Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn quận 9, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.7 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐĂNG THÔNG

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐĂNG THÔNG

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ TƯỜNG VY

HÀ NỘI, năm 2020




LỜI CAM ĐOAN
Đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, dưới sự hướng dẫn tận tình
của TS. Lê Tường Vy. Các số liệu, tài liệu, kết quả được trình bày trong luận
văn là hồn tồn chính xác, khách quan và trung thực không trùng lặp và chưa
từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Những nội dung trong
luận văn có sử dụng tài liệu tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách
đầy đủ, chính xác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN ĐĂNG THÔNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM....................7
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản......................... 7
1.2. Lịch sử quy định về tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam......12
1.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số loại tội khác................................17
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI

QUẬN 9,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH........................................................................ 23
2.1. Tình hình tội cướp giật tài sản tại Quận 9 trong những năm gần đây..........23
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với tội cướp giật tài sản
tại Quận 9............................................................................................................ 29

2.3. Những khó khăn và nguyên nhân.................................................................45
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI
SẢN TẠI QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.......................................48
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật đối với tội
cướp giật tài sản...................................................................................................48
3.2. Một số giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội
Cướp giật tài sản..................................................................................................52
KẾT LUẬN........................................................................................................ 75


DANH MỤC VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS


: Trách nhiệm hình sự

TPHCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu tình hình khởi tố, truy tố và xét xử tội cướp giật tài
sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019
Bảng 2.2: Số vụ án, số bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bị Tòa án trả
hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015
đến 2019
Bảng 2.3: Hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản tại Quận
9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận 9 là một quận nằm ở vị trí cửa ngõ Đơng Bắc của Thành phố, nối
liền địa bàn kinh tế trọng điểm của khu vực có diện tích 113,896.200 km2, có
13 phường với dân số 235.268 nhân khẩu. Địa bàn Quận 9 vốn là vùng sâu
vùng xa nông thôn của huyện Thủ Đức cũ, là vùng oanh kích tự do của quân
đội Mỹ và Sài Gòn trước kia, nên còn yếu kém nhiều về mọi mặt so với các
quận, huyện khác của Thành phố. Với điểm xuất phát thấp, kinh tế phát triển
không đồng đều, phần lớn là sản xuất nông nghiệp, ngành công nghiệp –tiểu
thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ phát triển chậm, đời sống của nhân dân
còn nhiều khó khăn, mặt bằng dân trí thấp, cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế,
yếu kém.
Tuy nhiên nhờ được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy - UBND
Thành phố, sự giúp đỡ của các Sở, ban, ngành Thành phố; sự lãnh đạo sâu sát
của Quận ủy, sự chủ động động trong quản lý, điều hành của chính quyền, sự
phối hợp có hiệu quả của Mặt trận và các đoàn thể, sự nỗ lực to lớn của nhân
dân, công cuộc xây dựng và phát triển của Quận 9 đã đạt được những thành tựu
nổi bật, làm thay đổi diện mạo của quận vùng ven một cách toàn diện và sâu sắc.
Trên địa bàn Quận có thêm nhiều khu cơng nghiệp, đặc biệt có Khu cơng nghệ
cao của Thành phố. Đang hình thành nhiều khu đơ thị mới, tập trung và thu hút
ngày càng đông dân cư đến sinh sống, học tập và làm việc. Do đó tình hình tội
phạm trên địa bàn quận cũng có những diễn biến rất phức tạp, ngày một gia tăng
cả về số lượng lẫn thủ đoạn phạm tội có thể nói ngày càng tinh

vi hơn, trong đó có tội cướp giật tài sản xảy ra khá nhiều trong thời gian gần
đây với những thủ đoạn vô cùng manh động và liều lĩnh.
Tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, TPHCM so với tổng số tội
phạm hình sự được khởi tố là lớn, từ năm 2015 đến năm 2019 CQĐT đã khởi

