Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Trợ giúp pháp lý theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.03 KB, 91 trang )

LÊTH ỊTHÚY HẰ NG

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THÚY HẰNG

LUẬ THÌNH SỰ VÀT ỐT ỤNGHÌNHS Ự

TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

KHĨAIX ĐỢT2 NĂM2018

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ THÚY HẰNG

TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 8.38.01.04


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ HUỲNH TẤN DUY

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Trợ giúp pháp lý theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình nghiên cứu khoa học
của riêng tơi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Các số liệu
và trích dẫn được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và
tính trung thực của luận văn.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Tác giả luận văn

Lê Thị Thúy Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ............................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự........7
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung và hình thức của trợ giúp pháp lý trong tố tụng
hình sự..................................................................................................................... 13
1.3. Cơ sở quy định trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự..................................... 23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH............................................................................................................. 29

2.1. Sơ lược lịch sử các quy định về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự............29
2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự. . .33
2.3. Thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự tại Thành phố Hồ
Chí Minh................................................................................................................. 54
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.................67
3.1. Định hướng hồn thiện và bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về trợ
giúp pháp lý trong tố tụng hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh..............................67
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong tố tụng
hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh........................................................................ 70
3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong
tố tụng hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh............................................................ 74
KẾT LUẬN............................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

TGPL

Trợ giúp pháp lý

TGVPL

Trợ giúp viên pháp lý


THTT

Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1. Số vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi có Trợ giúp viên pháp
lý bào chữa .............................................................. Error! Bookmark not defined.5
Biểu đồ 2.2. Số vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi được trợ giúp
pháp lý ..................................................................... Error! Bookmark not defined.7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về
việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển, hoạt động trợ giúp pháp lý đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đi vào cuộc sống, giải quyết các khó khăn, vướng mắc pháp luật, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân. Với tư cách là một loại hình dịch vụ công trong
xã hội hiện đại, trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ của Nhà nước đồng thời cũng là trách

nhiệm chung của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân.
Được trợ giúp pháp lý là một trong những quyền quan trọng, thể hiện sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước đối với người bị buộc tội, người bị hại và đương sự trong
hoạt động tố tụng hình sự. Việc cung cấp trợ giúp pháp lý ban đầu trong lĩnh vực
pháp luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền con người và quyền tự do của mỗi
cá nhân trong xã hội, quyền này cần được thực hiện một cách kịp thời, nhanh chóng,
giúp cho người được trợ giúp pháp lý có được dịch vụ có chất lượng một cách kịp
thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm quyền con
người trong tiếp cận cơng lý.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 lần đầu tiên quy định trợ giúp viên pháp lý
tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự; quy
định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải giải thích
cho người thuộc diện trợ giúp pháp lý về quyền được trợ giúp pháp lý.
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trợ giúp pháp lý
trong tố tụng hình sự Việt Nam một cách tồn diện là cấp thiết, phù hợp với yêu cầu
cải cách tư pháp hiện nay của nước ta. Mỗi tỉnh, thành có một đặc thù khác nhau do
đó tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý cũng có nét khác nhau, vấn
đề cơ bản là cần đưa ra các giải pháp hợp lý, nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng

1


dịch vụ pháp lý, từ đó bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ
giúp pháp lý. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất nước, số lượng
dân nhập cư đông, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, do đó vấn đề trợ giúp
pháp lý cần được quan tâm nhiều hơn. Từ những đặc thù về tình hình kinh tế - chính
trị - xã hội, hoạt động trợ giúp pháp lý theo các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có những nét đặc thù riêng khi so

với các tỉnh, thành khác. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Trợ giúp pháp lý theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ, ngành Luật hình sự và Tố
tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trợ giúp pháp lý là một trong những chính sách xã hội hết sức quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta, thể hiện được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với
người nghèo, đối tượng chính sách, người có khó khăn về tài chính trong xã hội trên
phương diện pháp luật, tạo điều kiện cho các đối tượng trên có quyền bình đẳng để
tiếp cận pháp luật, cơng bằng trước pháp luật.
Dưới hình thức các đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, bài viết khoa học có
một số cơng trình liên quan đến đề tài luận văn ở những mức độ nhất định, điển
hình bao gồm:
Về luận án tiến sĩ luật:
- Tạ Minh Lý (2008), Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới” Đại học Luật Hà Nội;
- Nguyễn Việt Khoa (2019), Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt
Nam hiện nay, Học viện khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam.
Về luận văn thạc sĩ luật:
- Hoàng Thị Liên (2014), Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và
các đối tượng chính sách xã hội khác, Đại học Quốc gia Hà Nội;

