Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.24 KB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐỨC VŨ

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐỨC VŨ

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TÔN THIỆN PHƯƠNG



HÀ NỘI - 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: "VKSND tập trung
làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", Nghị quyết 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra: "Chất lượng cơng tác tư pháp nói chung
................... lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp".
Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, VKSND là cơ quan THTT có chức năng THQCT và kiểm sát
các hoạt động điều tra. Để thực hiện chức năng kiểm sát, VKS đã tiến hành nhiều
công tác kiểm sát khác nhau, như công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm, đề ra yêu cầu xác minh tin báo, kiểm sát khám nghiệm hiện trường,
tử thi, kiểm sát khởi tố vụ án, bị can, kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
và đề ra u cầu điều tra. Trong đó cơng tác KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS nhằm phối hợp, tác động yêu cầu CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra thu
thập được đầy đủ các thông tin, tài liệu, chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trong vụ án được khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật mang ý nghĩa
hết sức quan trọng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, khoa học cơng
nghệ phát triển nhanh chóng. Nhà nước đang thực hiện cải cách tư pháp…thì cơng
tác điều tra tội phạm là một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra trong tình hình hiện
nay để đảm bảo trật tự xã hội trong mọi tình huống. Đối với tội phạm tội lạm dụng
tín nhiệm CĐTS, ngồi những yếu tố tác động chung, do đặc điểm phức tạp và đa
dạng của loại tội phạm này đã đặt ra những khó khăn vướng mắc trong q trình
phịng ngừa, điều tra các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Thực tiễn điều tra tội
phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS cho thấy đối tượng phạm tội là các thành phần
trong xã hội ở mọi độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, hồn cảnh kinh tế ...



Bình Định là một tỉnh thuộc vùng Nam Trung Bộ, có diện tích tự nhiên
khoảng 6.100 km², dân số khoảng 2,468 triệu người, mật độ dân số 389 người/km²,
phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các vùng đơ thị. Địa giới hành chính
của tỉnh trải dài theo hướng Bắc - Nam, với ưu thế là một trong những cửa ngõ ra
biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng Nam Lào trong việc giao lưu với các quốc
gia ở khu vực và quốc tế. Trong những năm gần đây, các loại tội phạm trên địa bàn
tỉnh Bình Định diễn biến phức tạp, gây thiệt hại không nhỏ đến tính mạng, sức
khỏe, tài sản của Nhà nước và Nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Trong đó, tội phạm tội lạm dụng
tín nhiệm CĐTS đã và đang gây lo lắng trong Nhân dân.
Trong những năm qua, VKSND đã có nhiều cố gắng trong cơng tác kiểm sát
hoạt động điều tra các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS, góp phần quan trọng
trong hoạt động điều tra, khám phá vụ án để truy tố, xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Tuy nhiên, cơng tác KSĐT những vụ án tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS vẫn cịn nhiều bất cập, hạn chế như: có nhiều vụ việc xảy ra CQĐT thông
báo cho VKS, nhưng VKS không tiến hành hoạt động kiểm sát thường xuyên các
biện pháp điều tra, mà chỉ kiểm sát qua biên bản giấy tờ nên không nắm bắt được
nội dung vụ án; những vấn đề phát sinh trong quá trình điều tra để kịp thời yêu cầu
điều tra thu thập đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ nên đã gây rất nhiều khó
khăn trong chứng minh tội phạm sau này dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do dân chủ của cơng dân và ảnh hưởng nhiều đến
uy tín của các cơ quan THTT. Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải hồn
thiện cơng tác KSĐT các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nhằm giúp cho hoạt
động điều tra đạt hiệu quả cao.
Vấn đề tội phạm về xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định nói chung
và tội phạm về Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng đang có chiều
hướng gia tăng. Bên cạnh đó, thực tiễn đấu tranh, xử lý loại tội phạm này tại địa
phương vẫn còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc cần phải được hướng dẫn, để

thống nhất về mặt nhận thức và đường lối giải quyết. Các vụ án hình sự về tội Lạm


dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội danh về xâm phạm sở hữu
theo quy định của Bộ luật hình sự. Qua các lần ban hành, sửa đổi Bộ luật hình sự,
tội danh này có nhiều thay đổi căn bản, thể hiện sự tiến bộ trong trình độ lập pháp
của nước ta, cũng như thể hiện tính phù hợp với địi hỏi, u cầu của thực tiễn đấu
tranh phịng, chống tội phạm. Thực trạng tỉnh Bình Định trong những năm qua công
tác KSĐT các vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS cịn nhiều sơ hở, hiệu quả công
tác chưa cao, số vụ việc thụ lý nhiều nhưng số vụ án được giải quyết chiếm tỷ lệ
thấp.
Quy định của Bộ luật hình sự và việc giải quyết tội phạm về lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trong những năm qua còn đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và
cả thực tiễn cần phải được nghiên cứu, rút kinh nghiệm. Đây là vấn đề thực tiễn rất
cần được sự quan tâm nghiên cứu, tổng kết để xây dựng thành lý luận, nhưng cho
đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp nội dung này. Từ
những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
- Trong thời gian qua, đã có các cơng trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn
đề lý luận về kiểm sát điều tra vụ án hình sự, như: “Những giải pháp nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, Viện Khoa học
kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; “Vai trị của Viện kiểm sát trong thực
hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số
08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; ...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên tập trung làm rõ những vấn đề lý
luận chung về kiểm sát điều tra như: Khái niệm, bản chất, đặc điểm và ý nghĩa hoạt
động kiểm sát điều tra,... một số khái niệm có liên quan, đặc trưng pháp lý tội lạm



dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản … tác giả sẽ tiếp thu và kế thừa những quan điểm
khoa học trên làm nền tảng, căn cứ, cơ sở lý luận trong luận văn của mình.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm
sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nêu trên, có một
số cơng trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài trước
đó. Tuy nhiên, các đề tài trên chỉ ghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn công tác
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung, cơng tác kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự một số tội phạm cụ thể trên địa bàn khác hoặc nghiên cứu hoạt động kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự có các đối tượng phạm tội đặc biệt trên địa bàn khác.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Bình Định. Chính vì vậy đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Định” là một đề tài khơng bị
trùng lắp với các cơng trình khoa học đã nghiên cứu từ trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về vấn đề kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong
giai đoạn điều tra VAHS nói chung và cụ thể là KSĐT VAHS tội lạm dụng tín
nhiệm CĐTS nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này trong giai đoạn điều tra và
mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động KSĐT VAHS tội lạm
dụng tín nhiệm CĐTS. Đồng thời, luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động KSĐT
VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến
năm 2019. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên
địa bàn tỉnh Bình Định thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ đi sâu giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản sau:



+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về KSĐT VAHS của VKSND đối với tội
lạm dụng tín nhiệm CĐTS.
+ Làm rõ đặc điểm tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung, tội phạm
lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến
năm 2019 từ đó làm rõ một số vấn đề thực tiễn, những ưu điểm, tích cực và mặt hạn
chế của hoạt động KSĐT đối với loại tội phạm này.
+ Kiến nghị, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT
VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín
nhiệm CĐTS của VKSND tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về khơng gian: Đề tài nghiên cứu hoạt động KSĐT VAHS tội lạm
dụng tín nhiệm CĐTS của VKSND tỉnh Bình Định dưới góc độ luật hình sự và
TTHS trên địa bàn tỉnh Bình Định.
+ Phạm vi về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của phép biện chứng
duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, về cải cách tư pháp, hồn thiện
pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


Các phương pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu, đó là: sử dụng các

phương pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp
nghiên cứu đặc thù của LHS và TTHS, cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các cơng trình khoa học có liên quan, các
văn bản pháp lý, các báo cáo sơ kết, tổng kết đánh giá về số liệu, tình hình các loại
tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Định.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh
giá những kết quả, tài liệu thu thập được, các chuyên đề, thông báo rút kinh nghiệm
về kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung và từ thực tiễn hoạt động KSĐT VAHS
tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian
qua.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo
sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội lạm
dụng tín nhiệm CĐTS, thực trạng hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hồn thiện lý luận về
hoạt động KSĐT các VAHS nói chung và lý luận hoạt động KSĐT VAHS tội lạm
dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn
KSĐT tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Ngồi ra, nội dung và kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
hoạt động nghiên cứu, hội thảo, tập huấn chuyên đề, tập huấn nâng cao cơng tác
KSĐT tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS cho cán bộ, KSV, từ đó vận dụng vào hoạt


động nghiệp vụ và công tác, nâng cao chất lượng cơng tác THQCT và KSĐT của
VKSND tỉnh Bình Định.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được kết cấu như sau: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và được chia thành 03 chương:
Chương 1: Lý luận chung về kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra vụ án lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác kiểm sát điều tra
vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Định
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý và hình phạt tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm
Tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, gồm có 4 thuộc tính cơ bản: 1. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội; 2.
Được quy định trong BLHS; 3. Phải chịu hình phạt của pháp luật; 4. Mỗi tội phạm
đều cấu tạo bởi 4 yếu tố cấu thành, bao gồm: mặt khách quan; mặt chủ quan; mặt
khách thể và mặt chủ thể của tội phạm.
Khái niệm của tội phạm theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội ........... của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa”.


