Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Một số vấn đề về thực tiễn xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.3 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà
thực chất đó là cuộc cải cách sâu sắc bắt đầu bằng cải cách kinh tế đã làm
thay đổi theo hướng tích cực mọi mặt của đời sống xã hội. Sự chuyển đổi
kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước
theo định hướng XHCN đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các
hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào đã
đạt được vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị
trường mang lại mà nổi cộm lên là vấn đề tình hình tội phạm diễn ra ngày
càng phức tạp, nhiều loại tội phạm gia tăng, tính chất, mức độ ngày càng
nguy hiểm hơn.Và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong
những tội phạm xảy ra khá phổ biến trong bối cảnh của nền kinh tế thị
trường hiện nay. Tội phạm xảy ra đã gây nhiều biến động trong xã hội, làm
thiệt hại đến tài sản Nhà Nước, tổ chức cũng như tài sản của công dân, cản
trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên việc xét xử loại tội phạm này
trong thực tiễn còn rất nhiều sai sót, vấn đề sai lầm trong việc xác định tội
danh và hình phạt, vấn đề "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, quan hệ kinh
tế và "phi hình sự hóa" trong đấu tranh chống tội phạm kinh tế trong mấy
năm gần đây tuy đã giảm đi rõ rệt nhưng vẫn chưa thực sự chấm dứt và
vẫn còn thu hút sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành và dư luận xã hội
thông qua những buổi tọa đàm. Những vấn đề trên còn tồn tại một phần là
do chưa nhận thức đúng đắn quy định của luật pháp về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản để phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác
dẫn đến việc các cơ quan áp dụng pháp luật còn tỏ ra lúng túng trong việc
xác định tội danh, hình phạt làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, chưa
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vướng mắc này
đặt ra cho các nhà nghiên cứu luật hình sự nhiệm vụ là phải làm rõ về mặt
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lý luận cũng như bản chất và ranh giới của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm


đoạt tài sản làm cơ sở cho nhận thức thống nhất về vấn đề này trong thực
tiễn.
Với ý nghĩa phục vụ cho công tác nghiên cứu, với động lực tìm hiểu
pháp luật để góp một phần lý luận cho việc nhận thức đúng đắn, thống nhất
về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giúp ích cho công tác đấu
tranh phòng và chống tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong tình
hình mới, tôi chọn "Tội lạm dụng tín nhiệm nhiệm chiếm đoạt tài sản theo
Điều 140 Bộ luật hình sự 1999" làm đề tài luận văn tốt nghiệp Đại học
Luật của mình.
Nội dung của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam và một số
vấn đề thực tiễn áp dụng, qua đó đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện
luật.
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đã sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên các văn kiện Đại hội Đảng, các văn
bản của Nhà nước. Đồng thời luận văn cũng sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành như: hệ thống hóa, so sánh, thống kê số liệu,
phân tích thuần túy quy phạm pháp luật.
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được trình bày với cơ
cấu như sau:
Chương 1: Lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta đối với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy
định tại Điều 140 BLHSVN năm 1999.
Chương 3: Một số vấn đề về thực tiễn xét xử tội Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ CỦA NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI TỘI

LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1 Khái niệm chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản.
Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa khiến các giao dịch dân
sự, kinh tế, thương mại diễn ra một cách thường xuyên, nhiều chiều. Việc
nhận diện đúng ranh giới giữa giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại với
hành vi phạm tội hình sự, từ đó có biện pháp điều chỉnh bằng pháp luật
một các hữu hiệu. Điều này có một ý nghĩa to lớn, nhằm làm lành mạnh
hóa các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, loại bỏ tình trạng được gọi
là “hình sự hóa” các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại hay “dân sự
hóa” các hành vi phạm tội, cũng như sự nhầm lẫn giữa một số tội phạm có
cấu thành gần gũi. Muốn vậy chúng ta cần phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ
khái niệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu rõ khái niệm về tội phạm. Tội
phạm là một khái niệm phổ biến được rất nhiều ngành khoa học đề cập
đến, trong đó khoa học luật hình sự đặc biệt chú trọng nghiên cứu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điều 8 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc Hội khóa 10 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 07 năm 2000 (sau đây gọi tắt là BLHS): “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm
phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự
an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm các lĩnh vực khác của đời sống xã

hội”
(10)
Khái niệm tội phạm được đề cập tại Điều 8 BLHS đã thể hiện tập
trung nhất quan điểm của Nhà Nước ta về tội phạm: đó là hành vi (của một
hoặc một nhóm người) nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm các quy định của
BLHS, vi phạm các chuẩn mực đạo đức, phá vỡ trật tự bình thường của
hoạt động trong xã hội, gây hậu quả xấu cho lợi ích xã hội và cần phải bị
trừng trị. Khái niệm tội phạm trên đây đã khái quát được đầy đủ 4 yếu tố
của tội phạm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xét về cấu trúc cũng có đủ 4 yếu tố nêu
trên tạo thành.
Trên cơ sở quy định của Điều 140 BLHS có thể định nghĩa tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản một cách chung nhất như sau: hành vi
phạm tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm
đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng đã
được ký kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong các tội đặc
xâm phạm sở hữu. Ở tội này người phạm tội đã không dùng bất cứ thủ
(10)
Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đoạn nào để lấy tài sản đang từ trong tay của chủ sở hữu hoặc người có
trách nhiệm. Chỉ sau khi nhận được tài sản ngay thẳng từ chủ sở hữu hoặc
người có trách nhiệm thông qua hợp đồng dân sự, kinh tế người phạm tội
mới có hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt ở đây là hành vi không
thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết, bao gồm các hành vi: vay, mượn, nhận
tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng
tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không trả được nợ.
Điều 140 BLHS 1999 đã quy định các dấu hiệu pháp lý trong cấu

thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cụ thể hơn, chính xác hơn,
tránh được các cách hiểu khác nhau hoặc sự tùy tiện trong việc áp dụng
pháp luật. Sự quy định này là kết quả của quá trình khảo sát và tổng kết
thực tiễn xét xử của những nhà làm luật, đánh dấu một bước phát triển mới
của công tác xây dựng pháp luật của Nhà Nước ta: "Việc nhà làm luật quy
định được các dấu hiệu định tội trong điều luật là xuất phát từ thực tiễn xét
xử loại tội phạm này trong hơn 10 năm thi hành bộ luật hình sự năm 1985,
đặc biệt vào những năm cuối của thập kỷ 90(1997-1999) tình trạng các cơ
quan pháp luật ở nhiều địa phương đã “Hình sự hóa” các quan hệ dân sự,
kinh tế làm cho nhiều người bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản mà lẽ ra họ chỉ là bị đơn trong các vụ án dân sự. Trước một
thực trạng như vậy, đòi hỏi các nhà lập pháp phải đưa vào trong cấu thành
những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
(19)
Mỗi một loại tội phạm đều có lịch sử hình thành và phát triển, giai
đoạn sau là sự kế thừa và phát triển của giai đoạn trước và tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng trải qua các giai đoạn hình thành và phát
triển như vậy.
(19)
Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm, tập II,
Bình luận chuyên sâu, Nxb TPHCM.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2. Một số nét về lịch sử lập pháp hình sự của Nhà Nước ta đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trong bất cứ một chế độ xã hội có giai cấp nào, Nhà Nước cũng đều
xác lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội
phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm
pháp luật, trong đó có những quy phạm pháp luật hình sự. Một trong những
nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ phải kể đến nhóm quan hệ

sở hữu. Sở hữu, theo quan điểm của CN MLN là tổng thể các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối của cải vật chất giữa con
người với nhau trong xã hội. Thực chất của sở hữu là sự chiếm hữu về của
cải vật chất trong xã hội, sự chiếm hữu đó có thể tồn tại dưới những hình
thức và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sở hữu
chính là mối quan hệ giữa con người với con người đối với đối tượng của
quyền sở hữu đó chính là tài sản.Việc xâm phạm đến quan hệ sở hữu hay
nói cách khác là xâm phạm đến sở hữu của Nhà Nước, của tổ chức hoặc
công dân, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cơ sở vật chất của xã hội, ảnh
hưởng tới chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà Nước ta, gây ra
những hậu quả nghiêm trọng. Trong luật hình sự Việt Nam tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định từ rất sớm, và ngày một được hoàn
thiện. Chúng ta có thể khái quát các gian đoạn phát triển của nó như sau:
1.2.1 Giai đoạn 1945-1954
Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời. Do vừa trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hao tốn cả
sức người, sức của, vì vậy đây chính là thời kỳ mà Nhà nước ta đang trong
hoàn cảnh đầy khó khăn thử thách, thù trong, giặc ngoài, các vấn đề xã hội
như nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm trở thành những vấn đề nóng bỏng,
nhu cầu xây dựng lại nền tảng cơ sở vật chất, kinh tế cho xã hội trở nên cấp
thiết. Một trong những biện pháp là phải có những quy định để bảo vệ tài
sản của Nhà Nước làm cơ sở nền tảng để xây dựng và củng cố chính quyền.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau khi Hiến pháp 1946 được thông qua, ghi nhận "quyền tư hữu tài sản
của công dân Việt Nam được đảm bảo"
(4)
.Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật để bảo vệ sở hữu, đặc biệt sở hữu xã hội chủ nghĩa như
Sắc lệnh số 26/SL( 25/02/1946) trừng trị các tội phá hủy công sản, Sắc lệnh

