Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

“Trình bày những vướng mắc của pháp luật ảnhhưởng đến công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân? Nêu giải pháp khắc phục?”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.08 KB, 19 trang )

A.

MỞ ĐẦU

Kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính là một trong
những công tác quan trọng của Viện kiểm sát khi thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp Hiến định của của mình. Để
thực hiện được cơng tác đó, pháp luật đã có những quy định cụ
thể làm cơ sở cho viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát giải
quyết vụ án hành chính.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cơng tác kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính cũng có khơng ít những vướng mắc
của pháp luật. Vậy những vướng mắc đó là gì? Nó ảnh hưởng
như thế nào đến việc thực hiện công tác kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính của Viện kiểm sát? Giải pháp khắc phục
vướng mắc đó như thế nào? Để làm rõ những vấn để trên, Em
xin chọn đề tài: “Trình bày những vướng mắc của pháp luật ảnh
hưởng đến công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính
của Viện kiểm sát nhân dân? Nêu giải pháp khắc phục?” làm đề
tài cho bài tiểu luận của mình.
I.

NỘI DUNG
Khái qt về cơng tác kiểm sát giải quyết vụ án hành

1.

chính
Khái niệm cơng tác kiểm sát giải quyết vụ án hành

B.



chính
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013 và Điều 2 Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, khẳng định: Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

1


ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, ghóp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp,
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trongsuốt quá trình giải
quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định
của pháp luật” (khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 2014).
Hoạt động tư pháp trong tố tụng hành chính là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước do Tòa án thực hiện. Đây là một
trong những đối tượng của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp
của tòa án.

Như vậy, kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính là
hoạt động của Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án và những người tham gia tố tụng trong giải quyết vụ
án hành chính nhằm mục đích phát hiện vi phạm của Tòa án và
các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng hành chính, trên cơ sở đó
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc
phục, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm có thể xảy ra, ghóp
phàm bảo đảm cho Tòa án giải quyết các vụ án hành chính kịp
thời. Đúng pháp luật; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức; pháp luật của nhà nước được chấp hành nghiêm
chỉnh.
2. Đối tượng kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành
2


chính kịp thời, đúng căn cứ pháp luật. Để đảm bảo u cầu đó
khơng chỉ cần có sự tn thủ pháp luật của cơ quan tiến hành
tố tụng hay những người tiến hành tố tụng mà cịn cần có sự
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng hành chính của
những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Viện kiểm sát không
kiểm sát tất cả các hoạt động của các chủ thể đó mà chỉ kiểm
sát hoạt động của họ trong một phạm vi nhất định đó là khi họ
tham gia vào một quan hệ tố tụng hành chính cụ thể, hay nói
cách khác là kiểm sát những hoạt động của họ khi liên quan
đến việc giải quyết vụ án hành chính. Trên cơ sở đó, xác định
hoạt động của từng chủ thể thông qua các quyết định, hành vi
cụ thể của họ là đúng hay không đúng quy định của pháp luật.
Cơ sở để xác định quyết định, hành vi đó là phù hợp hay khơng

p hù hợp là căn cứ vào quy định của pháp luật tố tụng hành
chính về nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi, nghĩa vụ của từng chủ
thể tương ứng khi họ tham gia vào hoạt động giải quyết vụ án
hành chính. Từ đó, Viện kiểm sát nhân dân có thể phịng ngừa
các hành vi vi phạm có thể xảy ra hoặc phát hiện các hành vi vi
phạm đã xảy ra để yêu cầu chủ thể có hành vi vi phạm đó sửa
chữa, khắc phục, hạn chế những hậu quả có thể xảy ra.
Như vậy, đối tượng của công tác kiểm sát giải quyết vụ án
hành chính là việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, đảm bảo các chủ
thể tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc quy định của pháp luật, ghóp
phần giải quyết vụ án hành chính nhanh chóng, kịp thời, đúng
căn cứ pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước; quyền, lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ tố tụng
hành chính.
3. Phạm vi của cơng tác kiểm sát vụ án hành chính
3


