Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tổng quan về lợi ích và tiềm năng của các hoạt chất sinh học từ biển ứng dụng trong công nghiệp dược phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.49 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020

Tổng quan

TỔNG QUAN VỀ LỢI ÍCH VÀ TIỀM NĂNG CỦA CÁC HOẠT CHẤT
SINH HỌC TỪ BIỂN ỨNG DỤNG TRONG CÔNG NGHIỆP DƯỢC PHẨM
Nguyễn Thị Ngọc Dung*, Nguyễn Đức Tuấn*
Tóm tắt: Từ xưa đến nay, phần lớn các hoạt chất tự nhiên hiện được sử dụng trong trị liệu ở người có
nguồn gốc từ các sinh vật trên đất liền, trong khi các sinh vật biển chỉ đóng vai trò như nguồn thực phẩm quan
trọng của các sinh vật sống trên trái đất. Chỉ đến những năm 50 của thế kỷ 20, ứng dụng của tài nguyên biển
trong công nghiệp dược phẩm mới được phát hiện nhờ vào việc định danh spongothymidin và spongouridin từ
bọt biển Caribe Cryptotethia crypta. Từ đó đến nay, ngành cơng nghiệp này đã có những tiến bộ vượt bậc với 10
thuốc được FDA công nhận và xuất hiện trên thị trường với các tác dụng chống ung thư, kháng virus, hạ
triglycerid và giảm đau. Sự đa dạng sinh học loài và sự đa dạng hóa học của các sản phẩm chuyển hóa thứ cấp là
nguồn nguyên liệu quan trọng trong nghiên cứu các thành phần dược liệu mới. Việc nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của biển và đại dương sẽ giúp khai thác tiềm năng to lớn của biển và góp phần đưa ra chiến lược hiệu
quả để bảo tồn nguồn tài nguyên này.
Từ khóa: hoạt chất sinh học, sinh vật biển

ABSTRACT
OVERVIEW OF BENEFITS AND POTENTIAL OF MARINE BIOACTIVE COMPOUNDS
APPLIED IN THE PHARMACEUTICAL INDUSTRY
Nguyen Thi Ngoc Dung, Nguyen Duc Tuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No 3 - 2020: 1 - 7
Until now, most of the natural active ingredients used in human therapies have come from terrestrial
organisms, while marine organisms only serve as an important food source for living-beings on Earth. In the
1950s, the application of marine resources in the pharmaceutical industry was discovered through the
identification of spongothymidine and spongouridine from the Caribbean Cryptotethia crypta. Since then, the
industry has made great strides with 10 FDA-approved drugs which appear on the market for anti-cancer, antiviral, anti-triglyceride and analgesic effects. Biodiversity of marine species and chemical diversity of secondary
metabolites are an important source in the study of new medicinal materials. Raising awareness of the importance
of the sea and oceans will help to explore the immense potential of the sea and contribute to help to propose


effective strategies for conserving this resource.
Keywords: bioactive compound, marine organism

ĐẶT VẤNĐỀ
Biển và đại dương chiếm 70% diện tích bề
mặt trái đất. Với sự đa dạng về loài và hệ sinh
thái, biển và đại dương cung cấp các tài nguyên
thiết yếu cho cuộc sống của con người: nguồn
thực phẩm chính, nguồn nhiên liệu và nguồn vật
liệu cho nghiên cứu y sinh học (sản xuất protein
huỳnh quang xanh từ Sứa biển)(1). Ngoài ra, hệ
sinh thái biển cũng đóng vai trị thiết yếu trong

việc điều hịa khí hậu trên trái đất. Tầm quan
trọng của biển là vậy, nhưng con người, trong
sinh hoạt và sản xuất, vẫn tiếp tục gây ơ nhiễm
biển và phá hủy các lồi và hệ sinh thái biển. Do
đó, nhu cầu cấp bách hiện nay là xây dựng một
chiến lược khai thác hợp lý, song song với việc
bảo tồn tài nguyên biển. Trong phạm vi bài báo,
các tác giả tổng hợp tài liệu nhằm mơ tả sự đa
dạng sinh-hóa học của tài ngun biển và ứng
dụng của những hợp chất tự nhiên từ biển trong

Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Đức Tuấn
ĐT: 0913799068
*

B - Khoa học Dược


Email:

1


Tổng quan
trị liệu ở người cũng như xu hướng nghiên cứu
hiện nay trong nghiên cứu và phát triển thuốc có
nguồn gốc tự nhiên.

SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA HỆ SINH THÁI
BIỂN VÀ SỰ ĐA DẠNG HÓA HỌC CỦA CÁC
HỢP CHẤT TỪ BIỂN
Trong quá trình phát triển và sinh tồn, các
sinh vật biển sản xuất các chất chuyển hóa thứ
cấp đặc trưng. Đây là một cơ chế thích nghi thiết
yếu để tồn tại trong môi trường của chúng(2). Sự
đa dạng về cấu trúc của các chất chuyển hóa thứ
cấp có liên quan đến sự đa dạng sinh học biển.
Hơn nữa, một số loài sống ở các điều kiện sinh
thái khác nhau, được gọi là các kiểu sinh thái
(ecotype), cũng tạo ra các chất chuyển hóa rất
khác nhau, tùy thuộc hồn tồn vào điều kiện
mơi trường, như vị trí địa lý, độ sâu và độ pH
của nước, do đó góp phần vào sự đa dạng hóa
học biển(3). Nhờ các kỹ thuật phân tích hiện đại,

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020
các ngân hàng cấu trúc hoạt chất mới đã được

xây dựng. Sự đa dạng sinh học và hóa học của
các sản phẩm tự nhiên này là nguồn nguyên liệu
quan trọng trong nghiên cứu các thành phần
dược liệu mới(4).
Trên đất liền, trong khi các chất chuyển hóa
thứ cấp được sản xuất chủ yếu từ thực vật và
động vật chân đốt thì ở biển các chất này chủ
yếu được sản xuất bởi Tảo biển (Algae), Bọt biển/
Hải miên (Sponges), Sứa biển (Cnidarians), Động
vật hình rêu (Bryozoans) và Hải tiêu
(Urochordates). Một số nhóm khác, chẳng hạn
như vi khuẩn, vi khuẩn cổ và nấm sợi, cung cấp
các chất chuyển hóa có cùng loại cấu trúc, ở cả
mơi trường biển và trên đất liền(3).
Từ 2016 đến 2018, Blunt và cộng sự đã đưa
ra một phân tích về các sản phẩm tự nhiên mới
được phân lập từ các vi sinh vật biển (vi khuẩn,
nấm), thực vật phù du và tảo biển(5–7) (Hình 1).

Hình 1. Phân bố theo ngành của các sản phẩm tự nhiên biển được xác định trong giai đoạn 1971-2015.
Phần lớn các phân tử từ sinh vật biển được chiết xuất từ động vật thân lỗ (Porifera), sứa biển (Cnidaria) và
nấm túi (Ascomycota) với tỷ lệ tương ứng là 32%, 16% và 11%. Nguồn : [Blunt et al. Nat Prod Rep 2017]
sesterterpen, macrolid và polyether. Những cấu
Trong nhóm Tảo biển (Algae), Tảo nâu
trúc này độc đáo và khác biệt so với những cấu
(Phaeophyta) tổng hợp các diterpen; Tảo đỏ
trúc đã phân lập từ sinh vật trên đất liền. Nhóm
(Rhodophyta) sản xuất các terpen halogen và
các loài Sứa hộp (Cubozoa), thuộc ngành Sứa biển
acetogenin C15; và Tảo lục (Chlorophyta) tạo ra các

(Cnidarians), sản xuất các polypeptid có độc tính
cyclopeptid và sesquiterpen aldehyd. Nhóm Bọt
với cấu trúc đặc biệt, chứa trong tuyến nọc độc
biển (Sponges) tổng hợp chủ yếu các alkaloid,