1



tố từ nguồn tố giác, từ các tin báo về tội phạm và từ việc bắt quả tang với tổng
số 93 vụ/ 139 bị can
Trước tình hình đó, cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm ln được
các cấp có thẩm quyền trên địa bàn Quận 9 quan tâm. Được thể hiện rõ qua
chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử được quan tâm chú trọng và hiệu
quả nâng lên rõ rệt một phần là có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Tất cả các vụ cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9 đều được
đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Song bên cạnh
đó, cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn
Quận 9 vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ
quan. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ của mình là vấn đề
phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về tội
cướp giật tài sản, những cơng trình này nghiên cứu ở những góc độ và phạm
vi khác nhau. Cụ thể như sau:
2.1. Nhóm Các luận án luận văn
- Trần Hữu Nghĩa (2014), Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội;
- Nông Anh Vượng (2016), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH;
- Trần Văn Đơng (2017), Phịng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH;
- Phạm Tuấn Anh (2018),Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ,
Học viện KHXH;


2


Các cơng trình nghiên cứu trên đều nói đến lý luận và pháp luật về tội cướp
giật tài sản, đặc điểm của tình hình tội phạm nói chung,phân tích những những
đặc điểm của tội phạm cướp giật tài sản ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng lãnh thổ - hành
chính nhất định. Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu khoa học này đều mang
tính tồn diện, chỉ ra các phương pháp và trang bị cho học viên có thể hệ thống
các khái niệm và phương hướng nghiên cứu tội cướp giật tài. Tuy nhiên đến thời
điểm hiện tại thì chưa chưa có cơng trình nghiên cứu chun sâu nào về tội cướp
giật tài sản thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.2. Nhóm Sách chun khảo, giáo trình
- Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội;
- Trịnh Tiến Việt (2001) ,“ Một số điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu
trong Bộ luật hình sự năm 1999, Pháp lý;
- Trương Quang Vinh (2000), Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS
năm 1999, Tạp chí Luật học số tháng 4/2000, Đại học Luật Hà Nội;
Đây là một số cơng trình cung cấp lý thuyết cơ bản, nền tảng về tội phạm
nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Các cơng trình này mang tính lý
thuyết như: Khái niệm tình hình tội phạm, khái niệm phịng ngừa tội phạm,
khái niệm các tội xâm phạm sỏe hữu...Những cơng trình trên cung cấp cơ sở
lý luận để học viên vận dụng nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
2.3. Nhóm các bài báo
- Nguyễn Tuấn Anh, “Tội phạm xâm phạm sở hữu ở nước ta và giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh trong tình hình mới”, Tạp chí
Cảnh sát nhân dân, số 8/2015;
- Nguyễn Mai Bộ, “Về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Tịa án nhân
dân , Số 7, 8 và 9/2018;

Các bài báo trên đều nêu lên những khái niệm về Tội xâm phạm sở hữu

3


nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, thực trạng các tội này xảy ra trong
thực tiễn. Từ đó tác giả bài báo đưa ra những giải pháp để phòng ngừa đấu
tranh các loại tội phạm này, đây cũng là những giải pháp mà học viên tham
khảo để áp dụng đề xuất những kiến nghị trong luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu luận văn này trên cơ sở nghiên cứu các lý luận, các
quy định của pháp luật, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội
cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ
năm 2015 – 2019. Từ đó tác giả đề ra các biện pháp đảm bảo việc áp dụng
đúng các quy định của pháp luật về tội cướp giật tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất mục đích nghiên cứu đã đặt ra, tác giả
tập trung:
- Phân tích khái niệm về các dấu hiệu pháp lý, các qui định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS năm 2015
( Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản, với tội cưỡng
đoạt tài sản, với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp tài sản.
- Phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Quận 9 dựa
trên thực tiễn định tội danh và thực tiễn quyết định hình phạt.
- Đề xuất các biện pháp đảm bảo việc áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về tội cướp giật tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tất cả

các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cướp giật tài sản. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài

4


sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
có liên quan đến tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời gian 05 năm ( từ năm 2015 đến năm 2019). Về thực tiễn luận
văn chỉ giới hạn ở định tội danh và quyết định hình phạt của Tịa án nhân dân
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói
chung; các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước về đấu
tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam nói riêng trong q trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra,
tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
+ Phương pháp lịch sử: Tác giả nêu ra và phân tích các quy định của
pháp luật trong BLHS của Việt Nam qua các thời kỳ, Từ đó có cái nhìn tổng
thể về pháp luật nói chung quy định của pháp luật Việt Nam đối với tội cướp
giật tài sản nói riêng.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê hình sự: Trong luận văn tác
giả đã thu thập số liệu thống kê qua báo cáo tổng kết và tổng hợp các số liệu
của VKSND Quận 9; từ đó tác giả phân tích số liệu theo các tiêu chí đánh giá
để phù hợp với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn.
+ Phương pháp khảo sát, phân tích, so sánh : Sử dụng phương pháp này
trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã khảo sát tình hình chung, lựa chọn

những vụ án điển hình để nghiên cứu phân tích; tổng hợp kết quả phân tích từ
các điển hình đã lựa chọn để so sánh, rút ra các đánh giá, nhận xét phù hợp
phục vụ cho việc nghiên cứu.

5


+ Phương pháp phỏng vấn, trao đổi: Để làm rõ hơn các vấn đề nghiên
cứu, nhất là những vấn đề chưa được làm rõ bằng các biện pháp khác, tác giả
đã trao đổi, phỏng vấn trực tiếp đối với một số chuyên gia và cán bộ làm công
tác thực tiễn phụ trách các vấn đề có liên quan đến đề tài, từ đó làm rõ hơn
vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài tác giả chọn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về tội cướp giật tài sản góp phần
hồn thiện nội dung quy định của pháp luật về tội cướp giật tài sản.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Các giải pháp đề xuất trong đề tài góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.
+ Đề tài góp phần giải quyết những vướng mắc khi xét xử loại tội này
trên thực tế xét xử của Tịa án.
+ Ngồi ra kết quả nghiên cứu của đề tài cịn có thể dùng làm tài liệu
giảng dạy cho các trường giảng về Luật và làm tài liệu tham khảo cho những
ai quan tâm về loại tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản
trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam
đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3 : Yêu cầu và giải pháp bảo đảm việc áp dụng đúng các quy
định của pháp luật đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí
Minh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản
Trước khi làm rõ khái niệm của Tội cướp giật tài sản ta cần làm rõ khái
niệm của tội phạm:
Khái niệm tội phạm: tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [1. Điều 8].
Tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015: “Người
nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Như vậy mặc dù Điều luật chỉ nêu tội danh mà không mô tả hành vi cướp giật
tài sản, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì tội cướp giật tài sản
thường xuất hiện với một số hành vi phổ biến sau:
Người phạm tội có hành vi cơng khai giật lấy tài sản trong tay người

khác hoặc đang trong sự quản lý của người có trách nhiệm về tài sản rồi
nhanh chóng tẩu thoát. Điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản khi so sánh với
những tội phạm khác là người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ tài sản hoặc
người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà họ khó có thể giữ
được hoặc giằng lại được. thông thường tài sản mà người phạm tội cướp giật

7


có thể là loại tài sản gọn nhẹ như: Đồng hồ, dây chuyền vàng, điện thoại...
hoặc những tài sản kồng kềnh như xe đạp, xe máy, ôtô...người phạm tội dùng
những tài sản sau khi giật được làm phương tiện tẩu thoát. Yếu tố bất ngờ
trong Tội cướp giất tài sản cũng là một dấu hiệu đặc trưng của tội phạm.
Hành vi công khai chiếm đoạt tài sản tức là người phạm tội không hề
giấu diếm hành vi phạm tội của mình và ngay sau khi bị mất tài sản người bị
hại biết ngay người giật tài sản của mình. Trong trường hợp này người phạm
tội hồn tồn khơng dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản cũng không đe doạ
dùng vũ lực hoặc không dùng các thủ đoạn khác nhằm uy hiếp tinh thần của
chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản.
Có thể thấy tội cướp giật tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản và người phạm tội thực hiện một cách cố
ý Mục đích chiếm đoạt có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản. Qua nghiên cứu tài liệu, giáo trình Luật hình sự, các bài viết trên
tạp chí, bình luận khoa học BLHS và một số tài liệu khác, tác giả có thể khái
quát tội cướp giật tài sản như sau: Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện với lỗi cố ý bằng cách nhanh chóng giật lấy tài sản của người
khác một cách cơng khai rồi tìm cách tẩu thoát.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.2.1 Khách thể của tội cướp giật tài sản