số 233/SL (17/11/1946) trừng trị các tội phù lạm, biển thủ công quỹ…đây
là những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định
về tội xâm phạm sở hữu sau này. Tuy nhiên những sắc lệnh này vẫn còn
nhiều những hạn chế. Trước hết nó mới là những quy định sơ lược, chưa
khái quát hết được những hành vi xâm hại đến quan hệ sở hữu mà mới chỉ
tập trung vào một số hành vi: trộm cắp, phá hoại hoặc gắn với các đối
tượng của các hành vi xâm phạm là tài sản xã hội chủ nghĩa. Cho đến
Thông tư 442/TTg (19/11/1955) của thủ tướng chính phủ về trừng trị một
số tội phạm đã nhận định: “ Vì về mặt bảo vệ tài sản quốc gia, tính mệnh và
tài sản của nhân dân, luật cũ có nhiều khoản không thích hợp nên chính phủ
lại ban bố một số sắc lệnh trừng trị tội tham ô, tội tống tiền, tội bắt cóc, ám
sát, tội đánh bạc như là Sắc lệnh 27/SL ngày 28/02/1946…". Tuy nhiên các
quy định về tội lạm dụng tín nhiệm trong giai đoạn này chưa được quy định
cụ thể, chủ yếu xét xử theo nguyên tắc và án lệ, tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được quy định với tên gọi “ Bội tín”.
“…
1. Lừa gạt, bội tín: phạt tù từ ba tháng đến năm năm."
(15)
Có thể nói đây chính là những quy định đầu tiên của nhà nước ta về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản( Bội tín). Trong quy định này các
nhà làm luật xác định mức trách nhiệm của tội lừa gạt, bội tín là như nhau.
Quy định này còn mang tính hình thức, việc xác định hành vi cụ thể của
(4)
Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ xung một
số điều của Hiến pháp 1992) (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(15)
TANDTC (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I, Hà Nội
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
từng tội phạm có chính xác không phụ thuộc nhiều vào các cơ quan xét xử.

Tuy vậy việc ban hành văn bản này là cần thiết và kịp thời trong hoàn cảnh
đất nước ta lúc bấy giờ.
1.2.2 Giai đoạn từ 1954-1975
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bên cạnh những thuận lợi đạt
được, Nhà Nước ta lại đứng trước hàng loạt các vấn đề cần phải giải quyết
để khôi phục lại nền hòa bình. Ngày 15/06/1956 Chủ tịch nước ký lệnh
công bố Sắc lệnh số 267/SL nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá
hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà Nước, của hợp tác xã và của
nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh
tế, văn hóa. Điều 7 Sắc lệnh 267 quy định: “Kẻ nào vì tham lam, tư lợi mà
phạm tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của nhà
nước, của nhân dân thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.”
(14)
Sắc lệnh số 267 đã có sự phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản
của công dân, giúp việc xử lý tội phạm được chính xác và hiệu quả hơn.
Ngày 24/06/1957 Bộ tư pháp cũng đã ra Thông tư 72-VVH-HS
hướng dẫn thi hành sắc lệnh 267. Sắc lệnh này cũng không quy định về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà cho phép áp dụng những nguyên
tắc tương tự khi xét xử những hành vi “ phạm tội phá hoại khác”.Theo đó
nếu hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản diễn ra, Tòa án căn cứ
theo đường lối xử lý các tội phạm khác để xét xử. Như vậy cũng như
Thông tư 442/TTg Nhà Nước ta vẫn cho phép áp dụng nguyên tắc “ tương
tự trong xét xử”. Điều đó chứng tỏ pháp luật vẫn chưa được hoàn chỉnh,
hành vi phạm tội vẫn chưa được xác định cụ thể, nó đặt ra một thách thức
rất lớn đối với công tác xây dựng và thực thi pháp luật.
Năm 1959, sau khi nước ta hoàn thành xong công cuộc cải tạo
XHCN ở Miền Bắc thì công việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
CNXH là nhiệm vụ trọng tâm.Việc bảo vệ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập
(14)


)
S đd.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể là vấn đề cấp bách được đặc biệt coi trọng. Điều 40 Hiến pháp 1959 đã
ghi nhận: “Tài sản công cộng của nước Việt nam dân chủ cộng hòa; là
thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ
tài sản công cộng”
(4)
.
Đất nước ngày càng phát triển biểu hiện qua những biến đổi to lớn
về mọi mặt kinh tế xã hội. Trong khi đó những văn bản trước đây về bảo
vệ sở hữu và việc áp dụng luật lệ của chính quyền cũ đã tỏ ra không còn
phù hợp. Vì vậy ngày 21/10/1970 Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã thông
qua pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và pháp lệnh trừng
trị các tội xâm phạm tài sản của công dân nhằm bảo vệ tài sản XHCN và
tài sản riêng của công dân, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, bảo vệ, nâng cao đời sống của nhân dân. Hai pháp lệnh này là sự
tiếp nối và hoàn thiện các văn bản về các tội xâm phạm sở hữu trước đây.
Lần đầu tiên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy đinh
thành một tội danh riêng với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm
này, hình phạt nghiêm khắc.
Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy
định: “1.Kẻ nào nhận tài sản XHCN để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa
hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, bớt xén
hoặc đánh tráo tài sản đó, thì…"
Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân quy định: “1. Kẻ nào nhận tài sản của người khác để giữ, vận chuyển,
gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó thì…”