2

B - Khoa học Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020
của các loài này. Ở lớp San hơ (Anthozoa), các
terpenoid được tổng hợp có cấu trúc tương tự
như ở các loài thực vật trên đất liền. Động vật
hình rêu (Bryozoa) ở biển cung cấp các macrolid
như bryostatin. Trong số các động vật thân mềm
(Mollusca), chỉ có các loài sống ở biển được biết
đến với khả năng sản xuất các chất chuyển hóa
hiếm như acid okadaic, các độc tố và polyether.
Các polypropionat được sản xuất từ động vật
thân mềm, vi khuẩn lam, tảo và động vật biển
không xương sống. Các alkaloid steroid, đặc biệt
là pyrazin và squalamin có hoạt tính sinh học
cao, được đặc trưng tương ứng ở lồi Ciona
savignyi và cá mập Scymnus borealis(3).
Nhìn chung, các sinh vật biển tạo ra các
chất chuyển hóa với cấu trúc đặc biệt độc đáo
và hiếm. Dựa trên cấu trúc hóa học của chúng,
các sản phẩm tự nhiên biển được xác định
thuộc về một số nhóm hợp chất: polyketid,

terpen, saponin steroid hoặc triterpen,
carbohydrat, hợp chất aliphatic, acid amin,
alkaloid, peptid, lipopeptid và protein. Peptid
chiếm tỷ lệ cao nhất trong các hợp chất hoạt
tính sinh học(8).
Trong số các lồi, Tảo biển (Algae), gồm
rong biển (macroalgae) và vi tảo biển
(microalgae), từ lâu đã được sử dụng làm thực
phẩm. Thành phần hóa học của tảo biển rất đa
dạng và phong phú, gồm glucid, protein, acid
amin, lipid, các sắc tố... Trong đó quan trọng
nhất là các glucid: monosaccharid (gồm
mannitol, fucose, galactose...) và polysaccharid
(gồm fucoidan, laminaran, alginate, agar và
carageenan), với hoạt tính sinh học đa dạng
được ứng dụng trong ngành dược. Chẳng hạn
như, fucoidan giúp tăng cường miễn dịch,
chống đông máu, kháng viêm, kháng virus,
điều trị rối loạn đường huyết và hỗ trợ điều trị
ung thư; laminaran chống đông máu và kháng
ung thư; agar và alginate tạo màng trong điều
chế thuốc trị bỏng (9)…
Ngoài ra, Bọt biển (Sponges) cũng được coi là
một nguồn quan trọng nhằm sản xuất các phân
tử có hoạt tính. Có hơn 5.000 lồi Bọt biển giàu

B - Khoa học Dược

Tổng quan
các hợp chất thiết yếu khác nhau, chẳng hạn như

acid béo, protein, alkaloid, peroxyd và terpen,
biểu hiện khả năng kháng khuẩn, kháng virus,
kháng nấm, kháng ký sinh trùng sốt rét, diệt
giun, ức chế miễn dịch và kháng viêm(10). Một số
hợp chất trong số này được biết đến với tác
dụng hỗ trợ apoptosis – một dạng chết tế bào
theo chương trình, ứng dụng trong nghiên cứu
thuốc chống ung thư(11):
Các alkaloid
Aptamin, isoaptamin, crambescidin 800,
fascaplysin,
lamellarin
D,
akulavamin,
manzamin A, monanchocidin A, renieramycin
M, nortopsentines A-C.
Terpenoid
10-acetylirciformonin B, heteronemin,
stellettin A và B, smenospongin.
Macrolid
Pelorusid A, salarin, tedanolid;
Các nhóm hoạt chất khác
Agelasin
B,
didesoxypetrosynol
jasplakinolid, psammaplysen A.