2


- Trần Thị Mỹ Duyên (2019), Trợ giúp pháp lý cho bị hại là người dưới 18
tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh;
- Trần Minh Lộc (2019), Hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối

với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Về bài viết trên các tạp chí khoa học:
- Đồn Hữu Văn (2013), “Cơng tác trợ giúp pháp lý – thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 6;
- Nguyễn Thị Minh – Trịnh Thị Thanh (2014), “Vai trò của trợ giúp viên pháp
lý trong hoạt động tố tụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 6;
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), “Pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý trong tố
tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, số 11.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến các mặt, các
khía cạnh khác nhau trong lĩnh vực pháp luật về trợ giúp pháp lý từ phương diện
quy định của luật đến việc triển khai, thực hiện trong thực tiễn. Với vị trí địa lý,
nhiệm vụ đặc thù riêng, việc thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định pháp luật tố
tụng hình sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vừa mang những yếu tố chung
của cả nước vừa mang những đặc điểm riêng biệt. Tác giả nhận thấy hiện nay chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn công tác trợ giúp pháp lý tại Thành phố Hồ Chí Minh, theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Luật Trợ giúp pháp lý 2017. Vì vậy, tác giả cho
rằng, việc nghiên cứu đề tài “Trợ giúp pháp lý theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện
nay, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật về trợ
giúp pháp lý trong q trình tố tụng hình sự, từ đó phân tích thực tiễn thực hiện,
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng của hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

3


trong thời gian tới, nhằm đảm bảo thực hiện và góp phần nâng cao hơn nữa giá trị,
hiệu quả của hoạt động trợ giúp pháp lý.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
và thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về kết quả đạt được cũng như
những bất cập, hạn chế và nguyên nhân để có những giải pháp, định hướng nhằm
hồn thiện và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là:
- Làm rõ những luận cứ khoa học cơ bản về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình
sự: Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của trợ giúp pháp lý; tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý, quyền được trợ giúp pháp lý và người được trợ giúp pháp lý.
- Phân tích và đánh giá quy định của pháp luật, thực trạng của hoạt động trợ
giúp pháp lý trong tố tụng hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
Nêu lên những ưu điểm, thế mạnh cũng như những hạn chế, khó khăn, vướng mắc,
bất cập và nguyên nhân.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp
lý trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật
và thực tiễn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để đảm bảo tính khoa học, luận văn có những giới hạn về phạm vi nghiên cứu
như sau:

4



Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 về trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo và bị hại. Ngồi ra, luận văn cịn
phân tích một số quy định có liên quan của Luật Trợ giúp pháp lý 2017 và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
Về không gian: Luận văn tiến hành khảo sát, nghiên cứu thực tiễn hoạt động
trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù
đối tượng được trợ giúp pháp lý rất đa dạng nhưng tại Thành phố Hồ Chí Minh,
hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu được thực hiện đối với bị can, bị cáo và bị hại là
người dưới 18 tuổi. Do đó trong phần thực tiễn, học viên tập trung vào nhóm đối
tượng đặc biệt này để khảo sát và đánh giá.
Về thời gian: Luận văn tập trung vào giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng hệ thống các chủ trương,
đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về
chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp và các vấn đề liên quan đến quyền
con người, quyền công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát
triển bền vững đất nước.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu có tính chất điển hình trong
lĩnh vực luật học như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
thống kê, so sánh, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra những đánh
giá một cách có hệ thống về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chun sâu trên cả
hai khía cạnh lý luận, thực tiễn về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự, dựa trên
việc phân tích Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và một số quy định của Luật Trợ giúp
pháp lý 2017 có liên quan.