Tội cướp giật tài sản không chỉ xâm hại đến quyền sở hữu của người
khác mà còn xâm hại đến quan hệ nhân thân nhưng trực tiếp vẫn là quan hệ sở
hữu đối với tài sản của họ. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong điều luật khi
quy định Tội cướp giật tài sản đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt
hại đến tính mạng, sức khoẻ, đây là những tình tiết định khung hình phạt.
Hành vi cướp giật tài sản đã gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của

8


người bị hại ví dụ giật tài sản mà gây tai nạn cho người đi đường. Mặc dù việc
gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ khơng phải là đối tượng tác động mà
người phạm tội nhằm vào, nhưng vẫn thực hiện, mà bất chấp hậu quả xảy ra.
Các tội phạm xâm phạm sở hữu trong chương XVI BLHS năm 2015 đều có
chung một khách thể là quan hệ sở hữu chính vì vậy để phân biệt Tội cướp
giật tài sản với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác, chúng ta phải dựa vào
dấu hiệu hành vi khách quan và các dấu hiệu chủ quan khác mà không thể dựa
vào yếu tố khách thể. Như vậy có thể khẳng định tội cướp giật tài sản đã đồng
thời xâm phạm đến hai quan hệ xã hội là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân
thân.
Đối tượng mà tội phạm tác động đến ở tội cướp giật tài sản là con người
cụ thể và tài sản.
1.1.2.2 Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản là công khai chiếm đoạt tài
sản và nhanh chóng tẩu thốt.
Đặc trưng của Tội cướp giật tài sản được chỉ rõ ngay trong tên của điều
luật đó là hành vi giật tài sản, tức là giằng lấy, giật lấy tài sản một cách nhanh
chóng.
Dấu hiệu cơng khai: Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực
hiện một cách cơng khai khi hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả

năng biết ngay khi hành vi này xảy ra. Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng để
phân biệt với những trường hợp phạm tội có tính lén lút, bí mật, gian dối khác
như hành vi trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tính chất cơng khai của
hành vi cướp giật tài sản chỉ là công khai về hành vi chứ không công khai về
nhân thân của người phạm tội. Trong thực tế người phạm tội có che giấu thân
phận của mình thì họ vẫn cấu thành tội cướp giật tài sản nếu thực hiện hành
hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Thực tiễn cho thấy

9


thủ đoạn phạm tội cướp giật tài sản của người phạm tội có thể thực hiện là rất
đa dạng như: lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản
không chú ý, gặp vướng mắc hoặc các trường hợp khác như lái xe để giật tài
sản. Việc phân tích các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng có tác dụng để
phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác ta cũng phải dựa vào thủ
đoạn phạm tội này.
Dấu hiệu nhanh chóng: Đây là phương thức, thủ đoạn lợi dụng sơ hở
hoặc là tạo ra sự sơ hở của chủ tài sản, người phạm tội nhanh chóng tiếp cận,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thốt. Đây là dấu hiệu cơ
bản quan trọng, bắt buộc phải có trong mặt khách quan của phạm. Đối với tội
cướp giật tài sản thì đa phần tài sản bị chiếm đoạt có đặc điểm là gọn, nhẹ, dễ
dịch chuyển hoặc một số trường hợp là tài sản cồng kềnh nhưng sau khi
chiếm đoạt người phạm tội lại dùng chính tài sản đó làm phương tiện tẩu thốt
như xe máy, ơtơ. Chính vì vậy đặc điểm của tài sản cũng là căn cứ để đánh giá
thế nào là dấu hiệu nhanh chóng. Trong các dấu hiệu nhanh chóng tiếp cận,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thốt, thì dấu hiệu nhanh
chóng chiếm đoạt là dấu hiệu quan trọng nhất, đây là dấu hiệu bắt buộc,
không thể thiếu trong cấu thành tội phạm.
Dấu hiệu nhanh chóng là một trong những dấu hiệu giúp chúng ta có thể

phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội khác trong chương các tội xâm phạm
sở hữu. Rõ ràng trong mặt khách quan của một số tội phạm xâm phạm sở hữu
ở chương này không cần có dấu hiệu nhanh chóng. Ví dụ như tội cướp tài sản,
người phạm tội cũng không chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng mà
thơng qua hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc dùng
các thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng khơng thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hậu quả tội cướp giật tài sản xâm phạm đồng thời đến hai khách thể đó

10


là quyền sở hữu và quyền nhân thân nên hành vi phạm tội cũng sẽ gây ra hậu
quả trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngồi ra cịn có những thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ. Qua nghiên cứu về lý luận tội phạm ta thấy tội cướp giật
tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, cho nên, tội phạm hoàn thành khi
người phạm tội giật được tài sản, nếu người phạm tội chưa giật được tài sản
thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội cướp giật tài sản là tội phạm
nghiêm trọng nên pháp luật hình sự khơng quy định mức tài sản bị chiếm đoạt
là dấu hiệu cấu thành tội phạm.
1.1.2.3 Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản là những biểu hiện bên trong của
tội phạm, bao gồm lỗi, động cơ, mục đích.
Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp
mà không thể là lỗi có ý gián tiếp hoặc lỗi vơ ý. Người phạm tội nhận thức
được hành vi cướp giật tài sản là nguy hiểm cho xã hội thấy trước được hậu
quả của tội phạm nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó.
Người phạm tội cướp giật tài sản chỉ cấu thành tội phạm này khi họ có
mục đích chiếm đoạt tài sản. Nếu như các tội cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, thì mục đích chiếm đoạt tài sản có thể

xảy ra trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng đối với tội
cướp giật tài sản mục đích chiếm đoạt tài sản ln có trước khi người phạm
tội thực hiện hành vi giật tài sản.
1.1.2.4 Chủ thể của tội cướp tài sản
Chủ thể của tội cướp giật tài sản được quy định trong bộ luật hình sự là
người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Người thực hiện hành vi phạm tội khơng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác (được cơ quan y tế xác nhận là mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi).

11


Điều 171 BLHS năm 2015 quy định bốn khung hình phạt. Căn cứ vào
quy định tại Điều 9 BLHS phân loại tội phạm, tội cướp giật tài sản bao gồm
các loại tội nghiêm trọng (Khung 1), rất nghiêm trọng (Khung 2, 3) và đặc
biệt nghiêm trọng (Khung 4) thì chủ thể của tội cướp giật tài sản là bất kỳ
người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi (đối với khoản 1
điều 171) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (đối với khoản 2, 3 và 4 Điều 171).
1.2. Lịch sử quy định về tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt
Nam
1.2.1. Giai đoạn trước Bộ luật hình sự 1985
Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động ổn định an ninh trật tự, an ninh
chính trị, bảo vệ đất nước non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng, Quốc hội,
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Một trong những nội dung
đặc biệt quan trọng được Hiến pháp ghi nhận “quyền tư hữu tài sản của công
dân Việt Nam được đảm bảo” Điều 12 Hiến pháp 1946. Vào thời điểm đó Chủ
tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hồ đã ký Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 về việc áp dụng những văn bản của pháp luật không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Sắc

lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định các hành vi phá hoại công sản. Khi
chưa ban hành được các văn bản pháp luật mới nhà nước ta đã vận dụng pháp
luật của chế độ cũ để quản lý xã hội theo tinh thần của nhà nước dân chủ mới
và Nhà nước ta cũng đã từng bước ban hành những văn bản pháp luật mới
thay thế, góp phần bảo vệ các quan hệ xã hội tiến bộ trong xã hội mới.
Ngày 21/10/1970 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thơng qua 2 pháp lệnh
mới đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN tại điều 5 quy
định “kẻ nào cướp giật tài sản XHCN thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm”, còn
tại điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của cơng dân có
quy định “kẻ nào cướp giật tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng

12


đến 5 năm” . Đến giai đoạn này có thể nói pháp luật về sở hữu nói chung và
tội cướp giật tài sản nói riêng cơ bản đã được thể hiện đầy đủ, toàn diện, độc
lập trong một văn bản riêng. Ngồi ra tại thơng tư liên bộ của TANDTC –
VKSNDTC – BCA ngày 16/03/1973 hướng dẫn cụ thể 2 pháp lệnh kể trên
trong đó tội cướp giật tài sản được hiểu là “trường hợp kẻ phạm tội lợi dụng
sơ hở vướng mắc của người giữ tài sản, bất thần giằng lấy tài sản trên tay
người giữ tài sản” đây là hướng dẫn mà sau nay BLHS đã tách 2 hành vi này
thành 2 tội độc lập, với hướng dẫn lợi dụng “vướng mắc” sau này được tách
thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Còn hướng dẫn “bất thần giằng lấy
tài sản trên tay người giữ tài sản” sau này được tách thành tội cướp giật tài
sản. Năm1976 chính phủ đã ban hành sắc lênh quy định tội phạm và hình phạt
SL/03. Tại đây tội cướp giật tài sản được quy định chung với các tội xâm
phạm sở hữu khác tại điều 4. Như vậy các văn bản nói trên là cơ sở pháp lý
quan trọng để đấu tranh với các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản trong
giai đoạn này.
1.2.2. Quy định của bộ luật hình sự 1985

Đảng và Nhà nước ta coi PLHS là công cụ không thể thiếu để bảo vệ chế
độ nên Nhà nước ta pháp điển hóa pháp luật hình sự được đẩy mạnh trong giai
đoạn 1982 - 1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời của một bộ luật thống nhất,
duy nhất xác định tội pham, và hình phạt. BLHS năm 1985 được quy định rõ
Phần chung và Phần riêng gồm 12 chương được chia thành 280 điều. BLHS
năm 1985 là bản tổng kết sâu sắc thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm của nước ta thời kỳ đó, để theo kịp sự phát triển của đất nước, cũng như
điều chỉnh pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp ứng yêu cầu
của cuộc đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói
riêng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật hình sự để sửa đổi bổ sung các
quy định của BLHS năm 1985, ban hành vào các năm 1991,1992 và

13


1997 Để phù hợp với tình hình mới, quy định về tội cướp giật tài sản như sau:
Điều 131 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 129, thì bị phạt tù từ 1
năm đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chun nghiệp
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thốt
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác
d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10
đến 20 năm.
Điều 154 quy định:
1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người

khác, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba 3
tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2
năm đến 10 năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chun nghiệp
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 7
năm đến 15 năm.
- Về hình phạt: Trong giai đoạn này pháp luật hình sự có tư tưởng chủ
đạo là chú trọng bảo vệ tài sản chung (tài sản XHCN) hơn tài sản riêng (tài

14


sản tư nhân). Điểm mới nổi bật của BLHS năm 1985 so với các văn bản pháp
luật trước đây đó là, các hình phạt được quy định tập trung, sắp xếp theo một
trật tự nhất định và có một hệ thống hình phạt và tiêu chí áp dụng tương đối
đầy đủ. Hình phạt có mục đích khác nào giáo dục, răn đe chứ không chỉ là
trừng trị người phạm tội. Mức phạt tối đa ở tội cướp giật tài sản quy định tại
BLHS năm 1985 cũng cao hơn so với mức phạt ở 2 pháp lệnh là Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và trừng trị các tội xâm
phạm tài sản riêng của công dân. Cụ thể ở BLHS năm 1985, mức phạt tối đa
là 15 năm tù với tội cướp giật tài sản riêng công dân và 20 năm tù với tội
cướp giật tài sản XHCN. Tuy nhiên mức hình phạt tối thiểu là một năm tù với
tội cướp giật tài sản XHCN và 3 tháng tù với tội cướp giật tài sản riêng của
cơng dân thì lại tương đương với hai Pháp lệnh năm 1970. Có thể thấy rõ
BLHS 1985 có mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với các văn bản pháp luật
ở giai đoạn trước. Ngoài ra BLHS năm 1985 có quy định 3 khung hình phạt

