Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRỰC

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRỰC

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8. 38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình của riêng tơi. Các tư liệu, tài
liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả trong luận văn
là trung thực. Nếu có sai trái, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Hà nội, ngày

tháng 8 năm 2020
Tác giả luận văn

Lê Trực

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. .............................................................................. 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài..................................................... 7
3.1. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài ..................................................................... 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .......................................................... 9
7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 9
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ............... 10
1.1. Những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .......... 10
1.1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản......................................................................................................................... 10
1.1.1.1. Khái niệm: ............................................................................................... 10
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. .... 12
1.1.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội danh
khác. ..................................................................................................................... 15
1.1.2.1. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (quy định tại Điều 174 BLHS). .......................................... 15
1.1.2.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa lừa dối
khách hàng. ......................................................................................................... 19
1.1.2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. ........................................................... 20
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. ........................................................................................................... 25
1.2.1. Khái quát lịch sử quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hàng Bộ luật hình sự
năm 2015. ............................................................................................................. 25
1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 ... 25
1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017). ............................................................................... 27

2


1.2.2. Những điểm mới của BLHS 2015 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản (Điều 175) ...................................................................................................... 28
1.3. Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ............................. 31
1.3.1. Khái quát lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

.............................................................................................................................. 31
1.3.1. Khái niệm định tội danh ............................................................................. 31
1.3.2. Ý nghĩa việc định tội danh: ........................................................................ 32
1.3.3. Cơ sở pháp lý để định tội danh .................................................................. 32
1.4. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản ................................................................................................. 33
1.4.1. Khái niệm quyết định hình phạt ................................................................. 33
1.4.2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt ....................................................... 35
Chương 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM TÀI SẢN TẠI ĐỒNG NAI ............................................... 37
2.1. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh
Đồng Nai .............................................................................................................. 37
2.1.1. Khái quát tình hình khởi tố điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản........................................................................ 37
2.1.1.2. Thực trạng định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo
cấu thành cơ bản . ................................................................................................. 38
2.1.2. Đánh giá tình hình định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
.............................................................................................................................. 41
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản tại tỉnh Đồng Nai............................................................................................ 46
2.2.1. Khái quát thực trạng quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.. ............................................................................................... 46
2.2.2. Đánh giá thực trạng quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. ................................................................................................ 58
Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN .................................................................................................. 63
3.1. Yêu cầu.......................................................................................................... 63
3.1.1. Yêu cầu củng cố, tăng cường pháp chế XHCN ......................................... 63
3.1.2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân .............................. 63

3.1.3. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm................................................. 64
3.2. Giải pháp ....................................................................................................... 65

3


3.2.1. Hoàn thiện pháp luật .................................................................................. 65
3.2.2. Kịp thời hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ........................................................... 66
3.2.3. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ cho đội ngũ
cán bộ có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự giải quyết các vụ án hình sự. . 67
3.2.4. Chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình giải quyết vụ án về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản. ..................................................................................... 70
3.2.5. Đáp ứng kịp thời kinh phí, phương tiện cơng tác phục vụ cho việc giải quyết
vụ án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản v.v... .................................... 71
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 72

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn đất nước ta đổi mới mạnh mẽ, xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng
hiện nay, bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế, xã hội quan trọng mà nước
ta đã đạt được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, thì mặt trái của nền
kinh thị trường mang lại, đó là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp,
nhiều loại tội phạm mới xuất hiện với tính chất, mức độ ngày càng tinh vi, nguy
hiểm hơn. Đặc biệt là nhóm tội xâm phạm sở hữu tài sản có những phương thức