Trong lịch sử lập pháp, tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS quy định lần đầu tiên
tại Điều 140 BLHS năm 1999, đây là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS của cơng dân quy định tại Điều 158, Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS XHCN
quy định tại Điều 135 BLHS năm 1985, đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS đã được quy định tại Điều 175, cụ thể:
“1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây ...... thì bị phạt cải

tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối CĐTS đó hoặc đến
thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả;
b) Vay, mượn, th tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp
pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.” [27, tr.129].
Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) đã cụ thể và chi tiết hơn trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009), tài sản bị chiếm đoạt được định lượng rõ ràng, phù hợp với điều
kiện thực tế. Nhận thức về loại tội phạm trên theo khoa học pháp lý là: “hành vi sau
khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của
người khác hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có
khả năng trả lại tài sản”.
Như vậy, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm lạm dụng tín
nhiệm CĐTS và lý luận khoa học hình sự, căn cứ vào quy định của Điều 175 về tội
lạm dụng tín nhiệm CĐTS và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho
thấy: “Lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản của
người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã
dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS của người khác hoặc đã sử dụng tài
sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản, tài sản


bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này
hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và
290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối
với người bị hại” [17, tr.3].

1.1.2. Đặc điểm pháp lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS trực tiếp xâm hại quyền sở hữu của
người khác về tài sản. Đối tượng tác động của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS
là tài sản đang có chủ. Theo quy định của Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017), tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS có một số đặc điểm pháp lí sau:
1.1.2.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS không xâm phạm đến quan
hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với
các tội khác về xâm phạm sở hữu. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản,
người phạm tội bị truy đuổi mà có hành vi chống trả nhằm để tẩu thoát, dẫn đến hậu
quả gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu TNHS
về tội phạm tương ứng với hành vi đã gây ra.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được thể hiện ở hành vi
chiếm đoạt, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của
người khác thành của mình sau khi đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác bằng
thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài
sản không thể thực hiện được các quyền năng đối với tài sản của họ hoặc được giao
quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người phạm tội và người này có
thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.


Thủ đoạn gian dối nghĩa là sau khi đã nhận được tài sản, người phạm tội sẽ
dùng mọi phương thức, như: dùng lời nói, hành động, giấy tờ để vay, mượn, thuê tài
sản của người khác nhằm CĐTS. Người phạm tội sử dụng các thủ đoạn gian dối
nhằm chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác.
Bỏ trốn có thể được hiểu là cố tình trốn tránh để khơng phải thực hiện nghĩa
vụ trả tiền sau khi đã giao dịch với người khác bằng các hình thức vay, mượn, thuê
tài sản hoặc là bỏ trốn để CĐTS sau khi vay, mượn, mua hoặc nhận được của người

khác bằng các hình thức hợp đồng. Để xác định một người có bỏ trốn hay không
cần xác định các dấu hiệu sau: Việc họ rời bỏ nơi cư trú là lén lút hay cơng khai; Lý
do, mục đích của việc rời bỏ nơi cư trú; Việc rời bỏ nơi cư trú là tạm thời hay không
xác định thời hạn…
Cũng được coi là CĐTS trong trường hợp đã sử dụng tài sản mà mình đã
vay, mượn, thuê, hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp
đồng vào các hình thức bất hợp pháp (Như dùng tiền vay để đánh số đề, đánh bạc,
bn lậu,…) dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản cho bên vay, cho mượn hoặc
giao tài sản. Đặc điểm của hành vi chiếm đoạt nêu trên là xảy ra sau khi nhận được
tài sản thông qua các giao dịch dân sự như vay, mượn, thuê, hoặc nhận được tài sản
của người khác (như do người khác gửi giữ…) bằng các hình thức hợp đồng dân sự
hoặc hợp đồng kinh tế.
Trong thực tiễn có ý kiến cho rằng trường hợp sử dụng điện thoại không trả
tiền cước hoặc thuê tài sản không trả tiền thuê theo hợp đồng là phạm tội lạm dụng
tín nhiệm CĐTS. Tơi cho rằng như vậy là chưa chính xác vì tiền cước điện thoại và
tiền thuê phải trả khi thuê tài sản thực chất là khoản lợi tức mà bên cho vay, cho
mượn, cho thuê được hưởng theo hợp đồng. Trong khi đó, dấu hiệu được điều luật
mơ tả phải là vay, mượn, thuê tài sản… để chiếm đoạt chính tài sản đó chứ khơng
phải là chiếm đoạt lợi tức của tài sản đó. Vì vậy, việc khơng trả tiền cước điện thoại,
tiền thuê tài sản theo quan điểm của tôi là chỉ sự vi phạm nghĩa vụ dân sự.