Theo từ điển Tiếng việt, phạm vi được hiểu là khoảng giới
hạn, trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, vấn
đề phạm vi được đặt ra để xác định giới hạn sự tham gia của
Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án hành chính, hay nói
cách khác là xác định điểm bắt đầu cho đến thời điểm kết thúc
của hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của Viện
kiểm sát nhân dân.
Khoản 2 Điều 25 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định:
“Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi
kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên

họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công
tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật”.
Quy chế công tác giải quyết vụ án hành chính cụ thể hóa
phạm vi cơng tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính. Theo đó
“cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính bắt đầu
từ khi Tịa án thơng báo trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính
hoặc từ khi Tịa án thơng báo thụ lý vụ án hành chính đến khi
bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Tịa án có
hiệu lực pháp luật mà khơng có kháng nghị, khơng có yêu cầu,
kiến nghị, đề nghị xem xét lại theo quy định của Luật tố tụng
hành chính” (khoản 1 Điều 3 Quy chế công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hành chính (Ban hành kèm theo Quyết
định số 282/QĐ-VKSTC ngày 01 tháng 08 năm 2017 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)) (sau đây gọi là quy chế
282).
Như vậy, khi tham gia vào hoạt động giải quyết vụ án hành
chính, Viện kiểm sát với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng,
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
4


q trình giải quyết vụ án hành chính, hoạt động đó được bắt
đầu từ khi Tịa án xử lý đơn khởi kiện đến khi kết thúc việc giải
quyết vụ án. Sự tham gia của Viện kiểm sát trong suốt quá trình
giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết
vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng căn cứ pháp luật, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia quan hệ
tố tụng hành chính.
4. Phương thức kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

Để thực hiện cơng tác kiểm sát giải quyết vụ án hành
chính, Viện kiểm sát phải sử dụng những phương thức nhất
định. Theo đó khi tiến hành cơng tác kiểm sát việc giải quyết vụ
án hành chính Viện kiểm sát thực hiện trên những phương thức
sau đây:
Thứ nhất, thực hiện quyền yêu cầu. Đây là một trong
những cách mà Viện Kiểm sát sử dụng khi thực hiện chức năng
kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Là địi hỏi một chủ
thể tham gia vào quan hệ tố tụng hành chính bằng những hoạt
động của mình tn thủ, chấp hành nghiêm túc, đầy đủ và đúng
quy định của luật tố tụng hành chính.
Thứ hai, thực hiện quyền kiến nghị. Trong cơng tác kiểm
sát giải quyết vụ án hành chính, kiến nghị là một trong những
cá thức Viện kiểm sát sử dụng để đảm bảo việc giải quyết vụ án
hành chính nhanh chóng, kịp thời, đúng căn cứ pháp luật, bảo
vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân, khi thực hiện chức năng kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến
nghị để yêu cầu khởi tố vụ án hành chính, kiến nghị về việc trả
lại đơn khởi kiện, kiến nghị việc áp dụng, thay đổi hủy bỏ cá
biện pháp khẩn cấp tạm thời; kiến nghị Tòa án về việc quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn; kiến nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm người tham gia tố
5


tụng vi phạm pháp luật; kiến nghị cơ quan, tổ chức cấp trên
trực tiếp của cơ quan, tổ chức phải chấp hành bản án, quyết
định của tịa án để có biện pháp thi hành nghiêm chỉnh bản án,
quyết định của Tòa án; kiến nghị với Tòa án cùng cấp và cấp

dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật; kiến
nghị với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xát thủ tục đặc
biệt với Quyết định Giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
Thứ ba, thực hiện quyền kháng nghị. Kháng nghị bản án,
quyết định của tòa án là quyền của Viện kiểm sát để yêu cầu
Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại vụ án hoặc xét lại bản án,
quyết định giải quyết vụ án hành chính khi cho rằng việc giải
quyết vụ án hành chính của tịa án cấp dưới chưa đúng căn cứ
pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc khi phát
hiện có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết
định mà đương sự Tịa án khơng biết khi đưa ra bản án, quyết
định đó theo thủ tục phúc thẩm, Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
và thủ tục đặc biệt.
Thứ tư, tham gia phiên tòa, phiên họp. Theo quy định của
Luật tố tụng hành chín, Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên
tòa, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, các phiên họp Giám đốc
thẩm, tái thẩm vụ án hành chính. Khi tham gia các phiên tòa,
phiên họp, Viện kiểm sát kiểm sát về thành phần tham gia, việc
tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia tố tụng cũng như
phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về đường lối giải quyết
vụ án.
Thứ năm, khi thực hiện kiểm sát việc giải quyết vụ án
hành chính nói chung, Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu
tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải
6


quyết vụ án hành chính. Trường hợp kháng nghị bản án hoặc

quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, Giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài
II.