A,

ỨNG DỤNG CỦA CÁC HOẠT CHẤT

TỰ NHIÊN BIỂN TRONG TRỊ LIỆU Ở NGƯỜI
Phần lớn các hoạt chất tự nhiên hiện đang
được sử dụng trong trị liệu ở người có nguồn
gốc từ các sinh vật trên đất liền. Tuy nhiên,
như đã đề cập ở trên, các hoạt chất tự nhiên từ
biển có sự đa dạng lớn về cấu trúc và hoạt tính
sinh học. Vào những năm 1950, việc xác định
hai
nucleosid
(spongothymidin

spongouridin) từ Bọt biển Caribbean
Cryptotethia crypta, đã cho thấy tiềm năng to
lớn của các hoạt chất từ biển trong trị liệu cho
con người(12). Thật vậy, các hoạt chất từ biển có
khung phân tử độc đáo và có hiệu quả điều trị
cao hơn các hoạt chất từ các sinh vật trên đất
liền, đặc biệt là trong các liệu pháp chống ung
thư. Ví dụ, trong một nghiên cứu so sánh năm
1999, 1,3% mẫu từ biển cho thấy khả năng
chống khối u, so với 0,3% mẫu từ đất liền (số
lượng được thử nghiệm lần lượt là 8.412 và

3


Tổng quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020


18.727 mẫu)(13). Do vậy, các chất chuyển hóa
của sinh vật biển được coi là các phân tử hóa
học mới đầy hứa hẹn trong trị liệu ở người.
Sự khám phá những chất trung gian hóa
học từ sinh vật đất liền đến sinh vật đất liền
đã minh chứng cho tiềm năng của nguồn tài
nguyên biển. Prostaglandin (PGs), chất trung
gian hóa học nhóm lipid, họ eicosanoid, là
nhân tố chính trong nhiều q trình sinh lý
và bệnh lý, ví dụ như điều hòa trương lực cơ
và mạch máu, viêm, truyền tín hiệu, cầm
máu, sinh sản và điều hịa giấc ngủ ở động
vật có vú. Các phân tử này cũng được tìm
thấy ở một số lồi động vật khơng xương
sống biển, một số loài tảo biển của chi
Gracilaria và Laminaria, và gần đây là ở các
loài vi tảo biển (marine microalges)(14).
Cho đến tháng 1/2020, khoảng 30.000 phân
tử từ sinh vật biển đã được xác định
( trong đó 10 phân

tử đã được FDA chấp thuận và xuất hiện trên thị
trường thuốc chống ung thư, kháng virus, hạ
triglycerid và giảm đau, bao gồm midostaurin(15)
( />nical_pipeline.html;
)
(Bảng 1). Ngoài ra, 29 phân tử đang trong các
giai đoạn thử nghiệm lâm sàng khác nhau
(www.clinicaltrials.gov): 5 phân tử ở giai đoạn
III, 14 phân tử ở giai đoạn II và 10 phân tử ở

giai đoạn I. Tính chất độc tế bào và chống
ung thư đại diện cho hoạt tính sinh học
chính của các phân tử từ sinh vật biển(16-17).
Các chương trình nghiên cứu tồn cầu về
dược học biển trong giai đoạn tiền lâm sàng
tiếp tục tạo ra nguồn dữ liệu đáng kể cho
một số nhóm dược lý, như: kháng khuẩn,
chống đái tháo đường, kháng nấm, chống
viêm, chống nhiễm trùng, chống lao, chống
virus, thuốc ảnh hưởng đến hệ thống miễn
dịch và thần kinh (5,18–21).