mới, phức tạp, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra phổ
biến trong sản xuất kinh doanh cũng như trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng tại
nhiều địa phương trong cả nước trong đó có tỉnh Đồng Nai, tình trạng tín dụng
đen, cho vay vốn với lãi suất cao do người dân tự huy động, khơng có sự đảm bảo
của pháp luật vẫn diễn ra phức tạp, đã xảy ra nhiều vụ vỡ nợ, mất khả năn thanh
toán và các dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
(LDTNCĐTS). Xuất hiện nhiều hình thức tiêu cực phức tạp, các vấn đề liên quan
đến xâm phạm sở hữu đã kéo theo những hệ luỵ cho sự ổn định phát triển kinh tế
và tài sản hợp pháp của công dân, tổ chức sở hữu. Bên cạnh đó, về quản lý nhà
nước cịn chưa có những quy định đây đủ, thiếu sót trong quản lý về hụi, họ,
phường, dịch vụ cầm đồ, dịch vụ cho thuê ôtô, xe máy, vay, mượn, cho thuê tài
sản đã làm cho tội phạm LDTNCĐTS ngày tăng. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp
dụng pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn nhiều vấn đề chưa
thống nhất, còn gây tranh luận trong việc định tội và quyết định hình phạt dẫn đến
hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao.
Qua thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cho thấy, loại tội phạm xâm
phạm sở hữu đang diễn biến phức tạp, qua nghiên cứu các bản án từ thực tiễn của
Toà án hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) cho thấy còn một số tồn tại bất cập trong
quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự.
Trong đó vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt là hai nội dung chính,

5


có ý nghĩa quan trọng trong việc xét xử đối với loại tội phạm tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn.
Nhằm góp phần tích cực trong cơng tác đấu tranh phịng và chống tội
phạm kinh tế nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng
trong tình hình mới và đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, tồn
tại, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật… Do đó, tác giả chọn đề tài “Tội

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm đề tài
luận văn nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý cho việc công tác điều tra,
truy tố, xét xử tội LDTNCĐTS được áp dụng trong thực tiễn cho thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Hiện nay có rất nhiều cơng trình khoa học liên quan đến đề tài của tác giả đã
được đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2003), “Giáo trình lý luận chung về
định tội danh”, Lê Văn Đệ (2004), “Định tội danh và quyết định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam”, … Ngồi ra, cịn có các Luận án Tiến sĩ Dương Thị Hải
Yến (2018) “tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của
nhiều tác giả liên quan đến vấn đề tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn của nhiều tỉnh,
thành phố của cả nước như Vũ Thị Oanh Kiều (2017) “Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thành phố Hà
Nội” Cao Thị Thới (2019) Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long, ... những cơng trình nghiên
cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và
thực tiễn nhưng một số nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên
cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản trong mối quan hệ tách biệt hoàn toàn với những kiến thức lý luận về định tội
danh.[46] Tuy nhiên, tác giả cho rằng một số cơng trình chưa đánh giá rõ mức độ
phạm tội và việc áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành với thực tiễn áp
dụng luật chưa cập nhật diễn biến tội phạm trong tình hình hiện nay về mặt giá trị

6


lý luận và thực tiễn. Thực tế hiện nay, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã được
ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, trong đó phần quy định chung cũng

như phần các tội phạm có những sửa đổi, bổ sung so với quy định trong BLHS
năm 1999.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản qua nghiên cứu các bản án đã được
định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và quyết định hình phạt của Tồ
án nhân tỉnh Đồng Nai, với tội phạm này từ đó đưa ra những kiến nghị, nhằm
nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu có liên quan đến tội lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

theo pháp luật hình sự Việt Nam như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, phân biệt
các tội phạm về xâm phạm sở hữu.
- Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật trong quá trình định tội danh và

quyết định hình phạt về tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong khoảng
5 năm (2015 - 2019).
- Luận văn đưa ra những vấn đề cịn hạn chế, bất cập, qua đó, đưa ra một số

giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

7


4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận án là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản từ thực tiễn xét xử tại tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015 đến năm
2019. Cụ thể:
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định pháp lý về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội phạm này từ xem xét 2 cấp của Toà án là cấp sơ thẩm và
phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Từ đó rút ra nhũng hạn chế, vướng mắc để
đưa ra các giải pháp thiết thực, khả thi cho việc hoàn thiện pháp luật cũng như
những thực tiễn áp dụng pháp luật.
Việc áp dụng pháp luật khơng chỉ có định tội danh và quyết định hình
phạt, nhưng tác giả chỉ xem xét định tội danh và quyết định hình phạt trong xét
xử tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai để từ đó phát hiện những vấn
đề cịn tồn tại, đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể cho việc áp dụng quy
định của pháp luật hình sự về tội LDTNCĐTS.
- Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật hình sự, việc áp dụng tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ
2015 - 2019. Cụ thê từ khi Luật Hình sự (BLHS) 1999, sửa đổi 2009 có hiệu
lực đến khi Luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác – Lênin về nhà nước
và pháp luật, các quan điểm đường lối của Đảng nhất là về cải các tư pháp, các
chính sách pháp luật của Nhà nước về tội phạm, về hình phạt. Luận văn còn
được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp cụ thể như: các phương
pháp đặc thù, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích quy nạp, diẽn dịch phương pháp
thống kê, phương pháp nghiên cứu điển hình và một số phương pháp khác

8


nghiên cứu điển hình về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Đồng Nai .

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ nhũng vấn đề lý luận và pháp lý về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, luận văn đã đề xuất một số ý kiến nhằm
hoàn thiện pháp luật cũng như nhằm nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng pháp
luật.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn thống nhất về nhận thức các quy định
của pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản góp phần khắc phục
những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, qua đó bảo vệ các quyền và
lợi ích pháp của con người, của cơng dân góp phần nâng cao hiệu quả và chất
lượng trong cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm tai Đồng Nai.

7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 Chương, cụ thể :
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản tạ Đồng Nai .
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật của pháp
luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1.

Những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1.1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
1.1.1.1. Khái niệm:
- Theo Từ điển tiếng Việt do Viện Ngơn ngữ biên soạn (2002) thì Lạm dụng
là “dùng, sử dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được quy định”. [57; tr 52]
- Tín nhiệm là “tin tưởng mà giao phó , trơng cậy vào nhiệm vụ, sự việc cụ
thể nào đó ”. [57; tr 1646]
Theo quan điểm của GS. TS Võ Khánh Vinh thì, “chiếm đoạt tài sản (Xã hội
chủ nghĩa hoặc của công dân) và biến thành tài sản của mình hoặc chuyển cho
người khác, được thực hiện bằng những hình thức quy định trong luật với mục
đích vụ lợi” [58; tr 69].
Khái niệm tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài
sản và các lợi ích vật chất khác, tài sản bao gồm: vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ
có hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế theo mẫu đã được thỏa thuận giữa các bên, tiền

và giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản .
Đối với vật là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là
vật có thực, đang tồn tại, có giá trị và nằm trong sự chiếm hữu của con người,
những vật mà Nhà nước cấm các đối tượng được mua bán trao đổi như thuốc
phiện, ngoại tệ, rừng cây, hầm mỏ, vũ khí, thuốc nổ, chất phóng xạ, chất cháy, chất
nổ … sẽ không phải là tài sản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
những vật là tài sản khơng cịn giá trị kinh tế như thuốc đã tiêu hủy, hàng hóa
khơng cịn giá trị sử dụng cũng không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Các loại tiền, kim loại quý và các loại giấy tờ có giá cũng các
loại tài sản thuộc đối tượng chiếm đoạt của tội phạm này. [35]
Theo quy định BLDS 2005 Điều 181 “Quyền tài sản là quyền giá trị được

10


bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”
[1], quyền tài sản là loại tài sản gắn với chủ sở hữu, khi chủ tài sản bằng giao dịch
dân sự chuyển giao quyền tài sản, sau đó người phạm tội lợi dụng dùng thủ đoạn
gian dối thực hiện ành vi phạm tội, quyền tài sản cũng là đối tượng của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định lần đầu tiên tại Điều 140
Bộ luật Hinh sự năm 1999, đây là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1985,
nhưng chỉ đến khi Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc hội thơng qua và có hiệu
lực thi hành thì Tội này mới được quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Điều 175 Bộ
luật hình sự năm 2015 quy định: “1.Người nào thực hiện một trong những hành vi
sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ bốn triệu đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội

quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình
sự, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với
người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài
sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm
đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng
nhưng cố tình khơng trả; b) Vay, mượn, th tài sản của người khác hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó
vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản”. [46]
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật Hình
sự Việt Nam là một trong những tội phạm xâm phạm sở hữu. Theo quy định ở Bộ
luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội phạm này người phạm tội
không dùng bất cứ thủ đoạn nào để lấy tài sản từ trong tay của chủ sở hữu. Chỉ sau