5



Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận và
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trợ giúp pháp lý ở cả nước nói chung và ở
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Luận văn hướng đến các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
trợ giúp pháp lý từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đưa ra những kiến
nghị, giải pháp nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả những chính sách về trợ giúp
pháp lý trong thời gian tới trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh sau khi Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực. Do đó, một số ý kiến của tác giả sẽ có thể dùng
để tham khảo, áp dụng đối với mơ hình hoạt động trợ giúp pháp lý tại một số tỉnh,
thành phố khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự
và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy định
của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của trợ giúp pháp lý trong tố tụng
hình sự
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự

Khái niệm trợ giúp pháp lý
Trên thế giới, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế
kỷ 20, xuất phát từ tiếng Anh là “legal aid”, được dịch sang tiếng Việt với nhiều
nghĩa như “tư pháp bảo trợ” [19, tr.229], “trợ cấp pháp lý” [17, tr.255], hoặc “hỗ trợ
pháp luật”,… Ở Việt Nam, thuật ngữ này được xuất hiện lần đầu vào năm 1995 khi
tiến hành xây dựng Đề án về phát triển hoạt động TGPL và được sử dụng chính thức
trong Quyết định số 734/TTG ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Về mặt ngữ
nghĩa, TGPL gồm hai từ ghép là “trợ giúp” và “pháp lý”. Theo đó, “trợ giúp” là “sự
giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn,
đang cần đến” [42, tr.753], hoặc có thể được hiểu là sự “góp sức hoặc góp tiền cho
một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền cơng” [20,
tr.985]. Trong khi đó, “pháp lý” được hiểu là “lý luận, nguyên lý về pháp luật” [23,
tr.767]. Như vậy, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được hiểu là giúp đỡ, hỗ trợ ai một
việc gì khi cần, để giúp họ giảm bớt khó khăn và trong trường hợp này là khó khăn
trong lĩnh vực pháp luật và nhu cầu về dịch vụ pháp lý.
Đến năm 2006, cùng với việc ban hành Luật Trợ giúp pháp lý, khái niệm
TGPL mới được chính thức xác định trong văn bản luật. Văn bản này đưa ra khái
niệm: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được
trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng
và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ

7


cơng lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm
pháp luật” [29].
Hiện nay, khái niệm TGPL nêu trên đã được sửa đổi bởi Điều 2 Luật Trợ giúp
pháp lý năm 2017 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) theo đó: “Trợ giúp pháp lý là

việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ
việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật” [30].
So với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thì khái niệm mới đã lược bỏ một số mục
đích của hoạt động TGPL như: nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tơn trọng và
chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, phòng ngừa,
hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Sự thay đổi này, một mặt, cho thấy hoạt
động TGPL sẽ theo hướng tập trung vào việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật; bảo vệ hiệu quả hơn quyền
và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, mặt khác, góp phần tăng cường tính khả
thi của hoạt động này trên thực tiễn.
Như vậy, thơng qua việc tìm hiểu quy định về khái niệm TGPL, có thể khẳng
định, nội hàm của TGPL bao gồm một số nội dung cơ bản như sau: TGPL (i) hướng
tới giúp đỡ, hỗ trợ miễn phí về mặt pháp lý và nâng cao nhận thức pháp luật cho
những người được TGPL. Chính vì thế, TGPL (ii) mang đặc điểm kinh tế, pháp lý
và bản chất xã hội, nhân đạo sâu sắc. Ngồi ra, vì TGPL được quy định là trách
nhiệm của Nhà nước nên đây (iii) được xem là một loại hình dịch vụ cơng do Nhà
nước chi trả.
Khái niệm trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự
TGPL là chính sách được rất nhiều nước quan tâm, coi đây là một thành tố cơ
bản của một hệ thống tư pháp hình sự hoạt động hiệu quả dựa trên nguyên tắc pháp
quyền. Ngày 20/12/2012, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bản Các
Nguyên tắc và hướng dẫn tiếp cận TGPL trong tư pháp hình sự, với 14 nguyên tắc
và 18 hướng dẫn. Theo đó, TGPL được thừa nhận là thành tố cơ bản trong hệ thống
tư pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho việc thụ hưởng các

