TCN... Lịch sử
gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc.
Về lực lượng sản xuất và sự phát triển kinh tế: đồ sắt xuất hiện phổ biến,
công cụ sản xuất bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ bằng đồng, đá trước đây
đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho nền sản xuất nông nghiệp và thủ cống
nghiệp. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Vào thế kỷ
VI - V TCN xuất hiện những thành thị thương nghiệp buôn bán xuất nhập nhộn
nhịp ở các nước Hàn - Tề - Sở.
Về mặt xã hội, thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng
bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng
lớp địa chủ mới lên. Đó là hiện tượng trong Kinh Thi nói “Hai đơ thị sánh nhau
trong nước”. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh
mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu như vào
đầu thời Chu, “đất đai ở khắp dưới gầm trời này không đâu không phải là đất của
nhà vua, người dân nào cũng là bề tôi của nhà vua” (Kinh Thi - Chu tụng) thì nay
cái quyền sở hữu tối cao về đất và dân ấy đã bị một lớp người mới lên chiếm làm
tư hữu.
Về mặt chính trị, giai cấp quý tộc nhà Chu bị mất đất, mất dân, địa vị kinh
tế ngày càng sa sút, và đương nhiên địa vị chính trị, ngơi Thiên tử của nhà Chu
chỉ cịn là hình thức. Sự phân biệt sang - hèn dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của
chế độ thị tộc tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở tài sản.
Các nước chư hầu nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh nữa, khơng chịu
cống nạp, mang qn thơn tính lẫn nhau, tự xưng là Bá; chiến tranh xảy ra liên
miên, từ hàng nghìn nước thời Tày Chu, đến thời Xuân Thu chỉ còn hơn trăm
nước lớn và sang thời Chiến Quốc chỉ còn lại bảy nước lớn là: Sở, Hàn, Nguỵ,
Triệu, Yên, Tề, Tần. Chế độ chính trị mục nát, chiến tranh liên miên, trật tự xã
hội hỗn loạn xơ đẩy quần chúng nhân dân vào cảnh đói nghèo, ly tán, áp bức...
Hậu quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu giai

7



tầng của xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện; mới cũ đan xen và mâu thuẫn
ngày càng gay gắt [63, 25]. Vì vậy, mọi người ln khát khao cuộc sống bình
n, hạnh phúc trong một đất nước hồ bình.
Mặc dù kinh tế, chính trị suy đồi song điểm đặc biệt của văn hoá, xã hội
thời kỳ này là tồn tại một khơng khí học thuật dân chủ, trí thức và nhân tài được
coi trọng; các vương công, đại thần đều mong thu hút, sử dụng được nhiều “quàn
sư”, những người có tài về văn, võ để giúp mình mở rộng thế lực và lãnh thổ.
Chính trong thời đại lịch sử đặc biệt này, các tư tưởng triết học, chính trị,
đạo đức, mỹ học w ... đã nảy sinh, phát triển phong phú và vô cùng rực rỡ. Với tư
cách là hình thái ý thức xã hội thì đây chính là tấm gương phản chiếu những biến
động của đời sống xã hội Trung Hoa cổ đại. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia
chư tử”, “Bách gia tranh minh”. Mục đích cuối cùng của các tư tưởng này là tìm
ra những phương thuốc hữu hiệu nhất để giải quyết nhiệm vụ xã hội - “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”; phát triển kinh tế, ổn định chính trị, thiết lập lại trật tự xã
hội, đảm bảo đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc. Một trong những tư tưởng nổi
bật trong số các tư tưởng khi đó, thậm chí ảnh hưởng đến suốt chiều dài lịch sử
Trung Hoa là Thuyết Đức trị của Khổng Tử.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử - tác giả của thuyết Đức trị
Khổng Tử (551 - 479 TCN) là người nước Lỗ, tên là Khâu, tự là Trọng Ni,
sinh ra trong một gia đình q tộc sa sút. Khổng Tử - ơng thày họ Khổng - là
cách gọi tơn kính của nhân dân Trung Quốc đối với người được coi là sáng lập ra
Nho gia. Cha của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột, một quan võ nhỏ của triều đình
và mẹ là Nhan Thị. Năm 549 trước Công nguyên Thúc Lương Ngột chết để lại
người vợ goá, đứa con thơ cùng một gia tài khơng lấy gì làm sung túc [58, 22].
Tuy mồ cơi cha từ nhỏ và cuộc sống gia đình ngày càng bức bách nhưng được mẹ
chăm sóc chu đáo, ngay từ tuổi thơ ấu, Khổng Tử đã là người có chí lớn, vượt qua
mọi khó khăn trong đời sống của một gia đình quý tộc nhỏ sa sút, ham học, sớm
có ý thức về sứ mệnh của mình là người “giáo hoá” các di sản văn hoá của Chu