11


khi nhận được tài sản một cách ngay thẳng từ chủ sở hữu thông qua các giao kết
hợp pháp, người phạm tội mới có hành vi chiếm đoạt. Bằng các biểu hiện khác
nhau, họ thể hiện sự chiếm đoạt của mình có thể là bỏ trốn, đến hạn trả lại tài sản
mặc dù có khả năng, điều kiện mà cố tình khơng trả, dùng thủ đoạn gian dối hoặc
sử dụng tài sản vào mục đích hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng để trả lại tài
sản. Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định chi
tiết các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm này một các cụ thể, đầy đủ,
chính xác hơn.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự thì lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
là hành vi của chủ thế có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đã
vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác có
giá trị từ 4 triệu đồng trở lên thơng qua hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn hoặc đến

thời hạn trả lại tài sản dù có khả năng, điều kiện trả lại tài sản mà cố tình không trả
hoặc dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản hoặc dùng tài sản vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
1.1.1.2.1 Các dấu hiệu định tội
- Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 thì người từ đủ
14 tuổi, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hai
loại tội phạm này.
Do đó chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Người có năng
lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các
điểm mới của Bộ luật hình sự 2015 so với Bộ luật hình sự 1999, bộ luật mới đã có
sự tách bạch rõ ràng hơn về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội.
- Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như
các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

12


sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở
hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhà làm luật khơng quy định thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã
chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu
thốt, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác.
Những hành vi tác động đến đến các vật khơng cịn giá trị kinh tế như: thuốc
đã bị tiêu hủy, hàng hóa khơng cịn giá trị sử dụng thì khơng phải là đối tượng tác
động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, những tài sản mà Nhà Nước
cấm tư nhân mua bán, trao đổi như hàng quốc cấm như thuốc phiện, vũ khí, khơng
phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. [33]
- Về mặt chủ quan của tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Mặt chủ quan của tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao
gồm: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội; lỗi là dấu hiệu khơng thể thiếu được của bất
cứ cấu thành tội phạm nào; cũng như đối với các tội có tính chất chiếm đoạt, tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý, mục đích
chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
- Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được cấu thành khi thuộc một
trong các trường hợp sau: (i) Giá trị của tài sản chiếm đoạt của người khác từ
4.000.000 đồng trở lên; (ii) Giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 4.000.000 đồng nhưng
đã bị xử lý phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết
án về tội này hoặc về một trong các tội về xâm phạm sở hữu khác: tội cướp tài sản,
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội

13


công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng chưa được
xóa án tích mà cịn vi phạm; (iii) Tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống
của chính người bị hại hoặc gia đình họ.
Những hành vi khách quan cần có những điểm đáng lưu ý sau: (i) Người

phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp thông qua các hợp đồng vay, mượn
thuê tài sản của người khác hoặc bằng hình thức khác. Sau khi có được tài sản
người phạm tội mới dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó
hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
khơng trả; (ii) Nếu người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng
trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
1.1.1.2.2. Các dấu hiệu định khung
- Các dấu hiệu định khung tăng nặng thứ nhất
Trong Điều 140 Bộ luật Hình sự, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
ngoài khung cơ bản ở Khoản 1, các dấu hiệu định khung tăng nặng được quy định
ở các Khoản 2, 3, 4. Theo quy định tại (khoản 1 Điều 175 BLHS 2015 sửa đổi bổ
sung 2017), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ngồi khung hình phạt cơ
bản là bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm thì các dấu hiệu định khung tăng nặng còn được quy định tại các khoản của
Điều 175, cụ thể như sau: Khung tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến
07 năm được áp dụng cho những trường hợp phạm tội khi thuộc một trong các tình
tiết sau: Có tổ chức; Có tính chun nghiệp; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc
lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tái phạm nguy hiểm
- Khung tăng nặng hình phạt thứ hai lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; gây hậu quả rất nghiêm
trọng