8


quyền khác, bao gồm quyền có phiên tồ xét xử công bằng và là một sự bảo đảm

quan trọng để bảo đảm sự công bằng cơ bản và niềm tin của công chúng đối với tiến
bộ của hệ thống tư pháp hình sự.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 chỉ đưa ra khái niệm chung về TGPL chứ
khơng có khái niệm riêng cho TGPL trong lĩnh vực TTHS. Theo quy định của Liên
hợp quốc, TGPL trong lĩnh vực tư pháp hình sự “bao gờm tư vấn pháp lý, hỗ trợ và
đại diện cho người bị tạm giam, bị bắt hoặc bị tù giam, bị tình nghi hay bị cáo
buộc, hoặc bị buộc tội và cho các nạn nhân, nhân chứng trong quá trình tố tụng
hình sự, được cung cấp miễn phí cho những người khơng có đủ điều kiện hoặc khi
lợi ích của cơng lý (interests of justice) địi hỏi như vậy. Hơn nữa, “trợ giúp pháp
lý” cũng có chủ đích bao hàm các khái niệm về giáo dục pháp luật, tiếp cận thông
tin pháp lý và các dịch vụ khác được cung cấp cho các đối tượng thông qua các cơ
chế giải quyết tranh chấp và quá trình tư pháp phục hồi” [21, đoạn số 8]. Khái
niệm này đã đề cập khá chi tiết về các hình thức TGPL, đối tượng được TGPL và
mục đích của TGPL trong TTHS.
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự
TGPL trong TTHS là một trong những lĩnh vực của hoạt động TGPL nói
chung. Chính vì vậy, TGPL trong TTHS trước hết mang đầy đủ đặc điểm chung của
TGPL nhưng đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng, cụ thể:
Thứ nhất, đặc điểm về người thực hiện TGPL trong tố tụng hình sự.
Các hoạt động TTHS được tiến hành nhằm xác định sự thật khách quan của vụ
án, chứng minh tội phạm, người phạm tội và buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự.
Những hoạt động này rất dễ ảnh hưởng hoặc xâm phạm đến quyền con người,
quyền cơ bản của công dân nhưng lại được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước.
Điều này cho thấy TGPL trong TTHS, nếu so sánh với các lĩnh vực pháp luật khác
như dân sự, hành chính, là một hoạt động khó khăn và vất vả hơn, địi hỏi người
thực hiện TGPL phải có kiến thức pháp luật, kĩ năng tranh tụng và bản lĩnh vững
vàng, đặc biệt khi tham gia tố tụng để thực hiện chức năng bào chữa [15, tr.29-43].
Thứ hai, đặc điểm về hình thức thực hiện TGPL trong tố tụng hình sự.

9



TGPL trong TTHS được thực hiện dưới nhiều hình thức như tư vấn pháp lí, hỗ
trợ và đại diện cho người bị buộc tội, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị
hại và đương sự. Những hình thức này có mối quan hệ tương hỗ trong quá trình
thực hiện và tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng, trong từng hoạt động tố tụng cụ
thể sẽ quyết định hình thức TGPL nào là thích hợp nhất. Hình thức tư vấn thường
được sử dụng trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố; ngược lại hỗ trợ và đại
diện được thực hiện chủ yếu trong giai đoạn xét xử, nhất là tại phiên toà.
Thứ ba, đặc điểm về ng̀n tài chính của TGPL trong tố tụng hình sự.
TGPL trong TTHS được cung cấp miễn phí cho một số người tham gia tố tụng
với những điều kiện nhất định. Tương tự như TGPL trong những lĩnh vực khác,
người được TGPL trong TTHS không phải trả thù lao cho người thực hiện TGPL
mà trách nhiệm này thuộc về Nhà nước. Ngân sách nhà nước là nguồn kinh phí
chính để đảm bảo cho công tác TGPL bên cạnh các nguồn hợp pháp khác từ sự
đóng góp, hỗ trợ của các chủ thể trong xã hội như nguồn tài trợ từ chương trình hợp
tác quốc tế, tiền mặt và tài sản đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân… Việc
dùng ngân sách nhà nước để đảm bảo cho công tác TGPL thể hiện rõ nét trách
nhiệm của nhà nước đối với hoạt động TGPL cũng như tạo động lực và áp lực đối
với tính hiệu quả và chất lượng của công tác TGPL trên thực tiễn. Đối tượng được
trợ giúp pháp lí trong TTHS là một số người tham gia tố tụng bao gồm người bị
buộc tội, bị hại và người làm chứng. Tuy nhiên, không phải tất cả những người tham
gia tố tụng với những tư cách này đều mặc nhiên được TGPL mà họ phải thoả mãn
một số điều kiện luật định, thơng thường là người có khó khăn về tài chính, người
yếu thế trong xã hội (trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi,…).
Thứ tư, đặc điểm về mục đích của TGPL trong tố tụng hình sự.
TGPL trong TTHS bao hàm nhiều mục đích. Ngồi mục đích chính là hỗ trợ,
giúp đỡ cho người tham gia tố tụng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ, TGPL theo quan điểm của Liên hợp quốc còn hướng đến các mục tiêu như giáo
dục pháp luật, tiếp cận thơng tin pháp lí và q trình tư pháp phục hồi. Thông qua