(14)
Theo như quy định trên ta thấy đối tượng của hai tội là khác nhau
nhưng hành vi khách quan là giống nhau. Ở quy định này, hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt là hành vi “bớt xén” hoặc “đánh tráo” chiếm
(4)
S đd, Tr.38.
(14)
Sđd.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản được giao ngay thẳng trên cơ sở hợp
đồng gửi giữ, gia công, vận chuyển…, đối tượng của hành vi chiếm đoạt là
tài sản XHCN hoặc tài sản công dân, hình phạt được áp dụng đối với đối
tượng phạm tội tương đối nghiêm khắc: Hình phạt tù tối thiểu là 3 tháng,
tối đa là 20 năm. Tuy cách trình bày còn đơn giản nhưng nhìn chung về
mặt kỹ thuật lập pháp đã có sự tiến bộ, tạo cơ sở pháp lý để trừng trị hành
vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Qua hai điều luật ta thấy tài sản
XHCN do đặc biệt được coi trọng, nên chính sách xử lý tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản riêng của công dân. Báo cáo tổng kết công tác
ngành Tòa án nhân dân tối cao năm 1971, 1972; Thông tư số 213/NCPL
ngày 05/05/1973 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiếm sát nhân dân tối
cao, Bộ công an…Cùng với thông tư này còn có Chỉ thị số 14/TATC ngày
12/07/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Nghị quyết số
228 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cũng đề cập đến vấn đề liên quan
đến việc xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Sự ra đời của hai pháp lệnh năm 1970 với những quy định về hành
vi và thủ đoạn phạm tội mặc dù còn rất đơn giản nhưng cũng đã đánh dấu
một bước phát triển trong lịch sử lập pháp của Nhà Nước ta, tạo cơ sở cho
những quy định tiếp theo về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sau

này.
1.2.3 Giai đoạn 1975-1985
Năm 1975 Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất và có nhiều sự đổi mới: bộ máy chính quyền mới, văn bản pháp luật
mới. Ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam
Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm và hình
phạt được áp dụng ở Miền Nam Việt nam, trong đó có quy định về các tội
xâm phạm sở hữu, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm được quy định tại điểm
b Điều 4 cũng với tên gọi “ Bội tín”.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
“…b.Phạm các tội khác như: trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín,
cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ sáu tháng đến
bẩy năm…”
(15)
Những quy định trong Sắc luật này về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản cũng như các tội phạm khác rất sơ lược, chỉ nêu tên tội phạm
mà không xác định các dấu hiệu pháp lý cụ thể. Nội dung của Sắc luật này
và hai Pháp lệnh năm 1970 về cơ bản là thống nhất, tuy nhiên sắc luật này
trình bày với quy mô nhỏ gọn hơn và được dồn vào cùng một điều với một
số tội như: lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt…Việc quy định như vậy
dẫn đến việc xử lý tội phạm không công bằng. Có những tội xâm phạm đến
một khách thể như tội lừa đảo, bội tín (xâm phạm đến quan hệ sở hữu)
nhưng có tội xâm phạm đến nhiều khách thể như tội cướp giật, cưỡng đoạt
(cùng một lúc xâm phạm đến quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân). Cách
quy định như vậy đòi hỏi phải có thêm văn bản hướng dẫn thi hành để xử
lý từng loại tội phạm cho chính xác. Tháng 04/1976 Bộ tư pháp đã ra
Thông tư số 03/BTP/TT hướng dẫn thi hành Sắc luật trên.
1.2.3 Giai đoạn 1985 đến nay
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc Hội thông qua ngày

27/06/1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây là bộ luật được ban
hành trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật hình sự của Nhà Nước
ta được ban hành từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa
những năm 80 của thế kỷ XX, cũng như thể chế hóa chính sách hình sự của
nhà nước ta trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên CNXH. Lần đầu tiên
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một bộ luật, đánh dấu một
bước tiến bộ vượt bậc trong lịch sử lập pháp hình sự của Nhà Nước ta.
BLHS 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm sở
hữu,chương IX “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”, chương VI “ các tội
xâm phạm sở hữu của công dân”. Trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
(15)
TANDTC (1978), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II, Hà Nội.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản XHCN), Điều 158 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của
công dân).
Điều 135 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc
bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”…và Điều 158 quy định: “1. Người nào
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm
(5)
. Việc
dành riêng hai điều luật quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản trong BLHS 1985 đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn cũng như sự cần thiết
phải xác lập một cơ sở pháp lý thống nhất để xử lý hành vi phạm tội. Tuy
nhiên, nhược điểm của 2 điều luật là không mô tả cụ thể hành vi phạm tội.
Hiện tượng này cũng rất phổ biến trong BLHS 1985, đòi hỏi phải có nhiều