8


Cơng, trong đó có tư tưởng văn trị hay đức trị cho xã hội thời ông và cho các đời
sau.
Vào thời Khổng Tử các giá trị và lễ nhạc của nhà Chu bị băng hoại, thời
thế loạn lạc không dứt, một nội dung quan trọng trong lập chí của Khổng Tử là
thông qua khôi phục lễ mà khiến khôi phục lại trạng thái an thuận thái hoà của
Tây Chu ở thời kỳ hưng thịnh. Khổng Tử muốn theo nghiệp Chu Cơng, lấy việc
phị tá qn vương đương thời để cai trị xã hội, tạo ra trạng thái xã hội “người già
yên ổn, bằng hữu vui vẻ, trẻ nhỏ thì được chăm sóc”. Đây được coi là nội dung
trọng yếu của lý tưởng nhân sinh mà Khổng Tử luôn theo đuổi. Bên cạnh đó, quê
hương nước Lỗ của Khổng Tử là nơi bảo tồn được nhiều di sản văn hoá cũ của
nhà Chu. Thời đại của Khổng Tử như trên đã phân tích là thời đại “vương đạo suy
vi”, “bá đạo” đang nổi lên lấn át “vương đạo” của nhà Chu; trật tự lễ pháp cũ của
nhà Chu đang bị đảo lộn, “vua không ra vua, tôi không ra tôi”, “cha không ra
cha, con không ra con”, mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị và nhân dân
lao động. Vua quan tìm mọi cách đàn áp, bóc lột nhân dân; chính sách cai trị là
dùng chính và hình giống tư tưởng Pháp trị. Là một nhà tư tưởng đề cao lòng
nhân ái, lễ nghĩa và đạo đức xã hội, Khổng Tử chủ trương lập lại phương thức cai
trị xã hội nhà Chu, lấy lễ, nhạc và đạo đức làm gốc. Ông lập ra luận thuyết, mở
trường dạy học, đi chu du các nơi trong nước để tuyên truyền tư tưởng lý thuyết
của mình nhằm phục vụ mục đích trên.
Năm 19 tuổi, Khổng Tử lấy vợ và sinh con trai tên Lý, tự Bá Ngư. Thời
gian này Khổng Tử đã từng coi gia súc và giữ kho cho họ Quý Thị. Vài ba năm
sau ông bắt đầu dạy học. Năm 34 tuổi, nhờ sự giúp đỡ của Nam Cung Quát - học
trị cũ của Khổng Tử - ơng được Lỗ Chiêu Công cho sang Lạc Dương ở Chu đế
khảo lễ nghi, thư tịch, sau đó ơng sang Tề học nhạc thiều.
Năm 36 tuổi Khổng Tử về Lỗ tiếp tục dạy học.

Năm 50 tuổi, Khổng Tử giữ chức Đại tư khấu. Trong vòng mấy nãm làm
quan Khổng Tử đã thể hiện tài chính trị nổi trội. Ở tất cả các mặt nội chính,
ngoại giao, giáo hóa lễ nhạc, chế độ hành chính, có thể nói là “nước Lỗ đại trị.

9


chư hầu nể phục”. Đáng tiếc là cơ hội không được kéo dài, chán ngán cuộc sống
vô luân trorig thâm cung mà ông được chứng kiến, Khổng Tử từ quan, bỏ nước
Lỗ sang nước Vệ mong tìm được minh chủ nhưng ý nguyện của ông không
thành, dù đã bôn ba nhiều nước.
Năm 65 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Ông san Thi, Thơ; định Lễ, Nhạc;
khảo Dịch; viết Xuân Thu và tiếp tục dạy học. Học trị của ơng, theo sử ký Tư Mã
Thiên có tới 3 ngàn người, trong đó có 72 người hiền tài. Có thể nói rằng Khổng
Tử đã làm một công việc vẽ mắt cho con “Thần long” văn hoá Trung Hoa.
[58, 53]
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của ông được cả xã hội Trung Quốc
công nhận. Bắt đầu từ đời Hán, Khổng học đã trở thành một thứ tôn giáo mới Khổng giáo - trở thành m ột thứ đạo cai trị chính thống của xã hội suốt hơn 2

nghìn năm ở Trung Quốc. Bản thân Khổng Tử không chỉ đã được các vua chúa
Trung Hoa phong thánh mà còn được UNESCO phong tặng là “danh nhân văn
hoá thế giới”.
1.3. Nội dung cơ bản của thuyết Đức trị:
1.3.1. Quan điểm của Khổng Tử về Trời, Người và Đạo cai trị - quản

Khổng Tử đề cao mệnh trời (thiên mệnh) trong mối quan hệ với con người
và xã hội: đời người và đường đi (đạo) của người đều phải phù hợp với thiên
mệnh. Tuy nhiên, ông quan niệm về trời lại không nhất quán, lúc thì duy vật
(Trời là quy luật khách quan) lúc khác lại duy tâm (trời như ông thần, ông
thánh); đạo cai trị của Khổng Tử trước sau đều nhấn mạnh đến phương châm: tu

thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, tránh chủ quan tuỳ tiện.
Trong nghị luận nhiều chỗ ồng nói đến “Trời”, “Mệnh trời” để trình bày ý
kiến của mình. “Trời” đối với Khổng Tử có chỗ như là một quy luật, là trật tự của
vạn vật “Trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh trưởng”, có
chỗ ơng khẳng định trời có ý chí “Than ơi! trời làm mất đạo ta”; “Mắc tội với trời
khơng thể cầu được ở đâu mà thốt được”. Ý chí của Trời là Thiên mệnh (Mệnh
10


lệnh của trời: Mệnh trời). “Thiên mệnh” nói vắn tắt là mệnh. Ông cho rằng mỗi
cá nhân, sự sống - chết, phú qủý hay nghèo hèn đều là do “Thiên mệnh” quy
định. Phú q khơng thể cầu mà có được, do vậy bất tất phải cầu. Mặt khác,
Khổng Tử lại cho rằng con người bằng nỗ lực chủ quan của mình cũng có thể
thay đổi được cái “Thiên tính” ban đầu. ơng nói, con người lúc sinh ra, cái “tính”
trời phú cho là giống nhau nhưng trong quá trình tiếp xúc, học tập... nó làm cho
họ khác nhau, có kẻ trí có người ngu “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã”. Đây
là mặt tích cực, chỗ “thêm vào” của Khổng Tử so với quan điểm “Mệnh trời”
trước đó. [ 31, X V II. 2]
*