Về giá trị tài sản chiếm đoạt, giá trị của tài sản bị chiếm đoạt phải từ
4.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu TNHS. Nếu tài sản bị chiếm đoạt trị giá
dưới 4.000.000 đồng thì phải thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 175
BLHS. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm lạm dụng tín nhiệm
Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được thực hiện do cố ý,với mục đích là mong
muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích CĐTS là dấu hiệu đặc trưng, dấu hiệu bắt
buộc của cấu thành tội có tính chất chiếm đoạt nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm

CĐTS nói riêng.
1.1.2.4. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là bất kỳ người nào có đủ năng
lực TNHS và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các điểm mới của
BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999, BLHS mới đã có sự tách bạch rõ ràng
hơn về độ tuổi chịu TNHS đối với người phạm tội.
1.1.3. Hình phạt của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS có năm khung hình phạt tương ứng theo từng
khoản của điều luật. Theo quy định tại khoản 1 điều 175 BLHS năm 2015, thì
khung hình phạt là cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm. Với mức cao nhất của khung hình phạt tối đa là 03 năm, đây là loại tội ít
nghiêm trọng theo phân loại tội phạm trong BLHS 2015.
Khoản 2 quy định về các trường hợp tăng nặng và có khung hình phạt tù từ
02 năm đến 07 năm. Đây là những trường hợp căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của
hành vi liên quan đến giá trị tài sản bị chiếm đoạt, đến hậu quả từ hành vi chiếm
đoạt và tính chất nghiêm trọng của hành vi chiếm đoạt trên thực tế để làm tình tiết
định khung tăng nặng hình phạt đối với người có hành vi CĐTS. Với mức cao nhất
của khung hình phạt là 07 năm (thuộc loại tội nghiêm trọng).


Khoản 3 quy định: phạm tội CĐTS trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm (thuộc loại tội rất nghiêm
trọng).
Khoản 4: phạm tội CĐTS trị giá 500.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm (thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng).
Khoản 5: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng và áp dụng
một số biện pháp tư pháp.
Trên đây là những khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng và hình phạt của tội
phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng
đối với hoạt động KSĐT khám phá đối với tội này. Trên cơ sở khái niệm và các dấu

hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS cho phép nghiên
cứu đặc điểm hình sự cũng như đặc điểm tội phạm học của loại tội phạm này, nhất
là những yếu tố, những hiện tượng xã hội tiêu cực làm phát sinh và gia tăng tội
phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Đây cũng chính là cơ sở để lựa chọn và áp dụng
có hiệu quả các biện pháp KSĐT đối với các vụ án này của VKSND tỉnh Bình Định
trong tình hình hiện nay.
1.2. Những đặc điểm về điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1.2.1. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự
Điều tra VAHS là giai đoạn thứ hai trong các giai đoạn TTHS, mà trong đó
CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS
tiến hành các hoạt động, hành vi tố tụng cần thiết nhằm thu thập và củng cố các tài
liệu, chứng cứ liên quan, nghiên cứu các tình tiết của VAHS, nhằm phát hiện nhanh
chóng, đầy đủ tội phạm, đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách triệt để, khách
quan, toàn diện, làm căn cứ vững chắc cho việc thực hiện các bước tiến hành tố
tụng ở giai đoạn tiếp theo của vụ án.


Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là xác định tội phạm và người thực hiện tội
phạm; xác định hậu quả thiệt hại do tội phạm gây ra; xác định nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, từ đó yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục và
ngăn ngừa. Điều tra VAHS là một giai đoạn độc lập của TTHS, có chức năng thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để
chứng minh tội phạm và người phạm tội; Việc áp dụng pháp luật này phải tuân theo
trình tự, thủ tục được quy định cụ thể theo BLTTHS; Thời điểm của giai đoạn này
được bắt đầu từ khi cơ quan (người) THTT hình sự có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố VAHS và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về
việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ VAHS tương ứng.
1.2.2. Đặc điểm điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.2.2.1. Những yêu cầu của hoạt động điều tra vụ án lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản
Trong q trình tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng
tín nhiệm CĐTS phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải được tiến hành
có kế hoạch đảm bảo tính chủ động, khoa học, tính hiệu quả của hoạt động điều tra.
Nếu khơng có kế hoạch, hoạt động điều tra dễ dẫn tới bị động, không có phương
hướng, khơng đảm bảo tính khoa học, tính hiệu quả, thậm chí có thể làm bế tắc vụ án.
Lập kế hoạch điều tra đảm bảo tổ chức công việc điều tra có mục đích và có hiệu quả,
đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các lực lượng trong quá trình điều tra
vụ án. Trong mọi trường hợp phải chủ động lập kế hoạch điều tra vụ án nói chung
cũng như lập kế hoạch tiến hành từng biện pháp điều tra cụ thể. Kế hoạch điều tra
phải được Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng CQĐT duyệt [16, tr.143].
+ Hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải được tiến hành
một cách nhanh chóng và linh hoạt đảm bảo cho tài liệu, vật chứng khơng bị tẩu tán,
tiêu hủy gây khó khăn, cản trở đến hoạt động điều tra, đối tượng phạm tội không có
thời gian chạy trốn, đối phó với hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra được tiến hành