Bảng 1. Danh sách các phân tử được FDA phê duyệt cho sử dụng lâm sàng (cập nhật đến tháng 1 năm 2020)
Sinh vật biển

Nhóm chất

Nhà sản xuất

Chỉ định

Năm được
cơng nhận

Cytarabine, ara-C
(Cytosar-U®)

Bọt biển

Nucleosid


Pfizer

Chống ung thư

1969*

Vidarabine, ara-A (Vira-A®)

Bọt biển

Nucleosid

Mochida
Pharmaceuticals

Kháng virus

1976*

Ziconotide (Prialt®)

Động vật thân mềm

Peptid

Jazz Pharmaceuticals

Giảm đau


2004*

Omega-3-acid ethyl esters
(Lovaza®)



Acide béo omega-3

GlaxoSmithKline

Hạ triglycerid

2004*

Midostaurin (Rydapt®)

Hải tiêu

Indolocarbazol

Eribulin mesylate (E7389,
Halaven®)

Bọt biển

Macrolid

Brentuximab vedotin
(Adcetris®)


Động vật thân mềm/
Vi khuẩn lam

Trabectedin (ET-743,
Yondelis®)

Hoạt chất
(Biệt dược)

Novartis
Chống ung thư
Pharmaceuticals, Inc.

2007*

Eisai Inc.

Chống ung thư

2010*

ADC (MMAE)

Seattle Genetics

Chống ung thư

2011*


Hải tiêu

Alkaloïd

PharmaMar

Chống ung thư

2015*

Plitidepsin (Aplidin®)

Hải tiêu

Depsipeptid

PharmaMar

Chống ung thư

2018**

Polatuzumab vedotin

Động vật thân mềm/
Vi khuẩn lam

ADC (MMAE)

Genentech/Roche


Chống ung thư

2019*

Enfortumab Vedotin -ejfv Động vật thân mềm/
(PADCEV TM)
Vi khuẩn lam

ADC (MMAE)

Astellas Pharma &
Seattle Genetics

Chống ung thư

2019*

(PolivyTM)

* Công nhận bởi FDA (USA);** Công nhận bởi Úc; Ara-A: 9-β-D-arabinofuranosyladenin; Ara-C: cytosin
arabinosid; ADC (antibody-drug conjugate): liên hợp kháng thể-thuốc; MMAE: monomethyl auristatin E

4

B - Khoa học Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020
XU HƯỚNG SÀNG LỌC HƯỚNG ĐÍCH

TRONG NGHIÊN CỨU HOẠT CHẤT TỪ
TỰ NHIÊN BIỂN ỨNG DỤNG TRỊ LIỆU
Trong mười năm qua, để cải thiện hiệu quả
và tính chọn lọc của các phân tử hoạt tính, đặc
biệt trong việc phát triển các thuốc chống ung
thư, các sàng lọc theo đích tác động điều trị cụ
thể đã phát triển đáng kể so với sàng lọc các sản
phẩm gây độc tế bào. Ở mức độ phân tử, protein
kinase đã trở thành mục tiêu được sử dụng
nhiều nhất để làm nổi bật các phân tử mới về lợi
ích trị liệu(21). Hai chất ức chế protein kinase (PKI,
protein kinase inhibitor) có nguồn gốc từ biển được
phê duyệt là midostaurin (Rydapt®), plitidepsin
(Aplidin®) và 11 chất đã được đưa vào thử
nghiệm lâm sàng và tiền lâm sàng: 3 chất được
thử nghiệm lâm sàng ở giai đoạn III
(meisoindigo, lestaurtinib, enzastaurin), 4 chất ở
giai đoạn II (UCN-01, kahalalid F, CEP-2563,
CEP-1347), 1 chất ở giai đoạn I (isokahalalid F)
và 3 chất trong nghiên cứu tiền lâm sàng
(staurosporin, variolin B, fascaplysin). Các PKI
này được sử dụng để điều trị chống ung thư,
ngoại trừ CEP-1347 dùng cho điều trị bệnh
Parkinson(17,22-23). Ở mức độ tế bào, chết tế bào
theo chương trình cũng trở thành đích tác động
ưa thích, đặc biệt trong nghiên cứu thuốc chống
ung thư(24). Ba chất điều hòa sự chết tế bào có
nguồn gốc từ biển đã được phê duyệt hoặc đang
trong quá trình đánh giá lâm sàng là trabectedin
(ET-743, Yondelis®), bryostatin-1 và kahalalid F.