liệu chứng cứ, để bảo đảm cho việc kháng nghị.
Những vướng mắc của pháp luật ảnh hưởng đến công tác
kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của vviện kiểm
sát nhân dân
Cơng tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính là một
trong những công tác quan trọng của Viện kiểm sát, để thực
hiện tốt cơng tác của mình khi kiểm sát giải quyết vụ án hành
chính, pháp luật đã quy định cho Viện kiểm sát có những nhiệm
vụ, quyền hạn nhất định. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính được quy định
cụ thể tại Điều 27 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014, và
cũng được quy định tại Điều 4 Quy chế 282 về công tác kiểm
sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Bên cạnh các nhiệm
vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định dành cho Viện kiểm sát
thì pháp luật cũng có những quy định liên quan đến trách nhiệm
của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi
tham gia vào quan hệ tố tụng hành chính trong việc phối hợp,
hợp tác với Viện kiểm sát để thực hiện công tác kiểm sát giải
quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật
hiện nay vẫn còn tồn tại một số vướng mắc ảnh hưởng đến công
tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của Viện kiểm sát, đó
là:
Thứ nhất, quy định về việc trả lại đơn khởi kiện. Điều 123
Luật tố tụng hành chính quy định: “Khi trả lại đơn khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán

7


phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại
đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp”.
Chúng ta có thể thấy rằng quy định trên không quy định cụ thể
về thời hạn mà Tòa án phải gửi văn bản thông báo về việc trả lại
đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát mà chỉ nói là phải gửi ngay. Vậy
gửi ngay ở đây được hiểu là như thế nào? Vì luật khơng quy
định rõ ràng nên đã dẫn đến tình trạng có nhiều Tịa án sau khi
trả lại đơn cho người khởi kiện nhưng phải một thời gian lâu sau
mới gửi thông báo về việc trả lại đơn khởi kiên sang cho Viện
kiểm sát dẫn đến việc Viện kiểm sát không kịp thời nắm được
thông tin về hoạt động trả lại đơn của tịa án. Ngồi ra quy định
trên chỉ quy định là tịa án gửi văn bản thơng báo nhưng không
quy định việc sao gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo cho Viện kiểm sát nên Viện kiểm sát khó khăn trong thực
hiện kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tịa án có đúng pháp
luật hay không dẫn đến hạn chế về thực hiện quyền kiến nghị
của Viện kiểm sát.
Thứ hai, quy định về kiểm sát việc thụ lý vụ án hành
chính theo thủ tục sơ thẩm. Theo khoản 1 Điều 126 Luật tố tụng
hành chính 2015 quy định: "Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể
từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán đã thụ lý vụ án phải thông báo
bằng văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc giải quyết vụ án và Viện kiểm sát cùng cấp
về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và công bố trên Cổng thông tin
điện tử của Tịa án (nếu có)." Tuy nhiên luật lại khơng quy định
việc Tòa án phải gửi kèm các tài liệu của vụ án. Điều này gây
khó khăn cho Viện kiểm sát khi kiểm sát việc thụ lý vụ án hành

chính. Cụ thể là việc Tịa án thụ lý có đúng thời hiệu, đúng thẩm
quyền và đúng quy định của pháp luật hay khơng. Do đó, việc
8