14


- Khung tăng nặng thứ ba có mức hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi
năm hoặc tù chung thân: Chiếm đoạt tài sản từ năm trăm triệu đồng trở lên; gây

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
1.1.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội
danh khác.
1.1.2.1. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (quy định tại Điều 174 BLHS).
- Cơ sở lý luận của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu, là
việc người phạm tội đã dùng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thơng tin sai
sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động làm cho người có tài sản hoặc người có
trách nhiệm trơng giữ, quản lý tài sản tin, tưởng giả là thật, mà “tự nguyện” giao
tài sản cho người phạm tội.
Điều 174 BLHS năm 2015 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”. Do đó, ta có thể đưa ra khái niệm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt
tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ
chức hoặc cá nhân.
Trên thực tế hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hợp
thành bởi hai yếu tố. Đó là đưa ra những thông tin gian dối và chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản nhầm lẫn, tin tưởng vào những thông tin không đúng sự thật
ấy mà trao tài sản cho người phạm tội. Khi giao tài sản chủ tài sản khơng biết
mình bị lừa dối. Họ có thể phát hiện ra ngay sau khi trao tài sản nhưng bản chất
của hành vi chiếm đoạt là dựa trên thủ đoạn lừa dối thì vẫn bị xử lý về tội này.
Nếu tài sản chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức

15



thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối.
Khi nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản đó trên thực
tế và cũng là lúc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành.
Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì
hình thức thể hiện của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải
giao cho người bị lừa dối vì đã tin vào thơng tin của người phạm tội nên người bị
lừa dối đã nhận nhầm tài sản hoặc không nhận. Khi người bị lừa dối nhận nhầm
hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài
sản đó và cũng là thời điểm hoàn thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Về hành vi khách quan: (1) Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó,
người bị hại khơng biết được có hành vi gian dối; (2) Dùng thủ đoạn gian dối là
đưa ra thông tin giả, không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị lừa dối tin đó
là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của tội
phạm rất tinh vi, tội phạm thường thực hiện hành vi lừa đảo trên các trang mạng xã
hội hoặc các trang web, sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, tội phạm sẽ cắt đứt
mọi liên hệ với người bị hại và thường người bị hại không biết hoặc biết những
thông tin khơng chính xác về tội phạm.
Ví dụ: A nói dối với B là cho A mượn xe máy đi thăm bố ở bệnh viện cấp
cứu; B tin và đưa xe máy cho A để A thăm mẹ. A đem xe máy của B ra tiệm cầm
đồ cầm cố lấy 15.000.000 đồng, sử dụng vào mục đích cá độ bóng đá và đã thua
hết. Nhưng trong một hoàn cảnh khác, A khơng nói dối với B là thăm bố của mình
bị bệnh mà lại nói dối với B là mượn xe chở bạn gái về rồi đem cầm cố lấy tiền
đánh bạc. Như vậy việc người phạm tội có hành vi sao cho chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản tin mà tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội, người phạm tội
có kế hoặch dùng mọi biện pháp khác nhau tạo niềm tin như: thuyết phục bằng lời
nói dối, các nhân chứng giả, giả mạo giấy tờ, giả danh các cơ quan, tổ chức của
nhà nước và xã hội để thực hiện hành vi gian dối, ví dụ: Trong các vụ án lừa đảo
tín dụng của Ngân hàng, đối tượng phạm tội thường sư dụng làm giả hồ sơ tài sản