văn bản hướng dẫn thi hành nếu không sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng
luật hình sự vào thực tiễn xét xử. và trên thực tế việc xác định các dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của nó vẫn dựa trên quy định của hai pháp lệnh năm
1970. Hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN
nghiêm khắc hơn so với tội chiếm đoạt tài sản của công dân, điều đó thể
hiện định hướng xây dựng CNXH, phát huy tính chủ đạo của thành phần
kinh tế quốc doanh trong chính sách hình sự của Nhà Nước ta. Trong bối
cảnh lịch sử và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, BLHS 1985 là công cụ sắc
bén của Nhà Nước, của nhân dân, đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong
công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Do sự phát triển của kinh tế xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp
luật cũng phải thay đổi cho phù hợp. BLHS 1985 đã được sửa đổi 4 lần
vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Điều 135 của tội lạm dụng tín nhiệm
(5
)
Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN (1985), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chiếm đoạt tài sản XHCN có 2 lần được sửa đổi vào các năm 1989, 1992;
Điều 158 của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân có 1
lần được sửa đổi vào năm 1991. Các lần sửa đổi này chỉ sửa đổi, bổ xung
khung tăng nặng mà không sửa đổi bổ xung cấu thành cơ bản, chưa khắc
phục được thiếu sót trong quy định về mặt khách quan của hành vi phạm
tội
(6),(7),(8),(9)
. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN, lần
sửa đổi thứ nhất theo luật sửa đổi, bổ xung một số điều của BLHS, được
Quốc Hội thông qua ngày 12/08/1991 đã điều chỉnh tăng hình phạt ở
khoản 3 từ mười năm đến hai mươi năm lên từ mười hai năm đến hai mươi

năm hoặc tù chung thân. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
của công dân lần sửa đổi này đã thêm một khung hình phạt ở khoản 3-
Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm
"(7)
Lần sửa đổi theo luật sửa đổi, bổ xung một số điều của BLHS được
Quốc Hội thông qua ngày 22/12/1992 đã bổ xung thêm một số tình tiết
tăng nặng ở khoản 2 Điều 135-Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
XHCN là:
“c-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội”
(8)
Theo đó BLHS sửa đổi, bổ xung có quy định áp dụng hình phạt
cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý tài sản XHCN từ hai năm đến năm năm
trong trường hợp trên.
Sau hơn 10 năm thi hành BLHS và đã qua 4 lần sửa đổi, BLHS
1985 đã có những đóng góp đáng kể nhưng đứng trước sự thay đổi lớn lao
của nền kinh tế, ngoài khu vực kinh tế nhà nước kinh tế tập thể, khu vực
kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển vượt bậc. Đã qua thời kỳ của
(
6)
Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
(7)
Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN ( 1991), Nxb Pháp lý, Hà nội.
(9)
Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN ( 1997), Nxb Pháp lý, Hà nội
(
(8)
Bộ luật hình sự của nước CHXHCNVN ( 1994), Nxb Pháp lý, Hà nội.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
nền kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa tâp trung bao cấp, thay vào đó Đảng và
Nhà nước ta có chính sách là xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần
dựa trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu khác nhau, vận hành theo cơ chế thị
trường theo định hướng XHCN, các thành phần kinh tế đều bình đẳng
trước pháp luật và đều được nhà nước bảo hộ như nhau. Trước tình hình đó
BLHS năm 1985 đã tỏ ra không còn phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm. Thêm vào đó là vào những năm cuối của
thập kỷ 90 (1997- 1999) tình trạng các cơ quan pháp luật ở nhiều địa
phương đã "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, kinh tế, làm cho nhiều người
bị kết án oan về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lẽ ra họ chỉ
là bị đơn trong các vụ án dân sự. Trước thực trạng như vậy đòi hỏi các nhà
lập pháp phải đưa vào cấu thành những dấu hiệu đặc trưng của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó việc ban hành một bộ luật mới là
rất cần thiết.
Ngày 22/11/1999 Quốc Hội khóa X đã thông qua bộ luật hình sự
năm 1999 và cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH-10 về việc thi
hành BLHS. Bộ luật này đã kế thừa và phát huy BLHS 1985 trên cơ sở tiếp
thu những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm và những thay đổi của nền kinh tế. Bộ luật gồm 24 chương và 344
điều. BLHS năm 1999 đã có sự đổi mới toàn diện về cả nội dung và hình
thức so với BLHS năm 1985.Các tội trong chương tội xâm phạm sở hữu
XHCN và chương xâm phạm sở hữu của công dân được nhập lại thành một
chương “Các tội xâm phạm sở hữu”. Sự thay đổi trên đây nhằm tạo mặt
bằng pháp lý bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khác nhau và đồng
thời tạo điều kiện thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
Trên tinh thần đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140) ra
đời là kết quả của sự sửa đổi một cách căn bản từ hai điều luật riêng rẽ ở
hai chương khác nhau trong BLHS năm 1985. Vì tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản XHCN và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công dân cơ bản giống nhau về các dấu hiệu khách quan và chủ quan, chỉ
khác nhau về đường lối xử lý. Cho nên quy định tại Điều 140 BLHS năm
1999 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoàn toàn phù hợp.
Như vậy, các trường hợp sai lầm về khách thể cũng không cần đặt ra,
đồng thời tránh được oan sai, rắc rối và phức tạp.Tuy nhiên việc quy định
chung như vậy không có nghĩa là bỏ qua định hướng XHCN mà vẫn coi
việc xâm phạm sở hữu Nhà Nước là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 48 BLHS.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều
140 BLHS 1999 như sau:
“Điều 140: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đọat tài sản
của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc
dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản,chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng và sử dụng tài sản đó vào mục
đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản..
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ , quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan
,tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
d) Chiếm đoạt tài sản từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng ;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân;
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một
trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn
bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.”
(10)
So với quy định tương ứng trong BLHS năm 1985, Điều 140 đã
mô tả được chi tiết hơn các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản đó là:
Người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi:
+ Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt.
+ Bỏ trốn để chiếm đoạt.
+ Sử dụng tài sản đó vào mục đich bất hợp pháp dẫn đến không có
khả năng trả lại tài sản.