kiểm sát ngay từ đầu là khó khăn đối Viện kiểm sát trong công
tác này.
Thứ ba, về việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án thu thập
tài liệu chứng cứ. Theo quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật tố
tụng hành chính; Điều 22 Thơng tư liên tịch số 03/2016/TTLTVKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016, Viện kiểm sát có quyền u
cầu Tịa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình
kiểm sát giải quyết vụ án hành chính. Điều 14 Quy chế 282 về
công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính quy
định: “Trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa bảo đảm cho
việc giải quyết vụ án thì Kiểm sát viên, Kiểm tra viên báo cáo
lãnh đạo Viện kiểm sát để kịp thời yêu cầu Tòa án xác minh, thu
thập tài liệu, chứng cứ bổ sung theo quy định tại khoản 6 Điều
84 Luật TTHC và hướng dẫn tại Điều 22 TTLT số 03/2016”.
Quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu chứng, cứ là quyền rất
quan trọng của Viện kiểm sát, điều này ghóp phần vào việc giải
quyết đúng đắn vụ án.
Tuy nhiên, Tại khoản 2 Điều 22 Thông tư liên tịch số
03/2016 quy lại định: “Trường hợp việc xác minh, thu thập
chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện
được hoặc Tịa án xét thấy khơng cần thiết thì chậm nhất là đến
ngày hết thời hạn mở phiên tòa theo quyết định đưa vụ án ra
xét xử được quy định tại Điều 149 hoặc khoản 3 Điều 221 Luật
TTHC, Tịa án thơng báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu
rõ lý do”. Trên thực tế có những khi Tịa án họ khơng thực hiện
u cầu của viện kiểm sát đưa ra mà đợi đến khi gần hết thời

hạn mở phiên tịa thì mới thơng báo cho Viện kiểm sát. Tịa án
chỉ trả lời phiến diện, khơng có văn bản vì Luật tố tụng hành
chính quy định quyền u cầu của Viện kiểm sát mà khơng có
9


điều, khoản quy định trách nhiệm của Tòa án phải thực hiện yêu
cầu. Do đó, việc thực hiện quyền yêu cầu cịn khó khăn, chưa
đạt kết quả trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát. Đồng thời Luật cũng khơng có quy định về
việc Viện kiểm sát được tự mình thu thập tài liệu, chúng cứ khi
đã u cầu mà Tịa án khơng thực hiện.
Thứ tư, quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử. Điều 130
Luật tố tụng hành chính 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hành chính như sau: 04 tháng kể từ ngày thụ
lý vụ án đối với trường hợp khởi kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỹ luật buộc thơi việc (quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 116); 02 tháng đối với trường hợp khởi
kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh (quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116); Đối với vụ
án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh án Tịa án có
thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử 01 lần không
quá 2 tháng đối với vụ kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỹ luật buộc thơi việc; 01 tháng đối với
trường hợp kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, Tòa án thường vi phạm thời hạn
chuẩn bị xét xử. Những vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử
thường xảy ra ở những vụ án có tính chất phức tạp cần phải thu
thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc có trở ngại khách quan, hoặc

phải chờ kết quả trả lời của cơ quan liên quan. Trong những vụ
án như vậy Chánh án Tòa án đã ra quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử 01 lần, nhưng khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử
Thẩm phán vẫn chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Pháp
10


luật lại khơng quy định những trường hợp này có thể được gia
hạn lần hai, từ đó dẫn đến vụ án quá hạn thời hạn giải quyết mà
không khắc phục được. Điều này cũng gây rất nhiều khó khăn
cho cơng tác kiểm sát của Viện kiểm sát.
Thứ năm, quy định về việc ủy quyền tham gia tố tụng.
Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Trường
hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ
quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó
của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào q
trình giải quyết tồn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và
nghịa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này”. Có thể
thấy rằng người bị kiện trong các vụ án hành chính là cơ quan
hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện
quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong
cơ quan, tổ chức đó thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc người
có thẩm quyền chỉ được ủy quyền cho cấp phó tham gia tố
tụng, cấp phó khơng được ủy quyền cho người thứ ba.
Tuy nhiện, trên thực tế, người đại diện theo pháp luật đều
có văn bản ủy quyền cho cấp phó tham gia tố tụng nhưng cấp
phó lại ủy quyền cho người thứ ba hoặc cấp phó có văn bản xin
được xét xử vắng mặt vì lý do cơng việc. Việc cấp phó ủy quyền
cho người thứ ba tham gia tố tụng là trái quy định của pháp
luật, nhưng pháp luật lại khơng có cơ chế nào để xử lý vấn đề

này. Ngoài ra việc xin xét xử vắng mặt của cấp phó khơng trái
pháp luật nhưng gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án
không được khách quan, triệt để. Đồng thời cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới công tác kiểm sát của Viện kiểm sát tại phiên
tòa.Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật
tố tụng và về việc giải quyết vụ án trên cơ sở đánh giá khách
11