Staurosporin, chất ức chế protein kinase,
được coi là nguồn cảm hứng để thúc đẩy sự phát
triển của PKI. Alkaloid indalocarbazol này đã
được phát hiện vào năm 1977 ở một loại vi
khuẩn trên cạn (Streptomyces staurosporeus) cũng
như ở một số loài sinh vật biển như Hải
tiêu Eudistoma toealensis và Giun dẹp
Pseudoceros sp.(25–27). Hoạt chất này ức chế sự
tăng sinh của 12 dòng tế bào ung thư bạch cầu(28).
Mặc dù staurosporin rất độc và không được ứng
dụng trên lâm sàng, các chất tương tự đã được
phát triển và sử dụng trong một số giai đoạn thử

B - Khoa học Dược

Tổng quan
nghiệm lâm sàng hoặc được FDA chấp thuận, ví
dụ như midostaurin (Rydapt®)(15). Midostaurin
nhắm mục tiêu một số protein kinase như FLT3
(fms-like tyrosine kinase 3), PKC (protein kinase C)
và VEGFR (vascular endothelial growth factor
receptor). Hoạt chất này đã được nghiên cứu đặc
biệt để điều trị bệnh bạch cầu tủy cấp tính, giúp
ngăn chặn các tế bào phát triển và tăng sinh. So
với cấu trúc của staurosporin, việc bổ sung một
nhóm phenol làm tăng khả năng hấp thụ của
phân tử (nồng độ trong huyết tương đạt đỉnh chỉ
trong 1 giờ sau lần dùng đầu tiên) và giảm độc
tính của phân tử (liều 50-225 mg/ngày). Do đó
nhóm phenol này mang lại hiệu quả và an toàn

cho midostaurin. Xu hướng hiện nay là phát
triển các chất ức chế kinase từ cấu trúc của một
hit, chẳng hạn như staurosporin. Việc sử dụng
phương pháp docking trên máy tính (in silico)
trong nghiên cứu các phân tử mới có hoạt tính là
cần thiết nhằm hiểu rõ hơn về sự tương tác với
kinase đích và định hướng tổng hợp các dẫn
xuất hóa học. Các kỹ thuật khác như quang phổ
tinh thể (crystallography) và phổ cộng hưởng từ
hạt nhân (NMR) cũng được sử dụng để xác định
cấu trúc ba chiều, sau đó sẽ được đánh giá hoạt
tính sinh học bằng phương pháp docking. Các
phân tử có nguồn gốc biển, trong đó có
staurosporin, là những ứng cử viên rất tốt trong
việc phát triển các loại thuốc hoặc các dẫn xuất
sử dụng trong trị liệu ở người(22).

KẾT LUẬN
Các nghiên cứu nêu trên đã chỉ ra vai trò
ứng dụng của các hoạt chất tự nhiên từ biển
trong ngành công nghiệp dược phẩm. Thật vậy,
các phân tử này được sử dụng trị liệu như các
tác nhân chống ung thư hay các tác nhân bảo vệ
thần kinh. Các hoạt chất từ biển có khả năng
điều biến sự chết tế bào ung thư theo các cơ chế
khác nhau. Sự đa dạng của các cơ chế hoạt động
này giúp vượt qua sự kháng thuốc của các tế bào
ung thư đối với các phương pháp điều trị hiện
tại. Tuy nhiên, việc sử dụng các phân tử từ sinh
vật biển, để điều trị chính hoặc điều trị bổ sung,