Về bản chất người:

Hiểu về bản chất con người thì mới có thể cai trị, quản lý các cá nhân và
xã hội một cách đúng đắn. Khổng Tử cho rằng, con người có sẵn nhân tính, khác
với lồi cầm thú khác. Tính người của Khổng Tử về cơ bản là tốt đẹp. Sau này,
Mạnh Tử kế thừa, phát triển tư tưởng của Khổng Tử khi khẳng định “nhân chi sơ
tính bản thiện”. Bản chất con người chung quy là do các phẩm chất hay đức tính
tạo thành. Mức độ phát triển của các đức tính này lại phụ thuộc vào hoàn cảnh xã
hội tốt hay xấu. Trong Luận ngữ có nói: “Bản tính con người gần giống nhau, do
tập nhiễm mới khác xa nhau.” [31, XVII.2]

Các phẩm chất, đức tính của con người lý tưởng - quân tử - bao gồm:
a. Nhân:
Nhân là gì? Khồng Tử định nghĩa: “nhân là yêu người”. Nhân là giúp đỡ
người khác thành cơng: “Người nhân, mình muốn thành cơng thì cũng giúp người
khác thành công. Biết từ bụng ta suy ra bụng người, đó là phương pháp thực hành
của người Nhân” [31, VI. 28]

Trong các phạm trù lý luận cơ bản của Khổng Tử như nhân, lễ, trí, dũng
thì nhân là quan trọng nhất. Nguyễn Hiến Lê có một nhận xét như sau: “Nhân
vừa là tu thân, vừa là ái nhân, vừa là xử lý, vừa là tiếp vật”. Nó là trung tâm của
đạo đức theo Khổng Tử, từ đó mà phát ra các đức khác, và các đức khác tụ cả về
nó. Phùng Hữu Lan gọi nó là “tồn đức” [32, 91].

11


Iran irọng Kim thì cho rằng: “Nhân là cái gốc lớn của sự sinh hoá trong
trời đất. Thế gian nhờ đó mà cịn lễ nghĩa, nhờ đó mà phát hiện ra. Cho nén
Khổng Tử lấy nhân làm tông chỉ duy nhất trong tơng giáo, chính trị và học thuật
của thiên hạ” [27]
Như vậy, Nhân vừa là nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý (trong
quan hệ nhà quản lý và đối tượng bị quản lý), vừa là đạo đức và hành vi của các
chủ thể quản lý.
b.Lễ:
Như trên đã nói, nhân là một phạm trù quan trọng nhất, cho nên ỏ' đây
Nhân và Lễ, thì Nhân có thể đạt được qua Lễ, Lễ là hình thức biểu hiện của
Nhân. - “Khắc kỷ phục Lễ vi nhân”. Thiếu Nhân thì Lễ chỉ là hình thức giả dối:
“Người khơng có đức Nhân thì Lễ mà làm gì” [31, XII. 1]
c.


Trí:

Trí trước hết là “biết người”. Có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp
người mà không làm hại cho người, cho minh: “Trí giả lợi nhân” [31, VI. 2]
Trí có lợi cho nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người nhân - quán tử,
bao giờ cũng chú trọng tới khả năng hiểu người, dùng nsười của họ.
Phải sáng suốt mới biết yêu người đána yêu, shét người đáng 2hét.
[31, VI. 3]
Đề bạt người chính trực, bỏ người cong queo [31, VII. 22], Đó là một
phẩm chất và năng lực rất quan trọng của nhà quản lý.
d. Dũng:
Dũng là tính kiên cường, quả cảm, dám hy sinh cả bản thân mình vì nghĩa
lớn; thể hiện ở ý chí dám vượt qua mọi khó khăn để đạt tới mục đích. Điển hình
là, khi bị bao vây, thầy trị Khổng Tử đói, “mặt xanh như tàu lá”, ông vẫn thản
nhiên đọc sách, gảy đàn và động viên học trị: “Naười qn tử có khi khốn cùng
là lẽ cố nhiên, kẻ tiểu nhân cùng khốn thì phóng túng làm càn”. [31, VI. 1]
Dũng khơng ngang hàng với nhân, mà chỉ là một bộ phận, tính cách của
Nhân thơi. Người Nhân tất có dũng “Nhân giả tất hữu Dũns”, nhưng người Dũng

12


chưa chắc có Nhân “Dũnc sià bất lấi hữu Nhãn". Khổng Tử rãi gliéi nhũng kẻ
hữu Dũng bất Nhân, vì họ là nsuyên nhãn của loạn.
Sau khi Khổng Tử mất, các nhà Nho lớn liếp lục thèm vào các phum chat

khác như: nhân, nclíĩa, lễ, trí của Mạnh Tử (371 - 289 TCX ). ìhành DLỊĨi ihườna:
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Đổng Trọns Thư (180 - 105 T c x ).
Những đức tính của con nsười mà Khổns Tử nêu ra cũns chính là nhữnc


tiêu chuẩn cơ bản của một người tốt đẹp. Thực tiễn lịch sử xã hội đã chứng minh
rằng đây là sự khái quát triếl học rất sáu sắc, bền vữns. Naav cả ở Việt Nam, hơn
20 thế kỷ sau, khi nói về đạo đức của con 112ười cách mạn", Chú tịch Hổ Chí
Minh vẫn sử dụng các phạm trù của Khổne Tử như là các tiêu chuẩn cơ bản cho
mỗi cán bộ đảng viên. Người nói nhiều đến nhãn, nshĩa. trí, đũne, liêm hoặc
nhân, nghĩa, lễ, trí... [36, T5, 251 - 252]