16


thế chấp, …để được vay vốn sau đó chiếm đoạt.
Đây cũng là đặc điểm để phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng thủ
đoạn gian dối gây lòng tin đối với chủ tài sản, làm chủ tài sản tin tưởng người
phạm tội mà trao tài sản cho họ. Để chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội lừa
đảo phải dùng thủ đoạn gian dối trước, chính thủ đoạn gian dối là nguyên nhân
làm người có tài sản tin tưởng mà trao tài sản.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc giao nhận tài sản là
ngay thẳng thông qua các giao dịch dân sự hợp pháp như hợp đồng vay mượn, cho
thuê, nhờ giữ hộ… do đó sau khi có được tài sản thơng qua các hợp đồng, giao kết
thì hành vi lừa dối mới xảy ra nhằm giữ lại tài sản đáng lẽ phải trả cho chủ tài sản.
Sau khi hết thời hạn vay mượn, cho thuê … nhưng người phạm tội cố tình khơng
trả hoặc sử dụng tài sản vào mục đích khác dẫn đến mất khả năng chi trả hoặc bỏ
trốn nhằm trốn tránh trách nhiệm phải chi trả tài sản, do đó hành vi lừa dối trong
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện nhằm che giấu hành vi
chiếm đoạt tài sản và được thực hiện sau khi có sự giao nhận tài sản giữa chủ tài
sản và người phạm tội, sự gian dối chiếm đoạt tài sản sảy ra sau khi nhận được tài
sản nên lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là bội tín của chủ tài sản.
Hậu quả của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là làm thiệt hại về tài sản
của người khác là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nếu hành vi gian dối bị phát
hiện trước khi người bị lừa dối giao tài sản hoặc người bị lừa dối không phát hiện
ra hành vi gian dối nhưng không thực hiện việc giao tài sản thì khơng cấu thành tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Về mối quan hệ nhân quả, cũng như những tội có cấu thành vật chất khác,
hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối, nếu việc thiệt

hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách quan để
xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh như
thế nào.

17


Tuy nhiên, ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác “tự nguyện” giao tài sản
cho mình, cịn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không phải do người bị hại
tự động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu khách quan để xác định
tội phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm gian dối nhằm
ăn gian, bớt của khách hành hoặc để bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính thì sẽ cấu
thành tội lừa dối khách hành hoặc tội buôn bán hàng giả.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của
chủ thể, mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người
bị hại, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi
thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
Thực tế việc chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội thường căn
cứ vào tài sản thực có, tình trạng tài chính, nhu cầu tài sản của người phạm tội kết
hợp với lời khai nhận của người phạm tội như thế nào. Thông thường trước khi
thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh
nợ nần do thua cờ, bạc, lơ đề, kinh doanh…, khơng có khả năng trả nợ cho chủ nợ
nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, như đã trình bày, người
phạm tội có được tài sản thơng qua hợp đồng hợp pháp và bản thân họ, tại thời
điểm giao kết hợp đồng hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện, ý thức chiếm đoạt
chưa xuất hiện. Nhưng, sau khi nhận được tài sản, trong quá trình thực hiện hợp
đồng, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt. Việc họ thực hiện hành vi
chiếm đoạt là rất thuận lợi khi đã có được tài sản, họ có thể khơng trả lại tài sản

như đã cam kết trong hợp đồng khi đến thời điểm phải trả tài sản, cũng có thể bỏ
trốn hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng
trả lại tài sản. Vì thế, thời điểm hồn thành của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được xác định kể từ thời điểm ngời phạm tội cố tình khơng thực hiện nghĩa
vụ trả lại tài sản cho người có tài sản theo hợp đồng mà chiếm đoạt ln tài sản đó.
Về việc giao nhận tài sản giữa người có tài sản với người phạm tội, đối với