vẫn cịn hạn chế do độc tính khơng mong muốn

5


Tổng quan
hoặc thiếu dữ liệu về cơ chế hoạt động của
chúng. Song song với việc tìm kiếm các tác nhân
trị liệu mới có nguồn gốc biển, cần phải tiến
hành biến đổi cấu trúc hóa học của các phân tử,
nhằm khơng những cải thiện hiệu quả mà còn
giảm tác dụng phụ của chúng. Tóm lại, các hoạt
chất tự nhiên từ biển và các dẫn xuất tổng hợp
của chúng là một nguồn hoạt chất quan trọng
cho ngành công nghiệp dược phẩm.
Tổng quan tài liệu cũng dẫn chúng ta đến
một trong những nguồn tài nguyên lớn nhất về
hoạt chất sinh học từ biển: Bọt biển(29). Thật vậy,
nhóm này được biết đến với việc sản xuất các
chất chuyển hóa thứ cấp có hoạt tính mạnh:
alkaloid, terpenoid và macrolid, kết quả từ sự
cộng sinh của Bọt biển - vi sinh vật biển. Sự cộng
sinh này thay đổi theo các điều kiện môi trường
(địa lý, độ sâu, nhiệt độ, pH) và do đó tạo ra sự
đa dạng về cấu trúc và hoạt tính sinh học. Các kỹ
thuật phân tử (molecular technique) và kỹ thuật
mô tả sử dụng kính hiển vi (microscopy
technique) đã được sử dụng để mô tả cộng đồng
vi sinh vật cộng sinh với Bọt biển(30). Từ những
nghiên cứu này, có thể tiến hành biến đổi các

cộng đồng vi sinh vật này, bằng cách gây stress
phi sinh học (ví dụ như giảm độ pH của nước)
để tạo ra các hợp chất hoạt tính sinh học mới
trong tương lai(31).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Norse EA (1993). Global marine biological diversity: a strategy
for building conservation into decision making, pp.417. Island
Press, USA.
2. Rinehart KL (1992). Secondary metabolites from marine
organisms. Ciba Found Symp, 171:236-254.
3. Pietra F (2002). Biodiversity and natural product diversity. V21,
1st ed, pp.367. Elsevier, United Kingdom, UK.
4. Giordano D, Coppola D, Russo R, Denaro R, Giuliano L, Lauro
FM, et al (2015). Marine microbial secondary metabolites:
pathways, evolution and physiological roles. Adv Microb Physiol,
66:357-428.
5. Blunt JW, Carroll AR, Copp BR, Davis RA, Keyzers RA, Prinsep
MR (2018). Marine natural products. Nat Prod Rep, 35(1):8-53.
6. Blunt JW, Copp BR, Keyzers RA, Munro MHG, Prinsep MR
(2017). Marine natural products. Nat Prod Rep, 34(3):235-294.
7. Blunt JW, Copp BR, Keyzers RA, Munro MHG, Prinsep MR
(2016). Marine natural products. Nat Prod Rep, 33(3):382-431.

6

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020
8. Lindequist U (2016). Marine - derived pharmaceuticals - challenges
and opportunities. Biomol Ther, (6):561-571.
9. de Jesus RMF, de Morais AMB, de Morais RMSC (2015). Marine

polysaccharides from algae with potential biomedical
applications. Mar Drugs, 13(5):2967-3028.
10. Anjum K, Abbas SQ, Shah SAA, Akhter N, Batool S, Hassan
SSU (2016). Marine sponges as a drug treasure. Biomol Ther,
24(4):347-362.
11. Ercolano G, De Cicco P, Ianaro A (2019). New drugs from the
sea: pro-apoptotic activity of sponges and algae derived
compounds. Mar Drugs, 17(1):1-31.
12. Werner B, Burke DC (1955). Contributions to the study of
marine products. xxxix the nucleosides of sponges. iii1
spongothymidine and spongouridine2. J Org Chem,
20(11):1501-1507.
13. Munro MHG, Blunt JW, Dumdei EJ, Hickford SJH, Lill RE, Li S, et
al (1999). The discovery and development of marine compounds
with pharmaceutical potential. J Biotechnol, 70(1):15-25.
14. Di Costanzo F, Di Dato V, Ianora A, Romano G (2019).
Prostaglandins in marine organisms: a review. Mar Drugs, 17(7).
15. Kim ES (2017). Midostaurin: first global approval. Drugs,
77(11):1251-1259.
16. Simmons TL, Andrianasolo E, McPhail K, Flatt P, Gerwick WH
(2005). Marine natural products as anticancer drugs. Mol Cancer
Ther, 4(2);333-342.
17. Song X, Xiong Y, Qi X, Tang W, Dai J, Gu Q, et al (2018).
molecular targets of active anticancer compounds derived from
marine sources. Mar Drugs, 16(5):1-21.
18. Abadines IB, Le K, Newman DJ, Glaser KB, Mayer AM (2019).
The marine pharmacology and pharmaceuticals pipeline in
2018. FASEB J, 33(S1):504.1.
19. Mayer AMS, Glaser KB, Cuevas C, Jacobs RS, Kem W, Little RD,
et al (2010). The odyssey of marine pharmaceuticals: a current