Coi trọng phẩm chất cơ bản của con neười và đánh eiá na ười irons xã hội
theo c á c tiêu chuẩn nhân tín h c h ín h là CO' sỏ' triết h ọ#c của thuyết
Đ ứ c trị.
^

Theo ông, con người sinh ra vốn tính bản thiện, có bản chai con 112ười
(Đức - Nhân), nhưng do hoàn cảnh, năna lực và sự phấn đấu nên được đặt vào vị
trí khác nhau: là người thống trị và bị trị; hay nói cách khác là tẩn 2 lớn vua, quan
và nhân dân lao độn2.
Khổng Tử quan niệm về Nsười có nhiều loại, ổn 2 coi CO' sỏ' của sự phân
tầng xã hội không phải là quyền lực hay tài sản mà là theo đức hạnh và lài năn"
của họ: quán tử, tiểu nhân, thiện nhân (naười bình thưị' 112), và tột cùng là thánh
nhân. Khổng Tử trước tiên muốn lấy tình huốns đức hạnh làm tiêu chuẩn, vạch
một giói tuyến giữa naười có đức và người khỏne có đức. đó là sự khác biệt "ilia
người quân lử và tiểu nhãn. Thực ra, nói là liếu nhãn là người mà khôn” làm điều
nhân; gọi là qn lử là người mà ihiên tính nội lại có sự lự *JÌUC, lập chí làm diều
nhân và có hành động nhân nghĩa.
*

Về các hạng người khác nhau trong xã hội - sự phân tâìig xã hội dựa

trên các tiêu chuẩn đạo đức.


13


Khổng Tử khơng nhìn nhận con người một cách chung chung, giống nhau
mà thấy rõ sự khác nhau giữa họ về địa vị, quyền lực, của cải, học vấn, tư cách...
Chính sự khác biệt về các tiêu chí đó đã chia xã hội thành những tầng lớp mà ông
gọi là “loại người” khác nhau. Quản lý xã hội cần nhận thức rõ sự khác nhau về
đổi tượng để có phương pháp phù hợp vẫn trên cơ sở nguyên tắc chung là đức trị.
- Quân tử và tiểu nhân.

Một là, về mục đích sống, động cơ hành động: qn tử vì nghĩa, tiểu nhân
vì lợi. Điều này có nghĩa là: hành vi của quân tử chủ yếu là phải hợp với Nhân
đạo cùng những hành vi đã thành khuôn phép. Tiểu nhân khi thấy lợi thì làm,
mục tiêu cuối cùng của mọi lời nói, việc làm đều là mưu cầu tư lợi cho mình.
Đây có thể coi là sự phân chia ranh giới cơ bản giữa quân tử và tiểu nhân.

Hai là, Quân tử không ngừng học tập, tu dưỡng, phấn đấu, tiểu nhân sống
an phận thủ thường, có sao hay vậy. Người quân tử do có tự giác với nhân tính
nội tại của mình mà ra sức khai thác thế giới nhân cách nội tại của mình, từ trong
cuộc sống thường ngày, qua sự tu dưỡng đạo đức của mình, đạt đến sự qn
thơng ta với ngoại vật, mình với người, một khung cảnh hồ đồng trời với người,
từ đó mà thành ra một người có đức tính kiên định. Kẻ tiểu nhân chỉ nghĩ đến lợi
lộc mà không biết phản tỉnh với đức tính của mình, bởi thế khó có được một thế
giới tinh thần tốt đẹp.

Ba là, Quân tử, trong quan hệ với mọi người, với xã hội, thì hồ mà khơng
đồng, tiểu nhân thì đồng mà bất hoà. Trong đối đãi xử sự với người, người quân
tử với tấm lòng nhân ái, thể hiện rõ rệt đức tính nội tại của mình, dám kiên trì
quan điểm đúng đắn của mình, đề ra ý kiến bất đồng tạo nên sự phát triển hài hoà
của sự vật. Tiểu nhân chỉ biết nhắm mắt làm bừa theo ý cấp trên, m à không xuất


phát từ thực tế. Họ không chú trọng đến đồn kết, mà chi thích kéo bè kéo cánh
vì tư lợi mà thơi.

Bốn là, Qn tử, trong lối sống, thì nói đến khn phép, tiểu nhàn thì tự ý
làm bừa. Quân tử bởi có tự giác với Nhân ái mà có sự tuân thủ, lời nói việc làm
đều có quy củ nhất định. Qn tử khơng vì một lúc yếu mềm mà tư lợi làm bừa.

14


Trái lại, tiểu nhân cứ thấy lợi thì làm theo, lúc nào mà họ khốn cùng thì họ tự ý
làm bừa, thậm chí khơng cần nghĩ đã chọn thủ đoạn gì nữa.

Năm là, Quân tử, về phong thái, thì thanh thản thư thái, tiểu nhân thì kiêu
sa mà lo âu. Biểu hiện ở thái độ sống, quân tử do có nhân đức, có hiểu biết, dẫu
nghèo mà vui với đạo, bởi thế mà trong lúc nguy khốn vẫn bình thản, thư thái, có
địa vị cao khơng kiêu ngạo, khinh rẻ người khác. Tiểu nhân vì sự cầu lợi, mà cảm
thấy không được yên ổn, lại lo được lo mất, chỉ thích tận hưởng xa hoa, với người
thì ngạo mạn nên không lúc nào được yên ổn cả.