Điều 140 cũng ghi nhận việc định lượng tài sản bị chiếm đoạt như:
Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một triệu đồng trở lên hoặc dưới một
(10)
Sđd.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Từ sự quy định trên đây, Điều 140 BLHS năm 1999 giúp phân biệt
được với các hành vi không phải là tội phạm (như hành vi dân sự hoặc
kinh tế), phân biệt được với các tội phạm khác có cấu thành gần gũi (như
tội tham ô tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Điều này giúp ích rất
nhiều cho công tác áp dụng pháp luật, thể hiện trình độ lập pháp cao của
Nhà Nước ta..
Tóm lại, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã trải qua
nhiều giai đoạn hình thành và phát triển khác nhau.Ở mỗi thời kỳ khác
nhau, những quy định về tội phạm này cũng được thay đổi ngày càng hoàn
thiện hơn để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Văn bản pháp luật ra
đời là sự kế thừa có chọn lọc nhằm phát huy tác dụng của văn bản pháp
luật trước.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn sự tiến bộ về mặt lập pháp hình sự của
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS
năm 1999, điều cần thiết là phải nghiên cứu đầy đủ nội dung quy định tại
điều này của BLHS
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 140 BLHS 1999

2.1. Các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
Xét về mặt cấu trúc, tội phạm có đặc điểm chung là đều được hợp
thành bởi những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể
phân chia được trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu độc lập
với nhau. Những yếu tố đó theo khoa học luật hình sự Việt Nam là khách
thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Bốn yếu tố đó đã hợp thành
cấu thành của tội phạm. Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu
chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật
hình sự
(18)
. Cấu thành tội phạm được coi là khái niệm pháp lý, là sự mô tả
khái quát loại tội phạm nhất định.
Cũng như bất kì loại tội phạm nào, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản cũng được hình thành bởi bốn yếu tố: khách thể, mặt khách
quan, chủ thể, mặt chủ quan.Việc nghiên cứu các dấu hiệu cấu thành tội
phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý của
loại tội phạm này từ đó là cơ sở pháp lý cho việc định tội và truy cứu trách
nhiệm hình sự.
2.1.1. Về khách thể của tội phạm.
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của
khoa học luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính
giai cấp của pháp luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng ,
khẳng định:" Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại"
(18)
. Theo luật hình sự Việt Nam những
(18)
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb CAND, H, 2003.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan
hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 BLHS.
Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ
sở hữu. Có rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, sở
hữu tư nhân,…theo quy định của Hiến pháp 1992 và Bộ luật dân sự năm
2005 (sau đây gọi tắt là: BLDS năm 2005). Chủ thể của quan hệ sở hữu
trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm Nhà nước, các tổ
chức và công dân. Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi
xâm phạm đến các quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Cũng như các hành vi phạm tội khác, để xâm phạm đến quan hệ sở
hữu thì người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng phải
tác động đến tài sản (đối tượng vật chất mà nhờ đó quan hệ sở hữu phát
sinh và tồn tại). Tài sản theo quy định của Điều 163 BLDS 2005 gồm: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”
(11)
. Trong luật
hình sự, đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
chính là tài sản và nó phải thỏa mãn những đặc điểm sau:
Tài sản phải được thể hiện dưới những dạng vật chất, có giá trị
hoặc giá trị sử dụng, các vật này phải là thước đo giá trị sức lao động của
con người được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật
chất hoặc tinh thần của con người. Những hành vi tác động đến đến các vật
không còn giá trị kinh tế như thuốc đã bị tiêu hủy, hàng hóa không còn giá
trị sử dụng thì không phải là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
Vật và tiền nói chung luôn luôn là đối tượng tác động của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản

(11)
Bộ luật dân sự của nước CHXHCNVN, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2005.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
như hóa đơn lĩnh hàng, tín phiếu, séc, thẻ tín dụng…có thể là đối tượng tác
động của tội phạm này với điều kiện thông qua đó bất cứ ai cũng có thể
nhận được một số tiền hoặc tài sản nhất định. Nếu những giấy tờ có giá trị
mà thông qua đó không trực tiếp lấy được tài sản mà chỉ là những phương
tiện hực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc các giấy tờ chỉ dùng vào việc
phân phối thì mặc dù có hành vi chiếm đoạt thì cũng không phải là đối
tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Về nguyên tắc tài sản đó phải mua bán, trao đổi được một cách
hợp pháp, những tài sản mà Nhà Nước cấm tư nhân mua bán, trao đổi như
thuốc phiện, vũ khí, ngoại tệ,…cũng không phải là đối tượng của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Có những tài sản không thể là đối tượng của loại tội phạm này mặc
dù hành vi chiếm đoạt tài sản đó cũng thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành của
tội này như: rừng cây, hầm mỏ, vũ khí, thuốc nổ, chầt phóng xạ, chất cháy,
chất nổ…Do có những đặc điểm, tính chất quan trọng nhất định nên những
tài sản đó đã trở thành đối tượng của một số tội phạm riêng.
Trước đây theo BLHS 1985 chỉ cần chứng minh đươc một người
có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, không cần chứng minh
giá trị tài sản là bao nhiêu (trừ trường hợp hành vi tuy có dấu hiệu của tội
phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể theo quy định
tại khoản 3 Điều 8 BLHS ) là có thể kết luận đã có dấu hiệu tội phạm (giá
trị tài sản chỉ là yếu tố lượng hình, không phải là yếu tố định tội ), thì nay
theo BLHS 1999 yếu tố lượng hình đã trở thành một căn cứ để xác định có
cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không.
Khoản 1: từ 1 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng
Hoặc dưới 1 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị

xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Khoản 2: từ trên 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khoản 3: từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
Khoản 4: từ 500 triệu đồng trở lên.
(10)
Việc đưa yếu tố định lượng tài sản là một căn cứ để xác định có cấu
thành tội phạm hay không góp phần hạn chế tới mức cao nhất quyền tuỳ
nghi của toà án, tránh xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm giúp xác định rõ
ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm. Nó cũng là cơ sở pháp lý
để áp dụng thống nhất pháp luật trong toàn quốc, tạo cơ sở để người dân
hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật để qua đó tự điều chỉnh hành vi
của mình tránh trường hợp phạm tội do không hiểu rõ các quy định của
pháp luật.
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là mặt
bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện ra của tộI phạm diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, có thể nhận thức được bằng các
giác quan trực tiếp hay bằng tư duy lôgic.
Các Mác đã viết: " Nếu chỉ có sự biểu lộ đơn giản ý định làm cái
này hoặc cái khác thì không thể lấy đó làm cái để truy tố về mặt hình sự,
cũng như về mặt chính sách cải tạo. Luật hình sự của Xô viết và luật hình sự
của các nước XHCN khác cũng không quy định trách nhiệm với ý đồ " thuần
tuý " đối với những suy nghĩ khác của con người, cho dù đó là ý định phạm
tội
(1)
. Nội dung mặt khách quan bao gồm: hành vi khách quan của tội
phạm, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi

và hậu quả cũng như thời gian, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện, thủ đoạn
phạm tội. Trong đó hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và " nếu lấy
pháp luật mà không lấy hành vi lại lấy thái độ, tư tưởng làm tiêu chuẩn thì
(10)
Sđd.
(1)
C.Mác- F.Engel toàn tập, tập I, Nhà xuất bản quốc gia Beclin, 1967.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không phải cái gì khác mà chính là sự thừa nhận trên thực tế sự vô pháp
luật"
(2)
.
Hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là những biểu hiện
của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ
thể nhằm đạt được những mục đích có chủ định và mong muốn. Những
biểu hiện ra bên ngoài của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi
khách quan. Không thể nói tới hậu quả của tội phạm cũng như những yếu
tố khác (như công cụ, phương tiện phạm tội,…) khi không có hành vi
khách quan. Hành vi khách quan là tác nhân gây ra sự biến đổi tình trạng
của đối tượng bị tác động của tội phạm, và do vậy nó chính là nguyên nhân
gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hành vi khách
quan là cầu nối giữa khách thể và chủ thể tội phạm, không có chủ thể của
tội phạm khi không có hành vi khách quan của tội phạm.Hành vi khách
quan của tội phạm có ba đặc điểm sau: có tính nguy hiểm cho xã hội, là
hoạt động có ý thức và có ý chí của chủ thể, là hành vi trái pháp luật hình
sự và về hình thức biểu hiện, hành vi khách quan của tội phạm được thể
hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động phạm tội.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng có đầy đủ đặc
điểm mặt khách quan của tội phạm nói chung. Hành vi khách quan của tội

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng mang ba đặc điểm trên, đó là:
hành vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội, và
hành vi đã được tính toán cân nhắc là hoạt động có ý thức và ý chí của chủ
thể, được thực hiện dưới hình thức hành động phạm tội hành vi đã vi phạm
vào Điều 140 BLHS 1999 (đó chính là hành vi trái pháp luật hình sự).
Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản rất đa
dạng đuợc quy định trong Điều 140 BLHS như sau:
(2)
C.Mác- F.Engel toàn tập, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H, 1995.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
" Người nào có một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản
của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng…;
a) Vay,mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản".
(10)
Như vậy, đặc điểm hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được thể hiện trước hết ở dấu hiệu: người phạm tội đã
nhận được tài sản một cách hợp pháp từ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp. Căn cứ pháp lý của việc nhận tài sản là hợp đồng dân sự, kinh tế như:
hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản, hoặc các hình thức hợp đồng khác.
Giao dịch hợp pháp, ngay thẳng là giao dịch luôn có sự phù hợp
giữa ý chí và bày tỏ ý chí. các bên tham gia giao dịch phải có năng lực
hành vi dân sự. Mục đích và nội dung giao dịch không trái pháp luật và đạo
đức xã hội, người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Hình thức giao