quan, toàn diện tài liệu, chứng cứ vụ án đã được kiểm tra và kết
quả tranh tụng tại phiên tòa. Nhưng sự vắng mặt của một bên
đương sự làm ảnh hưởng đến việc hỏi, kiểm tra chứng cứ, tranh
luận để làm rõ một số tình tiết liên quan đến vụ án; khó khăn
trong đối đáp để đương sự thỏa thuận thành hoặc trường hợp
người khởi kiện rút đơn khởi kiện phải được sự đồng ý của người
bị kiện nhưng người bị kiện lại xin vắng mặt. Từ đó ảnh hưởng
khơng nhỏ tới việc phát biểu của Kiểm sát viên khi thực hiện
nhiệm vụ của mình.
III.

Một số giải pháp khắc phục những vướng mắc của pháp
luật ảnh hưởng đến công tác kiểm sát việc giải quyết vụ
án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân
Những vướng mắc về các quy định của pháp luật đã làm
ảnh hưởng không nhỏ tới việc việc giải quyết vụ án hành chính
của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng nói chung và việc thực hiện tốt
cơng tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của Viện kiểm
sát nói riêng. Để khắc phục những khó khăn đó, đồng thời năng
cao hiệu quả việc giải quyết vụ án hành chính của Tịa án cũng

như tạo điều kiện thuận lợi để Viện kiểm sát thực hiện tốt cơng
tác kiểm sát của mình, chúng ta cần thực hiệp một số giải pháp
sau đây:
Thứ nhất, bổ sung thêm quy định của pháp luật về việc
trả lại đơn khởi kiện của Tịa án. Theo đó khi thơng báo trả lại
đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát thì ngồi văn bản thơng báo
Tịa án phải gửi kèm theo đơn khởi hiện, hồ sơ, tài liệu (bản sao)
sang cho Viện kiểm sát để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát
nghiên cứu, đánh giá việc trả lại đơn khởi kiện của tòa án. Ngồi
ra cũng cần có quy định cụ thể, rõ ràng về thời hạn gửi văn bản
12


thông báo cho viện kiểm sát để thay thế cho quy định “gửi
ngay” để tránh tình trạng sau khi trả đơn rất lâu rồi mới thông
báo cho Viện kiểm sát.
Thứ hai, bổ sung thêm quy định về việc tòa án phải gửi
kèm hồ sơ, tài liệu, chứng cứ khi gửi thông báo về việc thụ lý vụ
án cho Viện kiểm sát. Quy định như vậy sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho viện kiểm sát kiểm sát việc thụ lý vụ án có căn cứ, đúng
thẩm quyền,... hay khơng? Đồng thời khi này kiểm sát viên
cũng được tiếp xúc với hồ sơ vụ án từ sớm, từ đó sớm nắm bắt
được nội dung của vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
kiểm sát.
Thứ ba, đưa ra thêm các quy định về trách nhiệm thực
hiện yêu cầu của Tòa án khi Viện kiểm sát yêu cầu thu thập tài
liệu, chứng cứ. Theo đó khi có yêu cầu của viện kiểm sát phải có
trách nhiệm thực hiện đầy đủ trong một thời hạn nhất định.
Đồng thời cũng đưa ra quy định cho Viện kiểm sát được tự mình
thu thập tài liệu chứng cứ khi mà đã yêu cầu Tòa án thực hiện

nhưng đã hết thời hạn đó mà Tịa án khơng thực hiện.
Thứ tư, bổ sung thêm quy định của pháp luật về thời hạn
chuẩn bị xét xử. Theo đó đối với những vụ án phức tạp, cần thu
thập thêm tài liệu, chứng cứ,... thì có thể cho phép gia hạn
thêm lần nữa. Và lần ra hạn thên lần thứ hai này có thể giao cho
Viện kiểm sát. Cụ thể là khi đã ra hạn lần thứ nhất nhưng vẫn
chưa thể đưa vụ án ra xét xử thì Tịa án có thể yêu cầu Viện
kiểm sát ra hạn lần thứ hai. Lúc này Viện kiểm sát sẽ nghiên cứ
vụ án và xem xét đây có phải vụ án phức tạp khơng? Việc ra
hạn thêm có cần thiết khơng? Để từ đó quyết định có gia hạn
thêm hay khơng, điều này sẽ tránh được tình trạng chây ì của