18


cả hai tội phạm này, người phạm tội đều nhận được tài sản do người có tài sản tự
nguyện giao cho. Tuy nhiên, ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội được
nhận tài sản do việc sử dụng thủ đoạn gian dối, họ tạo dựng các thông tin giả,
khiến cho người có tài sản tưởng thật và giao tài sản. Trong khi đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người có tài sản giao tài sản cho người phạm
tội thông qua các hợp đồng, giao dịch hợp pháp, họ tin tưởng rằng, người phạm tội
hồn tồn có khả năng trả lại tài sản, có đủ điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ của
hợp đồng.
1.1.2.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa lừa
dối khách hàng.
Điều 170 Bộ luật hình sự năm 1985, điều 162 BLHS 1999 và hiện nay là
điều 198 BLHS 2015 quy định: 1- Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc
cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng
thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh
cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã
bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm; b) Thu lợi bất chính từ
5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… [3]
Theo quy định của điều luật này, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để
chiếm đoạt tiền hoặc tài sản của người khác. Tuy nhiên, với tội lừa dối khách

hàng, hành vi gian dối chỉ trong phạm vi mua bán đối với khách hàng và cũng chỉ
trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn
gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng, chỉ có khách hàng mới
là người bị thiệt hại, đây là dấu hiệu để phân biệt tội lừa dối khách hàng với các tội
chiếm hữu tài sản khác.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hầu như hành vi lừa dối khách hàng rất ít khi bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, do khơng nắm được số liệu tồn quốc nhưng việc
khởi tố bị can tội "lừa dối khách hàng" là rất ít, thậm chí rất hiếm. Trong khi đó,
theo quy định của tội lừa dối khách hàng trong BLHS thì hành vi này diễn ra khá

19


phổ biến, chủ thể của tội phạm này là những người tham gia vào quá trình mua
bán và thường là người bán mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
Để thực hiện thủ đoạn gian dối, người phạm tội có thể thực hiện một trong
các hành vi như: cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc có những
hành vi khác lừa dối khách hàng.
Hành vi lừa dối khách hàng, "cân điêu, bán thiếu" hoặc bán sản phẩm không đạt
chất lượng như cam kết gây ra thiệt hại cho khách hàng là nhữnh hành vi cấu
thành tội lừa dối khách hàng.
Điểm giống nhau của cả hai tội này đều được thực hiện bằng thủ đoạn gian
dối, tuy nhiên đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hành vi gian dối
được người phạm tội có được tài sản thơng qua hợp đồng hợp pháp và bản thân
họ, tại thời điểm giao kết hợp đồng hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện, ý thức
chiếm đoạt chưa xuất hiện. Nhưng, sau khi nhận được tài sản, trong quá trình thực
hiện hợp đồng, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt, còn đối với tội lừa
dối khách hàng hành vi gian dối chỉ diễn ra trong quan hệ mua bán bằng những
hành vi cụ thể như cân, đo, đong đếm thiếu, mua bán hàng giả …
1.1.2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lạm

dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã làm những việc vượt ra ngoài phạm vi chức vụ, quyền hạn
của mình mà pháp luật quy định (cho phép) để chiếm đoạt tài sản của người khác
quy định tại Điều 355 của BLHS năm 2015: “Người nào lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm: a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi
này mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1
Chương này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm…’’ [3]

20


Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác,
nhà làm luật quy định chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, cịn nếu chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải có thêm những
điều kiện như: đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về
một trong các tội quy định tại mục 1 chương này, chưa được xoá án tích mà cịn vi
phạm.
+ Về mặt khách quan: Trước hết, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, phải là người có hành vi lạm dụng chức vụ,
quyền hạn của mình. Người có chức vụ, quyền hạn, lạm dụng chức vụ, quyền hạn
phải chiếm đoạt tài sản của người khác thì mới cấu thành tội phạm này. Nếu khơng
có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mà chỉ gây thiệt hại đến lợi ích của
người khác thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo Điều 357 Bộ luật hình sự; tội
nhận hối lộ theo điểm b khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự hoặc tội tha trái pháp
luật người bị bắt, người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt
tù theo Điều 378 Bộ luật hình sự .v.v...