nhanh chóng cịn thể hiện sự tn thủ về thời hạn điều tra do BLTTHS quy định.
Trong quá trình điều tra, ĐTV sử dụng một cách tổng hợp, linh hoạt, nhịp nhàng các
biện pháp để thu thập tài liệu chứng cứ để làm rõ vụ án trong từng tình huống cụ thể.
Thể hiện như đánh giá đúng tình huống điều tra, nhanh chóng đề ra các quyết định
cần thiết, kịp thời và nhanh chóng thực hiện các quyết định đó, xây dựng kế hoạch
thực hiện cụ thể với các tình huống điều tra cụ thể [16, tr.143].
+ Sử dụng có hiệu quả những biện pháp trinh sát, những phương tiện kỹ
thuật trong q trình điều tra vụ án. Để có được sự kết hợp chặt chẽ này cần phải có
mối quan hệ chặt chẽ, thiết thực giữa bộ phận điều tra với bộ phận trinh sát. ĐTV
cung cấp cho lực lượng trinh sát những thông tin cần thiết thu thập được qua tiến
hành những biện pháp điều tra để bộ phận trinh sát có thể sử dụng làm cơ sở tiến
hành các biện pháp trinh sát cần thiết. Cán bộ trinh sát phải sử dụng triệt để và có

hiệu quả những biện pháp trinh sát, các phương tiện kỹ thuật để phối hợp khám phá
vụ án, cung cấp những thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp trinh sát. Do
đó, địi hỏi ĐTV phải nắm vững phạm vi và khả năng của những biện pháp trinh sát
và các phương tiện kỹ thuật để phối hợp điều tra làm rõ vụ án. Khi phối hợp phải có
hình thức cụ thể, kịp thời hỗ trợ cho các hoạt động điều tra [16, tr.144].
+ Đấu tranh chống tội phạm là nhiệm vụ của tồn dân chứ khơng phải riêng
của CQĐT, vì vậy phải vận động và tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tham
gia tích cực vào cơng tác đấu tranh chống tội phạm. Do đó, trong q trình điều tra
phải dự kiến, xác định những vấn đề cần có sự tham gia của các tổ chức quần
chúng, của nhân dân từ đó có kế hoạch và biện pháp cụ thể tiến hành. Giáo dục cho
công dân ý thức trách nhiệm thực hiện pháp luật, nếu cần có sự tham gia trực tiếp
của quần chúng phải có sự hướng dẫn cụ thể, cần có kế hoạch, biện pháp để bảo vệ
họ trong những trường hợp cần thiết.
+ Tổ chức hoạt động phịng ngừa, điều tra các vụ lạm dụng tín nhiệm CĐTS
phải có sự phối hợp sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện nghiệp vụ, nhất


là các hoạt động trinh sát để thu thập tài liệu, phát hiện các dấu hiệu phạm tội, củng
cố chứng cứ nhằm làm rõ sự thật vụ án theo quy định của pháp luật.
+ Tính chất, đặc điểm hình sự của tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS thường
rất phức tạp, đa dạng. Hoạt động phạm tội thường được thực hiện bằng nhiều phương
thức thủ đoạn tinh vi, chặt chẽ, xảo quyệt. Do vậy, để làm rõ bản chất của vụ án lạm
dụng tín nhiệm CĐTS ngồi việc sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phối hợp nhiều
lực lượng và phương tiện, công cụ của ngành như: tuần tra kiểm sốt giao thơng,
quản lý hành chính… CQĐT cịn phải phối hợp, khai thác sử dụng các tài liệu trinh
sát hoặc đặt ra những nội dung, yêu cầu cần điều tra xác minh bằng biện pháp trinh
sát. Sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện các biện pháp để tiến hành hoạt động phịng
ngừa, điều tra các vụ lạm dụng tín nhiệm CĐTS là yêu cầu khách quan.
+ Hoạt động điều tra các vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS thường gặp điều
kiện không thuận lợi trong việc thu thập xử lý, tài liệu. Tội phạm lạm dụng tín