pipeline perspective. Trends Pharmacol Sci, 31(6):255-265.
20. Mayer AMS, Rodríguez AD, Taglialatela-Scafati O, Fusetani N
(2017). Marine pharmacology in 2012–2013: marine compounds
with antibacterial, antidiabetic, antifungal, anti-inflammatory,
antiprotozoal, antituberculosis, and antiviral activities, affecting
the immune and nervous systems, and other miscellaneous
mechanisms of action. Mar Drugs, 15(9):273.
21. Mayer AM, Nguyen M, Kalwajtys P, Kerns H, Newman DJ,
Glaser KB (2017). The marine pharmacology and
pharmaceuticals pipeline in 2016. The FASEB Journal,
31(S1):818.1.
22. Bharate SB, Sawant SD, Singh PP, Vishwakarma RA (2013).
Kinase inhibitors of marine origin. Chem Rev, 113(8):6761-6815.
23. Ning C, Wang HMD, Gao R, Chang YC, Hu F, Meng X, et al
(2018). Marine-derived protein kinase inhibitors for
neuroinflammatory diseases. Biomed Eng OnLine, 17.
24. Guzmán EA (2019). Regulated cell death signaling pathways
and marine natural products that target them. Mar Drugs,
17(2):76.
25. Omura S, Iwai Y, Hirano A, Nakagawa A, Awaya J, Tsuchiya H,
et al (1977). A new alkaloid am-2282 of streptomyces origin
taxonomy,
fermentation,
isolation
and
preliminary
characterization. J Antibiot (Tokyo), 30(4):275-282.
26. Schupp P, Eder C, Proksch P, Wray V, Schneider B, Herderich
M, et al (1999). staurosporine derivatives from the ascidian
Eudistoma toealensis and its predatory flatworm Pseudoceros sp. J

Nat Prod, 62(7):959-962.

B - Khoa học Dược


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020
27. Schupp P, Proksch P, Wray V (2002). Further new staurosporine
derivatives from the ascidian Eudistoma toealensis and its
predatory flatworm Pseudoceros sp. J Nat Prod, 65(3):295-298.
28. Schupp P, Steube K, Meyer C, Proksch P (2001). Antiproliferative effects of new staurosporine derivatives isolated
from a marine ascidian and its predatory flatworm. Cancer Lett,
174(2):165-172.
29. Becerro MA (2012). Advances in sponge science: physiology,
chemical and microbial diversity, biotechnology. In: Lesser M,
Fuiman LA, Young CM (eds). Advances in marine biology, V62
1st ed, pp.376. Elsevier, Lon don UK.
30. Dupont S, Corre E, Li Y, Vacelet J, Bourguet-Kondracki ML
(2013). First insights into the microbiome of a carnivorous
sponge. FEMS Microbiol Ecol, 86(3):520-531.

B - Khoa học Dược

Tổng quan
31. Padiglia A, Ledda FD, Padedda BM, Pronzato R, Manconi R
(2018). Long-term experimental in situ farming of Crambe crambe
(Demospongiae: Poecilosclerida). PeerJ, 1-24.

Ngày nhận bài báo:

04/02/2020


Ngày phản biện nhận xét bài báo:

04/06/2020

Ngày bài báo được đăng:

20/07/2020

7



×