Sáu là, Quân tử, trong việc làm, làm thì dễ mà nói ra thì khó, kẻ tiểu nhân
thì nói giỏi làm chẳng được việc gì. Người qn tử làm cơng việc của mình
thường rất dễ dàng, song để họ thật vừa ý thì khó. Người quân tử biết sử dụng
người, thường là căn cứ vào tài năng của người ta mà phân công việc, vì thế
những người dưới quyền đều làm xong cơng việc một cách nhiệt tình. Đối với kẻ
tiểu nhân thì chỉ vì muốn làm sao cho xong việc là được, dùng những phương
thức khơng chính đáng để làm vừa lịng người ta thì kẻ tiểu nhân cũng vẫn tỏ ra
vui vẻ. Cho nên, kẻ tiểu nhân làm thì khó mà lại tỏ ra vui mừng là làm xong việc


Bdy là, Quân tử mừng vì người khác thành đạt, kẻ tiểu nhân đố kị với
người khác. Quân tử thì cái mình làm được thì cũng muốn giúp người khác làm
được, cái mình khơng muốn làm cho mình thì cũng khơng muốn làm cho người
khác. Người quân tử luôn vui vẻ giúp đỡ vào việc thành đạt của người khác. Kẻ
tiểu nhân muốn đặt tư lợi của mình lên hàng đầu nên khơng quan tâm nhiệt tình

giúp đỡ người khác. Trái lại, để giành được tư lợi của mình họ thường là bất kể
thủ đoạn, không chỉ tranh chỗ của người khác mà cịn có thể làm điều ác với
người ta nữa.
Nói về tư tưởng của Khổng Tử, ông tuy rất nhấn mạnh rằng người quân tử
trong đối nhân xử thế phải lấy nghĩa lý làm đầu, song trên thực tế ông cũng
không chỉ nói về nghĩa mà khơng nói đến lợi. Mục tiêu của Khổng Tử là muốn
có được một xã hội lý tưởng thuận hoà, mỗi người lấy nghĩa làm đầu, người ta

15


không mưu tư lợi thái quá mà muốn làm người qn tử giúp ích cho xã hội bằng
việc làm vì nghĩa của mình, đây cũng là cách đế đạt được xã hội lý tưởng. Vì thế
Khổng Tử nhấn mạnh người qn tử khơng mưu tư lợi mà phải sống vì nghĩa lý,
đấy là nhu cầu đem đến điều tốt đẹp cho quốc kế dân sinh. [59, 49]
Như vậy, chủ thể cai trị, quản lý xã hội phải có đạo đức của người quân tử,
phải đối xử với người khác với tấm lịng một chính nhân qn tử. Một xã hội mà
có nhiều kẻ “tiểu nhân đắc ý” nắm quyền thì nhất định sẽ bị rối loạn, suy thối.

-K ẻ sĩ:
Có thể nói rằng, người quân tử được Khổng Tử nói đến là cách gọi chung
cho những người làm điều nhân, ở đó cịn có thể chia thành tầng thứ cao thấp
nữa. Trên một ý nghĩa nhất định kẻ sĩ mà Khổng Tử nói đến cũng tương tự như
khái niệm quân tử. Sĩ là một tiêu chí về đẳng cấp thân phận; ở thời đại Xuân Thu

của Khổng Tử, đã thấy nói đến Sĩ, Nơng, Cơng, Thương, tức là xem sĩ là đứng
đẩu trong bốn hạng người. Theo Khổng Tử, thân phận của kẻ sĩ ở mức độ nhất
định cũng liên quan tới tu dưỡng đạo đức. Trí của kẻ sĩ là ở đạo, tức là tự giác
làm điểu nhân, là điều kiện cơ bản để một phần tư trí thức được xem là kẻ sĩ. v ề
điểm này Khổng Tử yêu cầu một sự phân tách với người quân tử. Khổng Tử đề
ra, kẻ sĩ với bạn hữu phải giúp đỡ nhau, với anh em phải hồ làm một... Vì thế, kẻ
sĩ có thể được xem là phần tử trí thức có chí lớn hành đạo - là người trí thức qn
tử. Cịn tráng sĩ là người qn tử có sức mạnh thân thể và giỏi võ thuật, có chí
hướng hành động vì nghĩa, bảo vệ cái thiện, người yếu, chống lại cái xấu và sức
mạnh dã man.
- Thiện nhân:
“Thiện nhân là người mà ta khó gặp được, phải là người tận tâm mà qn
mình” Khổng Tử nói [59, 51]. Khi Tử Trương hỏi về thiện nhân, ông cho rằng: là
người làm điều thiện mà không muốn để người khác biết đến. Chính bởi thiện
nhân là người có phẩm cách nhất định, có thể ở địa vị cao trong xã hội, nên
Khổng Tử cũng đặt nhiều hy vọng ở họ, theo ơng nhìn nhận, nếu như dùng người
dân chưa qua huấn luyện để tác chiến như vậy là xem thường sinh mệnh của dân