dịch phù hợp với các quy định của pháp luật.Thông qua các giao dịch đó
phát sinh các quyền và nghĩa vụ.
Giao dịch có thể được thực hiện dưới các hình thức sau:
* Vay tài sản: Theo Điều 471 BLDS năm 2005: “Hợp đồng vay
tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao cho bên vay;
khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên vay tài sản cùng loại theo
đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận và pháp luật
có quy định”. Vay tài sản được mô tả trong tội lạm dụng tín nhiệm cũng
mang đặc điểm của một hợp đồng vay tài sản nói trên. Bên vay và bên cho
vay hoàn toàn tự nguyện khi giao kết hợp đồng.
(10)
Sđd.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
*Thuê tài sản: Theo Điều 480 BLDS:” Hợp đồng thuê tài sản là sự
thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để
sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải trả tiền thuê”. Đối tượng của
hợp đồng thuê tài sản phải là những vật đặc định.
*Mượn tài sản: Theo Điều 512 BLDS, Hợp đồng mượn tài sản là
sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên
mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, còn bên mượn
phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt
được”
(11)
.
Trong trường hợp này giữa chủ tài sản và người phạm tội thường
có mối quan hệ thân thiết như quan hệ bạn bè, yêu đương, hàng xóm…, đối
tượng chủ yếu là các phương tiện đi lại như xe máy, xe đạp…
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể có được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng khác như: hợp đồng mua bán tài sản, hợp

đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng gia công, dịch vụ, hợp đồng vận chuyển…
Sau khi có được tài sản trong tay, người phạm tội mới có hành vi
chiếm đoạt tài sản được giao. Sự chiếm đoạt đó có thể là tiếp tục chiếm giữ
không chịu trả lại tài sản cho chủ sở hữu (biến thành của riêng), hoặc tự ý
sử dụng, định đoạt tài sản không đúng với nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng
với ý định không muốn trả lại tài sản khi thời hạn hợp đồng đã hết. Cần
phân biệt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản cơ sở để ký kết hợp đồng dân sự là lòng tin (sự tín
nhiệm) có thực của người chiếm đoạt. Còn trong tội lừa dảo chiếm đoạt tài
sản cơ sở tạo ra lòng tin để ký kết được hợp đồng là thủ đoạn gian dối.
Người phạm tội phải dùng thủ đoạn gian dối để làm cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp tin giả là thật và giao tài sản cho người phạm tội và
trên cơ sở đó chiếm đoạt tài sản.
(11)
Sdd.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản có thể được biểu hiện qua các thủ đoạn như : gian dối, bỏ trốn, hoặc
sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả
lại tài sản cho chủ sở hữu.
Thủ đoạn gian dối thường gặp trong thực tế như giả tạo bị mất,
hoặc đánh tráo tài sản, rút bớt tài sản khiến sản phẩm được làm ra không có
đầy đủ đặc tính về số lượng, chất lượng như yêu cầu của hợp đồng, xoá dấu
tích việc nợ, huỷ bỏ các tài liệu chứng cứ chứng minh nghĩa vụ thanh toán
như giấy vay nợ, các cam kết. Phần lớn trong các trường hợp người phạm
tội dùng thủ đoạn gian dối để che giấu hành vi chiếm đoạt.
Ví dụ: Trần Văn Hưng làm nghề sửa chữa điện tử . Do có uy tín lâu
năm nên số lượng khách hàng đến cửa hàng nhà Hưng rất đông. Ngày
8/5/2005 Anh Nguyễn Ngọc Bằng do được một người bạn giới thiệu đã

đem bộ dàn nghe nhạc đến cửa hàng của Hưng để sửa. Trong khi sửa chữa,
tháo các linh kiện, thấy một vài linh kiện trong bộ dàn là linh kiện của Nhật
rất đắt tiền, Hưng đã nảy sinh ý định đổi linh kiện của Nhật bằng linh kiện
của Trung Quốc, và chiếm đoạt số linh kiện đó của nhật đó. Như vậy, ban
đầu Trần Văn Hưng không hề có ý định chiếm đoạt đoạt số linh kiện đó,
mà ý định chiếm đọat chỉ nảy sinh trong quá trình Hưng tháo các linh kiện
để sửa. Để che giấu hành vi phạm tội Hưng đã dùng thủ đoạn là thay linh
kiện của Nhật bằng linh kiện của Trung Quốc. Hành vi trên đây của Hưng
đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại
Điều 140 BLHS năm 1999.
Thủ đoạn của hành vi chiếm đoạt chiếm đoạt thứ hai là thủ đoạn bỏ
trốn. Nếu người phạm tôi không dùng thủ đoạn gian dối mà sau khi nhận
được tài sản một cách hợp pháp đã bỏ trốn với ý thức cố tình không thanh
toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp
(hay nói cách khác là ý thức chiếm đoạt tài sản). Bỏ trốn để trốn tránh việc
trả nợ là trường hợp người vay, mượn hoặc nhận tài sản từ các hình thức
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×