Hành vi khách quan của tội này là trường hợp người phạm tội đã thực hiện
hành vi vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình khi thi hành cơng vụ nhằm
chiếm đoạt tài sản của người khác thể hiện ở các thủ đoạn sau: Lạm dụng chức vụ,
quyền hạn uy hiếp tinh thần của người khác để chiếm đoạt tài sản; lạm dụng chức
vụ, quyền hạn lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ; lạm dụng chức
vụ quyền hạn để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Cũng như hành vi chiếm đoạt trong các tội có tính chất chiếm đoạt khác,
hành vi chiếm đoạt trong tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của
người khác là hành vi chuyển dịch trái phép tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền quản
lý hợp pháp thành của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm.
Hậu quả của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người
khác là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Đối với tội lạm dụng

21


chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, thiệt hại trước hết là thiệt
hại về tài sản, ngồi ra cịn có những thiệt hại khác phi vật chất.
Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác,
nhà làm luật quy định chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, cịn nếu chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải có thêm những
điều kiện như: đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về
một trong các tội quy định tại mục 1 chương này, chưa được xoá án tích mà cịn vi
phạm.
+ Về khách thể: Hành vi nêu trên đã xâm hại đến hoạt động đúng đắn của cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và tổ chức kinh tế của
Nhà nước. Đồng thời còn xâm phạm quyền sở hữu, tài sản của công dân , của Nhà
nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và của các chủ sở hữu thuộc
các hình thức sở hữu khác. Vì vậy, tham ơ hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản của người khác là đối tượng phải đấu tranh ngăn chặn và đẩy

lùi.
+Về Chủ thể: Quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự, chủ thể của tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và phải
có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của
người khác là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn
mới chiếm đoạt được tài sản của người khác. Những người khơng có chức vụ,
quyền hạn vẫn có thể trở thành chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản với vai trị là đồng phạm (ví dụ: Người xúi giục).
Việc phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng
chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản thực chất là việc phân biệt trường hợp “lợi
dụng chức vụ quyền hạn” lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
175 BLHS với tội Lạm dụng chức vụ quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản của
người khác quy định tại Điều 355 BLHS.
Trước hết, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

22


của người khác, phải là người có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình.
Người có chức vụ, quyền hạn, lạm dụng chức vụ, quyền hạn phải chiếm đoạt tài
sản của người khác thì mới cấu thành tội phạm này. Nếu khơng có hành vi chiếm
đoạt tài sản của người khác, mà chỉ gây thiệt hại đến lợi ích của người khác thì tuỳ
trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền
trong khi thi hành công vụ theo Điều 357 Bộ luật Hình sự; tội nhận hối lộ theo
điểm b khoản 2 Điều 354 Bộ luật Hình sự hoặc tội tha trái pháp luật người bị bắt,
người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù theo Điều 378
Bộ luật Hình sự .v.v...
Cũng như hành vi chiếm đoạt trong các tội có tính chất chiếm đoạt khác,
hành vi chiếm đoạt trong tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của

người khác là hành vi chuyển dịch trái phép tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền quản
lý hợp pháp thành của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm. Hành vi
chiếm đoạt tài sản vừa là hệ quả vừa là mục đích của hành vi lạm dụng chức vụ,
quyền hạn của người phạm tội. Mối quan hệ giữa hành vi lạm dụng chức vụ,
quyền hạn với hành vi chiếm đoạt là mối quan hệ nhân quả, trong đó hành vi lạm
dụng chức vụ, quyền hạn là nguyên nhân còn hành vi chiếm đoạt là hậu quả.
Hậu quả của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người
khác là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Đối với tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, thiệt hại trước hết là thiệt
hại về tài sản, ngồi ra cịn có những thiệt hại khác phi vật chất Hậu quả của tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, xét về phương
diện các yếu tố cấu thành tội phạm thì khơng phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù
hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội
chiếm đoạt tài sản do chính họ đang quản lý cịn đối với tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản thì tài sản do người khác quản lý.
Điểm khác nhau rõ nét nhất đó là về chủ thể của hai tội danh này. Nếu tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì chủ thể là người được chủ tài sản tín

23


×