13


Tòa án khi mà họ mượn cớ vụ án phức tạp để ra hạn từ đó kéo
dài thời hạn giải quyết vụ án.
Thứ năm, cần phải đưa ra cá quy định cụ thể, rõ ràng hơn
về việc phải tham gia phiên tòa cũng như việc ủy quyền tham
gia phiên tòa của người bị kiện. Theo đó có thể quy định người
bị kiện bắt buộc phải tham gia phiên tòa để giải quyết vụ án.
Ngồi ra cịn có thể quy định người bị kiện ngồi việc ủy quyền
cho cấp phó thì có thể ủy quyền cho cán bộ chun mơn để
tham dự phiên tòa điều này sẽ hạn chế được việc người bị kiện
vắng mặt tại phiên tịa, vì người bị kiện ở đây là cơ quan nhà
nước vì vậy mà sẽ có rất nhiều cơng việc phải làm nên người
đứng đầu hoặc cấp phó thường xuyên bận rộn khó có thể tham
sự phiên tòa được. Khi ủy quyền cho cán bộ chun mơn tham
gia phiên tịa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ
án, đồng thời sự có mặt của người bị kiện tại phiên tịa cũng thể

hiện sự tôn trọng của cơ quan nhà nước đối với Tịa án, với nhân
dân từ đó tạo được niềm tin của người dân vào cơ quan hà
nước.
Bên cạnh những giải pháp để khắc phục những vướng mắt
của pháp luật, chúng ta cũng cần phải thực hiện đồng bộ thêm
cá giải pháp khác như: Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện
kiểm sát và Tòa án trong việc giải quyết vụ án hành chính; Đẩy
mạnh đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ kiểm sát viên làm
công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính; tăng cường cơ
sở, vật chất cho việc thực hiện công tác kiểm sát hoạt động tư
pháp nói chung, kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính nói
riêng. Đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông tin phát triển
như hiện nay, khi mà việc khởi kiện vụ án hành chính có thể
thực hiện qua con đường thư điện tử. Việc thực hiện tốt các giải
14


pháp nêu trên sẽ ghóp phần nâng cao hiệu quả của công tác
kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính.

15


C. KẾT LUẬN
Công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là một hoạt
động nằm trong những hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát. Pháp luật đã có những quy định cụ thể về
việc thực hiện hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành
chính của Viện kiểm sát. Mặc dù vậy, pháp luật cũng vẫn cịn có
những quy định chưa thật chặt chẽ, có những lỗ hổng về pháp

luật trong việc giải quyết vụ án hành chính. Điều này đã gây ra
khơng ít những khó khăn, vướng mắc cho việc thực hiện cơng
tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của Viện kiểm sát.
Chính vì vậy mà để năng cao hiệu quả của công tác kiểm sát
việc giải quyết vụ án hành chính chúng ta cần thực hiện những
giải pháp về hoàn thiện pháp luật cũng như trong việc đào tạo,
nâng cao chất lượng, trình độ của đội ngũ các bộ thực hiện công
tác kiểm sát việc gải quyết vụ án hành chính đồng thời hiện đại
hóa cơ sở vật chất để thực hiện công tác.

16


Danh mục tài liệu tham khảo:
1.
2.
3.
4.

Hiến pháp 2013.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Luật tố tụng hành chính 2015.
Quy chế cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành
chính

(Ban

hành kèm theo

Quyết


định

số

282/QĐ-

VKSTC ngày 01 tháng 08 năm 2017 của Viện trưởng Viện
5.

kiểm sát nhân dân tối cao).
Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày

6.

31/8/2016.
Trường đại học Kiểm sát Hà Nội. “Tập bài giảng kiểm sát giải
quyết vụ án hành chính”.

7. />
17


MỤC LỤC

18


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: KIỂM SÁT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

ĐỀ BÀI
“Trình bày những vướng mắc của pháp luật ảnh
hưởng đến công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án
hành chính của Viện kiểm sát nhân dân? Nêu giải
pháp khắc phục?”

Sinh viên: Nông Trường Giang
Lớp: K4L
Mã số sinh viên: 163801010320
Hà Nội – 2019

19



×