16


chúng. Ơng cũng nói: thiện nhân dạy dân đủ bảy năm rồi mới có thể dùng vào
việc binh nhung. Điều ấy có nghĩa là, thơng qua việc người cai trị chỉ bảo cho
dân làm theo hiếu đễ trung tín, người dân làm theo pháp luật nghiêm minh, bởi
thế mà có thể tham gia việc chiến sự ở đó. Khổng Tử với thiện nhàn gửi gắm
những kỳ vọng to lớn, ông nói: “Thiện nhân sửa sang quốc chính liền suốt trăm
năm, đủ để cảm hố người tàn bạo khiến họ khơng làm điều ác nữa, cũng có thể
lấy điều thiện để cảm hố người dân khiến cho khơng cần phải ràng buộc bằng
hình phạt nặng nữa”. [59, 53]
Hiển nhiên, khơng cần dùng đến hình phạt nặng nói ở đây mang sắc thái lý

tưởng nồng đậm của Nho gia theo thuyết Đức trị. Càng suy nghĩ lại lời nói của
Khổng Tử về việc sửa sang chính sự chẳng khó thấy rằng, điều mà Khổng Tử đề
cập ở đây có thể thấy đó là mắt xích trong lý tưởng điều hành chính sự bằng nhân
ái của ơng.
- Con người tồn diện:
Khi Tử Lộ hỏi về con người toàn diện là thế nào, Khổng Tử trả lời rằng:
“Nếu như có trí lực như Tang Vũ Trọng, có lịng khơng ham muốn như Cơng
Xước, có dũng cảm như Trang Tử đất Biện, có tài nghệ như Nhiễm Cầu, lại được
sức nhờ lễ nhạc, người như thế cũng có thể là người hồn tồn vậy”[31, XIV. 12]
Khổng Tử cũng đồng thời chỉ rõ ràng làm thế nào để thành một người tồn
diện?. Thấy lợi thì nhớ đến nghĩa lý, thấy hiểm thì khơng tiếc sinh mệnh, khơng
qn làm theo điều phải, như vậy thì có thể trở thành con người toàn diện. Ngoài
ra, đối với người tồn diện Khổng Tử có nói đến trí, liêm, dũng và tài nghệ, song
lại khơng thấy nói đến nhân ái. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng con người tồn
diện mà Khổng Tử để cập đích xác chưa có tầm cỡ của thánh nhân.
- Thánh nhân:
Thánh nhân là điển hình của nhân cách lý tưởng, Khổng Tử và Nho gia đã
vì điều này mà nêu lên. Dễ dàng thì thấy rằng thánh nhân là người đã làm trọn
đạo làm người. Cụ thể là thánh nhân có đức hạnh rất cao, cũng có đủ tài cán lớn,
ĐAI HỌC QUỐC GIA HA NỌ.
TRUNG TẨM THÒNG TIN THƯ VIỆN
17


có thể đạt đến mức độ trị quốc bình thiên hạ. Ngưòi ta thường coi Nghiêu, Thuấn,
Vũ Vương, Thang Vương, Văn Vương là thánh nhân.
Mặc dù phân chia con người trong xã hội thành nhiều loại khác nhau, chủ
yếu dựa vào tiêu chuẩn phẩm hạnh - đạo đức, nhưng Khổng Tử luôn nhấn mạnh
về một điểm chung của mọi người là có nhân tính - đức Nhân, nhờ vậy mà họ tự
biết được phải - trái, sống có lương tâm. Thuyết Đức trị của Khổng Tử được xây

dựng trên quan điểm triết học như vậy về con người và xã hội. Nói cách khác,
như chúng ta hiện nay, con người khác con vật là vì có bản chất văn hố, có bản
tính hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ.

*Bẩn chất của thuyết Đức trị, đạo cai trị của Khổng Tử
Nho gia (Khổng Tử) chủ trương “Nhân trị - Đức trị” - tức là lấy chuẩn
mực đạo đức là khuôn phép để trị nước trị dân, lấy công việc giáo hoá, thu phục
nhân tâm là phương châm hành động cơ bản, lấy tôn ti trật tự, phẩm trật rõ ràng
để bình ổn xã hội. Theo họ, tư cách người cầm quyền quan trọng hơn luật lệ, hễ
có người yêu dân, làm gương cho kẻ dưới thì đất nước sẽ an bình, thịnh trị.
Lão gia (Lão Tử) chủ trương “Vô vi nhi trị”. Nhà cầm quyền không can
thiệp trực tiếp vào việc của dân, quản lý dân chúng sao cho dân chúng không biết
là bị quản lý, để dân sống một đời chất phác, tự nhiên, tự chủ, phát huy tối đa
năng lực của mình. Đây là lý thuyết rất sâu sắc, rất hay nhưng cũng rất khó thực
hiện, và trở thành không tưởng trong điều kiện kinh tế xã hội không tương dung,

chưa cho phép.
Pháp gia chủ trương dùng “Pháp luật”, và hình phạt nặng để cai trị xã hội.
Nếu luật pháp nghiêm minh, thưởng phạt công bằng thì nhà cầm quyền chẳng
cần tài đức mà đất nước vẫn hùng mạnh.
Đạo cai trị - quản lý của Khổng Tử là phản đối tư tưởng “Pháp trị”, ông đề
ra chính sách quản lý là “Đức trị”, tức là bổ sung Đức và Lễ vào chỗ thiếu của
chính sách dùng chính và hình lúc bây giờ. Ơng nói: “Dùng chính lệnh để dân
dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ

18


thẹn. Dùng đức để dẫn dắt dân, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới
chỗ tốt lành”. [31,


n.3]

Hồi bão chính trị nhất qn trước sau của Khổng Tử là kế thừa sự nghiệp
của Văn Vương, Chu Công, lập lại kỷ cương của nhà Chu. Để có được xã hội đó,
dưói góc độ quản lý, ơng quan tâm nhiều đến quan hệ giữa con ngưòi với con
người tức là quan hệ giữa người quản lý với người bị quản lý. Ở đây ông đề cao
chữ Nhân mà sau đó ơng nâng lên thành đạo (đạo Nhân).
1.3.2. Nguyên tắc và các phương thức quản lý xã hội của thuyết Đức

I.3.2.I.