nhiệm CĐTS thường sử dụng đa dạng các loại phương thức thủ đoạn che giấu hành
vi tội phạm, kể cả móc nối, mua chuộc số cán bộ làm công tác điều tra. Trong q
trình điều tra các vụ tàng trữ, vận chuyển, bn bán hàng cấm có thể phải xử lý, giải
quyết những tình huống có những hành vi cản trở hoặc gây khó khăn của đối tượng
phạm tội, người có liên quan hoặc cả những cá nhân khác.
1.2.2.2. Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ khác trong điều tra tội phạm lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Để đấu tranh có hiệu quả tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm
CĐTS nói riêng, ngồi các biện pháp nghiệp vụ cơ bản của lực lượng CSND, cần
thiết phải tiến hành tổng hợp các biện pháp nghiệp vụ khác như: Biện pháp phát
động quần chúng, biện pháp tuần tra vũ trang, biện pháp quản lý hành chính về trật
tự xã hội, biện pháp khoa học kỹ thuật, biện pháp kinh tế,... Để đáp ứng yêu cầu đó,
CQĐT cần thiết phải phối hợp với các cơ quan, đoàn thể quần chúng để tổ chức
triển khai các hoạt động cụ thể của công tác điều tra tội phạm.


1.3. Khái niệm, đối tượng, phạm vi và đặc điểm của hoạt động kiểm sát
điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Khái niệm của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, xuất bản năm 2000, thì: "Kiểm sát
có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước” [33, tr.213].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2002 do Hội đồng Quốc gia chỉ
đạo biên soạn, thì "Kiểm sát là hoạt động của VKSND nhằm kiểm tra, giám sát việc
tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước” [14, tr.431].
Với cách giải thích khái niệm "kiểm sát" nêu trên, chúng tơi cho rằng, kiểm
sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám sát và kiểm tra. Hoạt động giám sát là
hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị giám sát để phát hiện và có
các biện pháp tác động phù hợp để yêu cầu đối tượng bị giám sát kịp thời khắc
phục, sữa chửa nếu có hành vi VPPL. Hoạt động kiểm tra là rà sốt, xem xét để

đánh giá tồn diện đối tượng bị kiểm tra có đảm bảo theo một quy trình nhất định
nào đó.
Tại Điều 20 BLTTHS 2015 thì: “VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS, quyết định việc buộc tội, phát hiện VPPL nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, VPPL đều phải được
phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [24, tr.34]. Như vậy,
BLTTHS 2015 đã thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng, tăng cường trách
nhiệm của VKS trong công tác THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS.
Kiểm sát các hoạt động điều tra VAHS nói chung và vụ án lạm dụng tín
nhiệm CĐTS nói riêng là một hoạt mà VKS tiến hành theo chức năn, quyền hạn đã


được pháp luật quy định. Theo quy định của pháp luật, thì “VKSND có chức năng
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp ........ đảm bảo pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trong đó có KSĐT các VAHS nói chung, KSĐT vụ
án lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng. Hoạt động KSĐT các vụ án lạm dụng tín
nhiệm CĐTS bắt đầu từ giai đoạn phát hiện có dấu hiệu tội phạm đến khi VKS có
quyết định truy tố người phạm tội ra Toà án hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra vụ
án đã có hiệu lực pháp luật. Mục đích của KSĐT là bảo đảm cho các hoạt động điều
tra phải chấp hành đúng các trình tự, thủ tục, ... theo quy định của pháp luật, góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Đối tượng của hoạt động KSĐT là quá trình TTHS của CQĐT và các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Hoạt động KSĐT các
VAHS là một trong những công tác thực hiện chức năng của VKS, là giai đoạn mở
đầu THQCT Nhà nước mà nội dung của nó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra các VAHS của các CQĐT, các ĐTV, các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có liên quan

khác, bảo đảm cho việc điều tra tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Hoạt động KSĐT luôn phải đảm bảo hai yêu cầu, đó là: phải được tiến hành
đúng thủ tục TTHS; phải thu thập chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, cả
những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, đồng thời làm rõ
những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội
để có biện pháp đấu tranh phịng ngừa tội phạm.
Hoạt động KSĐT nhằm đảm bảo cho việc truy cứu TNHS đối với bị can là
có căn cứ theo luật định, phải có căn cứ chứng minh bị can dã thực hiện tội phạm và
khơng có các tình tiết để loại trừ TNHS đối với bị can [31, tr.43].
Từ phân tích nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về KSĐT các VAHS tội lạm
dụng tín nhiệm CĐTS, như sau: “Hoạt động KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước theo chức năng, thẩm quyền của
VKS có nội dung giám sát mọi hoạt động của CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm


vụ tiến hành một số hoạt động điều tra từ khi xác định có dấu hiệu của tội phạm lạm
dụng tín nhiệm CĐTS đến khi VKS ra quyết định truy tố người phạm tội lạm dụng tín
nhiệm CĐTS ra trước toà án, nhằm đảm bảo cho các hoạt động điều tra tội lạm dụng
tín nhiệm CĐTS được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.”
1.3.2. Đối tượng, phạm vi của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.3.2.1. Đối tượng của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Cùng với hoạt động điều tra, hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS đều tập trung vào việc xác định có hay khơng có hành vi phạm tội, ai là
người thực hiện hành vi phạm tội, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, hệ thống
chứng cứ để chứng minh tội phạm, những tình tiết có liên quan tới VAHS để xử lý
theo pháp luật. Nhưng điều cần khẳng định, mang tính bản chất của hoạt động
KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS chính là hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật đối với các CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra cũng như những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra
VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS.
Theo pháp luật Việt Nam, TTHS là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết
VAHS theo quy định của pháp luật, bao gồm: toàn bộ hoạt động của cơ quan
THTT, người THTT, người tham gia tố tụng của cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà
nước khác và tổ chức xã hội, ... góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định
của luật TTHS.
Hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền THTT trong điều tra VAHS là
hoạt động của các cơ quan: CQĐT, VKS, Tòa án. Hoạt động của cơ quan có thẩm
quyền THTT được thực hiện thông qua hoạt động của người THTT. Người THTT
là những công chức trong cơ quan THTT, được bổ nhiệm vào các chức danh tố
tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan đó theo luật định, nhằm góp phần vào việc giải quyết VAHS.


Hoạt động của những người tham gia tố tụng: Bao gồm hoạt động của người
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; hoạt động của
người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; hoạt
động của người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan THTT xác định sự thật vụ án.
Như vậy, trong một chừng mực nhất định, đây cũng là các hoạt động TTHS.
Tất cả các hoạt động nêu trên đều phát sinh trong q trình điều tra VAHS
nói chung và vụ án tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS nói riêng. Do đó, KSĐT VAHS
tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là việc thực hiện chức năng của VKSND, hoạt động
đó có nội dung là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các hoạt động nêu
trên, của các chủ thể nêu trên trong q trình điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy đối tượng của hoạt động KSĐT VAHS tội
lạm dụng tín nhiệm CĐTS là: các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS phát
sinh trong giai đoạn điều tra tội phạm lạm dụng tín nhiệm CĐTS, nhằm đảm bảo
cho q trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

1.3.2.2. Phạm vi của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Phạm vi của hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là giới
hạn về mặt khơng gian, thời gian trong đó diễn ra các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật đối với quá trình điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của
CQĐT có thẩm quyền.
- Phạm vi về mặt khơng gian: ở đây đề cập tới hoạt động KSĐT VAHS tội
lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo lãnh thổ, theo thẩm quyền điều tra của CQĐT đã
được pháp luật quy định. Thực chất nó khẳng định nội dung ở đâu có hoạt động
điều tra VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS thì ở đó có hoạt động KSĐT của VKS
nhằm đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động điều tra tội phạm này.
- Phạm vi về mặt thời gian: đề cập tới hoạt động KSĐT bắt đầu từ thời điểm
nào và kết thúc thời điểm nào, cũng như nội dung hoạt động cụ thể của nó. Thơng


tư liên ngành số 01/TTLN ngày 23-01-1984 giữa VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã xác
định: phạm vi của công tác KSĐT được bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặc phát
hiện được dấu vết của tội phạm cho tới khi kết thúc điều tra bằng các quyết định xử
lý vụ án, xử lý bị can của cơ quan có thẩm quyền. Việc xác định phạm vi như vậy
thể hiện tính đầy đủ, tính tồn diện của cơng tác KSĐT đối với quá trình điều tra
VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS. Mặt khác nó cũng thể hiện đầy đủ bản chất
của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trên cơ sở đó VKS đưa ra các quyết
định sau khi kết thúc điều tra như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hoặc quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng
bản cáo trạng.
Từ sự phân tích trên, có thể chỉ ra rằng phạm vi của hoạt động KSĐT VAHS
tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra
VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS được bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặc
phát hiện được dấu vết của tội phạm cho đến khi kết thúc việc điều tra, VKS ra
quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định pháp luật.

1.3.3. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Hoạt động KSĐT VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là hoạt động giám sát
hoạt động điều tra của CQĐT do VKS thực hiện, bắt đầu từ thời điểm tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm, khởi tố điều tra và kết thúc khi vụ án được kết thúc điều
tra chuyển sang giai đoạn truy tố hoặc đình chỉ điều tra. Viện kiểm sát thực hiện
hoạt động này một cách công khai theo đúng trình tự, thủ tục theo luật định. Đặc
điểm của hoạt động KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS của VKSND
mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động KSĐT các VAHS, song do tính chất đặc
thù của tội phạm, nên hoạt động này có các đặc điểm riêng và có rút ra một số đặc
điểm như sau:
Thứ nhất, KSĐT các VAHS nói chung và VAHS tội lạm dụng tín nhiệm
CĐTS nói riêng là chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt


đầu từ khi có dấu hiệu của tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan THTT
kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra cho VKS đề
nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này là việc VKS tiến hành giám sát trực
tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan THTT, người THTT trong quá trình điều tra
các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS.
Thứ ba, KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là nhằm mục đích
bảo đảm cho pháp luật TTHS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thứ tư, các hoạt động KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS bao
gồm: Kiểm sát việc khởi tố, điều tra; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người
THTT, người tham gia tố tụng; về thẩm quyền điều tra; Yêu cầu CQĐT khắc phục
các VPPL trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về
VPPL của ĐTV; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh ĐTV đã VPPL
trong khi tiến hành điều tra nếu có; Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp
dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và VPPL [41, tr.34].