nhiều hơn so với 2 khung hình phạt của các văn bản trước đây. Điều 131,
Điều 154 BLHS 1985 có quy định tình tiết "dùng thủ đoạn nguy hiểm" và
"chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác" đây là
những tình tiết mới.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Đây là điểm mới của BLHS 1985. là
một cơ sở quan trọng để người Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân khi xét xử
được chính xác, cơng tâm, khách quan. Ngày 28/12/1989, Quốc hội thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985, trong đó bổ sung
thêm một tình tiết định khung tăng nặng TNHS đối với người "phạm tội có
tính chất chun nghiệp" vào điểm a khoản 2 của các điều luật quy định về tội
cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản. Như vậy ta có thể thấy Nguyên
tắc xử lý quy định trong BLHS năm 1985 về cơ bản không thay đổi so với
Pháp lệnh năm 1970. Điều 3 BLHS năm 1985 thì mọi hành vi phạm tội nó

15


phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, cơng minh theo đúng pháp
luật trong đó có các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản
nói riêng.
1.2.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999
Để phù hợp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mở
cửa và hội nhập quốc tế, đồng thời ngăn chặn những tác động tiêu cực của
mặt trái của nền kinh tế thị trường, ngăn chặn sự phát triển với tốc độ nhanh
chóng của tội phạm trong đó có các tội phạm xâm phạm sở hữu. Hiến pháp
năm 1992 đã xác định chúng ta có nhiều thành phần kinh tế, cùng với đó
chúng ta có nhiều hình thức sở hữu. Chính sách hình sự và pháp luật hình sự
cũng cần phải thay đổi phù hợp để bảo vệ sở hữu chung và sở hữu riêng một
cách công bằng, không đặt cái nào nặng cái nào nhẹ, không thiên vị dựa trên
quan điểm nào. BLHS 1985 chúng ta phân định hai hình thức sở hữu để quy

định thành hai khách thể bảo vệ độc lập là tài sản thuộc sở hữu thuộc sở hữu
XHCN và tài sản thuộc sở hữu của công dân như vậy trong điều kiện thực tế
đã khơng cịn phù hợp gây cản trở vướng mắc đến các chính sách đổi mới của
đất nước. Trước tình thế giới nhiều biến động Nhà nước đã tiến hành soạn
thảo và thông qua BLHS năm 1999 tại kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa X
(18/11-21/12/1999) mà trong hệ thống PLHS thực định Việt Nam hiện hành
và lần đầu tiên được thể hiện qua lần pháp điển hóa thứ hai và BLHS năm
1999 ra đời. Chúng ta có thể so sánh hệ thống của BLHS năm 1985 và hệ
thông của BLHS 1999 đã thấy ro sự đổi mới và chăt chẽ hơn, có tất cả 24
chương,10 chương trong phần chung với 77 điều, 14 chương trong Phần các
tội phạm với 267 điều, tổng cộng là 344 điều. BLHS năm 1999 có điểm mới
so với BLHS 1985 khi quy định về các tội phạm xâm phạm sở hữu đó là, các
nhà làm luật đã ghép hai chương IV và VI của BLHS năm 1985 vào thành
một chương (Chương XIV) “các tội xâm phạm sở hữu” trong BLHS năm

16


1999 với 13 tội danh. Theo BLHS năm 1999 thì tội cướp giật tài sản có chế tài
nặng hơn BLHS năm 1985.
1.2.4. Quy định của bộ luật hình sự 2015
Có thể nói trải qua hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) đã có những đóng góp rất lớn và hồn thành sứ mệnh của
mình trong chặng đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên trước những
thay đổi lớn lao trên các mặt của đời sống xã hội, sự phát triển của nền kinh tế
trong thời kỳ hội nhập, nhận thức pháp luật của của người dân ngày càng nâng
cao, những thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, nhiều loại tội phạm mới xuất
hiện… những vấn đề đó địi hỏi cần phải có sự điều chỉnh sửa đổi, bổ sung
của hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu
thực tiễn đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày 22