Nguyên tắc coi trọng, đề cao mặt đạo đức của con người và

điều chỉnh các quan hệ xã hội dựa vào các chuẩn mực đạo đức chung
Khổng Tử luôn khát khao đưa xã hội trở lại thời kỳ thanh bình, thịnh trị
của thời Nghiêu, Thuấn (truyền thuyết của người Trung hoa). Vì thế, có thể nói
các chuẩn mực đạo đức là vấn đề lớn nhất trong học thuyết của ông. Trong học
thuyết của Khổng Tử, ông lấy đạo Nhân làm gốc bởi Nhân tức là đạo làm người,
chỉ có thực hiện đạo Nhân mới có thể khắc phục được thực trạng: bề tôi giết vua,
con giết cha, em giết anh, bạn bè lấn át nhau đang diễn ra như cơm bữa trong xã
hội. Theo đạo đức của Khổng Tử thì cái đạo làm người có “tam cương”, phản ánh
ba mối quan hệ rường cột và phổ biến trong xã hội. Đó là: Vua - tơi, cha - con,
chồng - vợ. Sau này, các học trò của Khổng Tử đã đi từ “tam cương” đến “ngũ
luân”, thêm hai mối quan hệ xã hội cơ bản nữa là anh - em và bè bạn. Việc giải
quyết các mối quan hệ xã hội theo các chuẩn mực nhất định đáng để chúng ta
xem xét và kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của nó.
+ Trong mối quan hệ vua - tôi: Khi Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử về chính
sự thì ơng trả lời rằng: “qn qn, thần thần...”, về mối quan hệ vua tôi trên
dưới, Khổng Tử nhấn mạnh vua phải ra vua, bề tôi phải xứng đáng là bề tơi. Ơng

đặt vua lên hàng đầu, cố nhiên đã biểu hiện sự tơn trọng của mình với ngơi vua
và qn quyền, song cũng có thể thấy rằng Khổng Tử cho rằng muốn làm cho
quan hệ vua tôi phù hợp với Nhân và Lễ, sự cư xử của qn chủ lại càng có vị trí
-

19-


quan trọng. Trong một trường hợp khác, khi Lỗ Định Cõng hỏi Khổng Tử rằng
vua sai khiến bề tôi, bề tơi thờ vua thì phải như thế nào. Khổng Tử đã nêu rõ nội
hàm của quan hệ vua tôi, đấy là: Vua sai bề tôi bằng nghi lễ, bề tôi thờ vua bằng
trung. Khổng Tử rất chú trọng đến vai trị lãnh đạo của người điều hành chính sự.
Ơng chỉ ra rằng: người điều hành chính sự ở ngơi cao trước tiên phải có hành vi
đoan chính, thì người ở dưới hỏi ai cịn dám khơng đoan chính nữa? Khi Lỗ Định
Cơng hỏi Khổng Tử: một lời phải chăng có thể hưng bang trị quốc được chăng,
Khổng Tử đã nêu rõ tác dụng quan trọng của vua chúa trong việc trị quốc. Ơng

chỉ rõ: Nếu như thấy làm vua khó thì chẳng mấy độ mà một lời có thể hưng bang.
Rõ ràng Khổng Tử thấy rằng nếu biết sự gian nan của người làm vua, đồng thời
cũng chăm chỉ mà làm việc, hẳn rằng có thể nói là “một lời có thể hưng bang trị
quốc được vậy”. [50, 91]
Đồng thời ông cũng để xướng người ở ngồi trên cần nhân hậu với người
khác, biết tỏ ra khoan dung, làm việc gì thì trang trọng, khoan hậu thành thực,
cần mẫn, nhân từ, cũng yêu cầu mọi người làm theo bốn đức tốt, bỏ bôn điều
xấu. Đấy là những yêu cầu Khổng Tử đề ra với người ở ngôi trên.
+ Trong mối quan hệ cha - con: Khổng Tử đòi hỏi người làm cha phải có
đức tính nhân từ, người làm con phải có đức hiếu thảo. Nguyên tắc cơ bản xử lý
mối quan hệ với họ là làm cha mẹ phải có đủ sự thương yêu với con cái, làm con
cái phải hiếu thuận với cha mẹ. Cụ thể:


Một là, Đối đãi với cha mẹ bằng chân tình: Hiếu xuất phát ở chân thành,
chân tình với cha mẹ nếu khơng có thì chỉ là tơn kính phụng dưỡng cha mẹ trên
hình thức thì chẳng thể là hiếu thảo thực sự.
Khổng Tử thấy rằng, “Ngày nay người ta nói hiếu thảo là ni dưỡng. Đến
chó, ngựa kia cũng đều có khả năng ni dưỡng; nếu khơng kính cha mẹ thì có
khác gì?” [31, II.7]. Lễ kí viết: Người con có hiếu có lịng u mến sâu xa nên có
hồ khí mà sắc mặt vui vẻ, có sắc mặt vui vẻ thì có sự dịu dàng. Chỉ có lịng u
kính xuất phát từ nội tâm và sự vui vẻ thấy ở bề ngoài, tận tâm phụng dưỡng cha
mẹ mới kể được là có hiếu. Đồng thời, phải để tang ba năm cho trọn đạo hiếu,

20


tình nguyện là mới kể là hiếu thảo thực sự. Khổng Tử thấy rằng sau ba năm
khơng cịn được ở gần cha mẹ nữa, cảm tình của con cái với cha mẹ vẫn còn sâu
nặng biểu hiện ở trong sinh hoạt đời thường thì khơng ăn miếng ngon, khơng
nghe nhạc, như thế mới là lệ thường để tang ba năm.