Thứ năm, chủ thể KSĐT các VAHS tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS phải có
kiến thức về pháp luật, có nghiệp vụ kiểm sát, biết tích lũy kinh nghiệm và có kỹ
năng tác nghiệp. KSV phải vững về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật, nhạy bén, linh
hoạt trong quá trình giám sát hoạt động điều tra để phát hiện kịp thời những sai sót,
vi phạm của CQĐT và yêu cầu khắc phục.
1.4. Nội dung hoạt động kiểm sát các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
1.4.1. Kiểm sát việc việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, khởi tố vụ án, khởi tố bị can tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
1.4.1.1. Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong việc khởi tố vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản


Theo quy định tại Điều 145, 146 và 147 BLTTHS năm 2015 thì CQĐT,
VKS, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình;
Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì trong thời hạn 20 ngày đối
với vụ việc đơn giản và trong thời hạn khơng q 02 tháng đối với vụ việc có nhiều
tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm, CQĐT phải có
trách nhiệm xác minh làm rõ để ra quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Để
đảm bảo thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, Điều 147 BLTTHS 2015
đã quy định cụ thể về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và thẩm quyền
gia hạn được quy định cho Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng VKS có
thẩm quyền.
So với BLTTHS 2003 chỉ có 2 điều luật quy định về tố giác, tin báo về tội
phạm nhưng BLTTHS năm 2015 có đến 7 điều luật (Điều 144, 145, 146, 147, 148,
149, 150) quy định về nội dung này, để thấy rằng việc quy định chặt chẽ về các thủ
tục tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố ý nghĩa vô

cùng quan trọng đối với hoạt động giải quyết vụ án.
Khởi tố VAHS là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu các hoạt động điều
tra và bắt đầu triển khai các hoạt động thực hành quyền truy cứu TNHS đối với
người thực hiện tội phạm đó và tạo cơ sở pháp lý của quá trình TTHS. Tại Điều 153
BLTTHS năm 2015, thẩm quyền khởi tố VAHS được quy định như sau:
- CQĐT quyết định khởi tố VAHS đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội
phạm, trừ những vụ việc khác do pháp luật quy định.
- Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết
định khởi tố VAHS trong trường hợp quy định tại Điều 164 của BLTTHS;
- VKS ra quyết định khởi tố VAHS trong trường hợp: VKS hủy bỏ quyết
định không khởi tố VAHS của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra; VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến


nghị khởi tố; VKS trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố
của Hội đồng xét xử;
- Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố VAHS
nếu qua việc xét xử tại phiên tịa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
Sau khi vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS được khởi tố thì hoạt động kiểm sát
điều tra vụ án phát sinh, CQĐT hoặc một số cơ quan được giao thẩm quyền điều tra
có trách nhiệm phải gửi quyết định khởi tố vụ án đến VKS để tiến hành kiểm sát
việc khởi tố.
Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án lạm dụng tín nhiệm CĐTS của CQĐT nhằm
đảm bảo những tài liệu đã thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng phải có trong
hồ sơ, như: biên bản khám nghiệm hiện trường, việc bắt khẩn cấp, các thủ tục khởi
tố vụ án phải được đóng dấu bút lục của CQĐT và kèm theo bảng kê đầy đủ tên tài
liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong hồ sơ vụ án.
1.4.1.2. Kiểm sát điều tra hoạt động khởi tố bị can tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS: “Khi có đủ căn cứ xác định

một người hoặc pháp nhân ......... thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị
can”. Để ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải có đủ
chứng cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội, làm rõ đó là tội phạm
gì, quy định ở điều khoản nào của BLHS; xác định rõ lý lịch của người thực hiện
hành vi phạm tội. Sau khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định
khởi tố và tài liệu liên quan đến VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Vì vậy, nếu việc
ra quyết định khởi tố bị can đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
khơng chính xác, khơng đảm bảo cơ sở pháp lý sẽ gây khó khăn cho q trình điều
tra, xác định sự thật của vụ án, dễ làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm,
xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, gây tác hại xấu về mặt
chính trị - xã hội, sẽ làm giảm sút lịng tin của cơng dân đối với các cơ quan THTT,
với Nhà nước.


×