tháng 7 năm 2014 Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan xây dựng dự án Bộ luật hình sự .
Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XIII vào ngày 27/11/2015. Quốc Hội quyết nghị kể từ ngày
01/01/2018 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi bổ sung một
số điều theo luật số 12/2017/QH14 chính thức có hiệu lực pháp luật. Tội cướp
giật tài sản quy định, hướng dẫn tại Điều 171 BLHS số 100/2015/QH13 năm
2015.
1.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số loại tội khác
1.3.1. Với tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản khác biệt với tội cướp giật tài sản tại một số điểm
chính như sau:
Khách thể: Tội cướp giật tài sản xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản,
ngoài ra trong một số trường hợp cụ thể tội phạm này gián tiếp xâm hại đến
sức khỏe và tính mạng của nạn nhân cịn ở tội trộm cắp tài sản người phạm tội

17


chỉ xâm phạm tới quyền sở hữu nhưng không xâm phạm tới sức khỏe, tính
mạng của nạn nhân.
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản: là hành vi cơng khai, nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý
tài sản. Cịn hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản.
Về giá trị tài sản xâm phạm: nếu như tội cướp giật tài sản định lượng tài
sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố định khung hình
phạt ngược lại với tội trộm cắp tài sản thì định lượng tài sản chiếm đoạt chính
là yếu tố định tội đồng thời là yếu tố định khung hình phạt. Khoản 1 Điều 173
BLHS 2015 quy định, “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ

2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Về khắc phục hậu quả: nếu như ở tội cướp giật tài sản người quản lý tài
sản có thể giành lại tài sản của mình bằng cách giật lại hoặc truy đuổi, cịn ở
tội trộm cắp tài sản người quản lý tài sản không thể quản lý tài sản, không thể
giành lại tài sản của mình do khơng phát hiện được hành vi lén lút, bí mật của
người trộm cắp tài sản của mình.
1.3.2. Với tội cưỡng đoạt tài sản
Tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 170 BLHS có một số đặc điểm
để phân biệt với tội cướp giật tài sản tại Điều 171 như sau:
Về khách thể: Tội cướp giật tài sản xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản,
ngoài ra trong một số trường hợp cụ thể tội phạm này gián tiếp xâm hại đến
sức khỏe và tính mạng của nạn nhân còn ở tội cưỡng đoạt tài sản người phạm
tội trực tiếp xâm phạm tới hai quan hệ xã hội đó là quan hệ sở hữu và quan hệ

18


nhân thân thông qua việc xâm hại đến quan hệ nhân thân để chiếm đoạt tài sản
của người bị hại.
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản: là hành vi cơng khai, nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý
tài sản. còn ở tội cưỡng đoạt tài sản người phạm có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ
lực, thể hiện ở thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và
tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản. Giữa
thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng
cách nhất định về thời gian. Hoặc hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh
thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ làm một việc
gây thiện hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn

yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội (như đe dọa hủy hoại tài sản,
loan tin về đời tư, tố giác hành vi phạm pháp…của người bị đe dọa).
Khắc phục hậu quả: nếu như ở tội cướp giật tài sản người quản lý tài sản
có thể giành lại tài sản của mình bằng cách giật lại hoặc truy đuổi. Còn ở tội
cưỡng đoạt tài sản người quản lý tài sản không thể quản lý tài sản, không thể
giành lại tài sản của mình do sự đe doạ, uy hiếp của người phạm tội.
1.3.3. Với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 172 BLHS có một
số đặc điểm để phân biệt với tội cướp giật tài sản tại Điều 171 như sau:
Khách thể: Tội cướp giật tài sản xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản,
ngoài ra trong một số trường hợp cụ thể tội phạm này gián tiếp xâm hại đến
sức khỏe và tính mạng của nạn nhân cịn ở tội cơng nhiên chiếm đoạt tài sản
người phạm tội chỉ xâm phạm tới quyền sở hữu nhưng không gây thiệt hại về
sức khỏe, tính mạng của người bị hại hoặc người khác.
Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản: là hành vi cơng khai, nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm

19


×