Hai là, Thờ cha mẹ bằng Lễ: Khổng Tử giải thích rõ ràng rằng: sống bằng
lễ, chết thì táng bằng lễ, tế cúng bằng lễ. Bởi thế là một người con hiếu thảo thì
khơng thể thuận theo mù qng ý đồ của cha mẹ, trước tiên phải lấy lễ đế đo
hành vi của mình. Khi yêu cầu của cha mẹ là hợp với lễ, thì thờ cha mẹ cần phải
tận lực; khi yêu cầu của cha mẹ không hợp với lễ, cần khuyên can cha mẹ, thờ
cha mẹ bằng can gián.

Ba là, Kế thừa và phát huy chí hướng và sự nghiệp của cha mẹ: Là người
hiếu thảo thì khéo kế thừa chí hướng, nghề nghiệp của người trước. Kế thừa chí
hướng nghề nghiệp của tiền bối. Phát huy thêm lên đấy là biểu hiện hiếu thảo với
cha mẹ ở một tầm cao hơn. Khổng Tử nói: Cha cịn thì thấy ở chí hướng cha, mất
thì thấy ở việc làm, ba năm khơng cải biến đạo của cha thì có thể gọi đấy là


người có hiếu. Khi người cha cịn sống, người con chưa có quyền hành độc lập
bởi thế mà phải quan sát việc làm của anh ta. Nếu như anh ta trong suốt một thời
gian dài không cải biến với sự nghiệp mà cha theo đuổi, thì có thể là khéo kế
thừa chí hướng nghề nghiệp, có thể kể là người con hiếu thảo.

Bốn là, Hiếu đễ là gốc của nhân ái: Nhân ái theo quan niệm của Nho gia là
được xây dựng trên quan hệ thân tình huyết thống. Bởi thế hiếu với cha mẹ, hoà
thuận với anh trên là khởi điểm logic trong dây chuyền quan hệ nhân ái. Luận
ngữ từng chỉ ra rằng: làm người hiếu đễ mà lại phạm thượng là điều chưa tháy
vậy. Người quân tử coi trọng gốc gác, gốc vững thì Đạo nẩy sinh, hiếu đễ là gốc
gác của nhân ái vậy.
Ngoài nghĩa vụ mà người con phải làm đối với cha mẹ, thì cha mẹ cũng
phải có nghĩa vụ với con cái. Là người sinh thành ra con cái, không bậc cha mẹ
nào lại khơng thương u con cái mình. Song thương u con cái địi hỏi cha mẹ:
Có nghĩa vụ dạy dỗ con cái mình nên người. Khi con cái còn nhỏ, phải lo lắng.

21


chãm sóc cho con khơn lớn; khi con cái trưởng thành, phải dạy dỗ, uốn nắn và
làm gương cho con cái để con cái biết đạo ứng xử làm người trong xã hội: biết
trung với vua, biết hiếu với cha mẹ, biết kính với người trên, biết đễ với anh em,
biết tín với bạn bè, biết thấy việc nghĩa thì phải làm... và Phải biết che chở, bảo
vệ con cái.
+ Trong mối quan hệ vợ - chồng: Trong một gia đình thì người chồng phải
biết thương yêu vợ con, chăm lo con cái và là chỗ dựa của vợ con. Ngược lại
người vợ phải biết chăm lo, vun vén cho gia đình mình và gia đình nhà chồng,
phải biết nghe theo chồng một cách vô điều kiện. Khổng Tử cho rằng, một
nguyên tắc cơ bản ở đây là chú trọng phẩm hạnh mà không chú trọng dung mạo

của người vợ. Trên cơ sở ấy, ông nhấn mạnh vợ chồng phải kính u lẫn nhau,
khơng chỉ người vợ phải kính u người vợ phải kính trọng thuận tịng theo
chồng mà người chồng cũng phải tôn trọng người vợ. Vợ chồng cần phải giống
nhau như một bài ca trong Kinh thi đã nói: Vợ chồng hồ hợp như trống với đàn.
Khổng Tử xem sự hoà hợp vợ chồng là một điều kiện để gia đình phát triển. Tuy
nhiên, trong tư tưởng của Khổng Tử cũng có lúc xem thường nữ giới, ví như ơng
cho rằng: chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó dưỡng dục, gần gũi thì khơng theo
phép mà xa cách thì ốn thán.
+ Trong mối quan hệ anh - em: Khổng Tử thường hay nhắc đến hiếu đễ,
điều đó có nghĩa là, anh em trong một nhà phải có tình thân mật. Là anh thì phải
biết bao bọc, che chở cho em, phải biết nhường nhịn em; là em thì phải biết kính
trọng anh, nghe lời anh. Khổng Tử cho rằng, anh em vui vẻ, nói khác đi là hoà
mục với nhau là điều kiện quan trọng của kẻ sĩ. Ông rất chú trọng đến hiếu đễ,
yêu cầu đệ tử phải làm theo bằng được. Khổng Tử không chỉ u cầu người em
phải tơn kính người anh của mình, từ đó u cầu phải tơn kính người lớn tuổi hơn
mình. Đấy chính là điều Khổng Tử nói: Đệ tử vào thì giữ hiếu, ra thì giữ lễ.
+ Trong mối quan hệ bạn bè: đề cao đức tín và địi hỏi mọi người phải giữ
chữ tín trong giao tiếp. Đức tin là nền tảng của trật tự xã hội. Bạn bè m à khơng có

lịng tin thì khơng cịn tình bạn, chính quyền mà khơng được dân chúng tin thì

22


×