hoạt động tư vấn, hỗ trợ người tham gia tố tụng, người thực hiện TGPL đồng thời

10


thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, TGPL cịn đóng
vai trị quan trọng tạo điều kiện cho việc xử lí chuyển hướng và sử dụng các biện
pháp, hình phạt mang tính cộng đồng; hạn chế việc tạm giữ, tạm giam và hình phạt
tù; hợp lí hố chính sách tư pháp hình sự và bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của Nhà nước [21, đoạn số 4].
1.1.3. Vai trò của trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự
Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, TGPL đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, khẳng định được vị trí và vai trị của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ
về mặt pháp luật cho những người nghèo và nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
TGPL được xem là chỗ dựa vững vàng về mặt pháp lý, giúp đỡ, hỗ trợ và bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho họ trong quá trình TTHS cũng như củng cố thêm niềm tin
của họ vào các cơ quan chức năng, niềm tin vào cơng lý và sự hiệu quả của nền tư
pháp hình sự Việt Nam.
BLTTHS năm 2015 là văn bản luật quan trọng, liên quan nhiều đến hoạt động
TGPL, đặc biệt lần đầu tiên quy định TGVPL tham gia TTHS với tư cách là người
bào chữa; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự. Ngày 20/6/2017, Luật trợ giúp pháp lý mới đã
được Quốc hội khóa XIV ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018
trùng với thời điểm có hiệu lực thi hành các đạo luật quan trọng khác về hình sự như
BLHS, BLTTH, qua đó đánh dấu mốc quan trọng trong việc hồn thiện cơng tác
TGPL trên thực tiễn, củng cố thêm vai trị quan trọng khơng thể thiếu của TGPL
trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS. Vai trò
của TGPL trong TTHS thể hiện ở những khía cạnh nổi bật như sau:
Thứ nhất, TGPL trong TTHS là một thành tố không thể thiếu trong việc xây
dựng thủ tục TTHS công bằng, nhân đạo và hiệu quả. Một trong những nguyên tắc

cơ bản của luật TTHS Việt Nam là nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp
luật. TGPL góp phần bảo đảm thực hiện hiệu quả và nghiêm túc nguyên tắc trên cho
các đối tượng được TGPL khi tham gia quá trình TTHS. Để xây dựng được thủ tục
TTHS công bằng, một trong những yêu cầu đặt ra là những người tham gia tố tụng

11


với cùng một tư cách phải được hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ như nhau.
Trên thực tế, vì nhiều lý do như khó khăn về tài chính, đặc tính dễ bị tổn thương, sự
khiếm khuyết về thể chất và nhận thức nên có những người khơng thể tự mình thực
hiện các quyền tố tụng hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Đối với những người này, nhà nước có trách nhiệm cung cấp miễn phí sự
TGPL cho họ nhằm đảm bảo sự cơng bằng, đồng thời thể hiện tính nhân văn của
pháp luật TTHS. Việc giúp cho người nghèo, người có hồn cảnh đặc biệt về mặt
pháp luật để họ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, để ngang bằng với các cơng
dân khác thể hiện rõ tính nhân văn của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói
chung và của pháp luật TTHS nói riêng. Bên cạnh đó, TGPL cũng có những đóng
góp tích cực vào tính hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự bởi vì giúp giảm thời
hạn tạm giữ, tạm giam những người bị tình nghi phạm tội, giảm số lượng phạm
nhân, hạn chế việc kết án oan sai, sự quá tải của toà án và giảm tình trạng tái phạm,
tái trở thành nạn nhân [21, đoạn số 3].
Thứ hai, TGPL trong TTHS góp phần đảm bảo việc thực hiện các quyền tố
tụng khác, đặc biệt là quyền được xét xử công bằng. Trong TTHS, người tham gia
tố tụng được pháp luật ghi nhận cho rất nhiều quyền như quyền bào chữa, quyền
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quyền tranh luận… Đây là những quyền
con người đã được nâng lên thành các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS. Trong số
các quyền trên thì quyền được xét xử cơng bằng là một quyền rất quan trọng, được
ghi nhận trong pháp luật nhân quyền quốc tế, cụ thể tại Điều 10 Tuyên ngôn thế giới
về quyền con người năm 1948 đã ghi nhận: “Ai cũng có quyền, trên căn bản hồn

tồn bình đẳng, được một tồ án độc lập và vơ tư xét xử một cách công khai và
công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghĩa vụ của mình, hay về những tội
trạng hình sự mà mình bị cáo buộc” và khoản 1 Điều 14 Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 ghi nhận: “Mọi người đều bình đẳng trước các
tồ án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử cơng bằng và cơng
khai bởi một tồ án có thẩm quyền, độc lập, khơng thiên vị và được lập ra trên cơ
sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ

12


án hình sự”; “Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự
trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thơng báo về quyền này nếu chưa
có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường
hợp lợi ích của cơng lý địi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu khơng
có đủ điều kiện trả”. Việc Việt Nam là thành viên của nhiều Công ước quốc tế về
quyền con người đặt ra yêu cầu Nhà nước phải thể hiện vai trị của mình trong bảo
đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân cho người nghèo
và nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội để họ có điều kiện bình đẳng với các
chủ thể khác khi tham gia TTHS. Để thực hiện tốt quyền bình đẳng trước tịa án và
quyền được xét xử cơng bằng, địi hỏi các bên tham gia tranh tụng, đặc biệt là bên bị
buộc tội, phải được tạo những điều kiện và cơ hội như nhau trong việc thu thập
chứng cứ và sử dụng chứng cứ để tranh tụng tại phiên toà. Với sự tư vấn, hỗ trợ của
người thực hiện TGPL, những hoạt động này sẽ được sử dụng triệt để và có hiệu
quả hơn.
Thứ ba, TGPL trong TTHS góp phần củng cố niềm tin cho người dân đối với
pháp luật, cơng lí. Qua q trình thực hiện nghiệp vụ, hoạt động TGPL góp phần
thực thi cơng lí, giúp toà án đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội và đúng
pháp luật; hạn chế tình trạng oan sai [36]. Trên cơ sở đó giúp người dân, nhất là
những người được TGPL nhận thức được tính nhân đạo của pháp luật nói chung và

pháp luật TTHS nói riêng; bản chất, vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm thực
hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực TTHS.
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung và hình thức của trợ giúp pháp lý trong
tố tụng hình sự
1.2.1. Chủ thể của trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự
Việc xác định chủ thể hoạt động TGPL liên quan đến sự thừa nhận mô hình
TGPL được áp dụng ở các quốc gia. Nhìn chung, trên thế giới hiện nay có 3 mơ
hình TGPL chủ yếu, đó là: mơ hình luật sư cơng (mơ hình do Nhà nước thực hiện
hồn tồn), mơ hình TGPL do luật sư và tổ chức xã hội thực hiện hoàn tồn, mơ
hình hỗn hợp (TGPL do Nhà nước thành lập tổ chức thực hiện và thu hút luật sư,

13


các tổ chức xã hội tham gia). Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về
TGPL, đặc biệt là ưu, nhược điểm của từng mơ hình, ngay từ ngày đầu thành lập,
Việt Nam đã lựa chọn mơ hình hỗn hợp. Mơ hình này thể hiện rõ trách nhiệm của
Nhà nước trong việc chủ động nguồn lực thực hiện TGPL, đồng thời huy động sự
tham gia tự nguyện của các tổ chức xã hội. Áp dụng mơ hình này Nhà nước có sự
chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân, tránh bị động phụ thuộc
vào nguồn lực ngoài Nhà nước. Hơn nữa, sự tồn tại song song hai chủ thể thực hiện
TGPL sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong việc nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu TGPL
của người dân cũng như chất lượng vụ việc TGPL.
Tương ứng với mơ hình hỗn hợp, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định
những chủ thể sau có quyền thực hiện TGPL: TGVPL, luật sư (thực hiện TGPL theo
hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước hoặc thực hiện TGPL theo phân công của
tổ chức tham gia TGPL), tư vấn viên pháp luật (làm việc tại tổ chức tham gia
TGPL) và cộng tác viên TGPL [30, tr.15]. Tuy nhiên, trong TTHS, chủ thể có quyền
thực hiện TGPL chỉ bao gồm TGVPL và luật sư. Điều này được quy định cụ thể tại
khoản 1 Điều 31 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; điểm d khoản 2 Điều 72, điểm b

khoản 2 Điều 76, điểm d khoản 2 Điều 83 và điểm d khoản 2 Điều 84 của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015. Quy định trên có thể xuất phát từ lý do: để tham gia hoạt
động TTHS một cách hiệu quả và phát huy tốt chức năng, vai trị của mình, người
thực hiện TGPL ngồi kiến thức pháp luật cịn phải có kỹ năng tranh tụng và bản
lĩnh vững vàng, đặc biệt trong quá trình tranh luận tại phiên tòa.
TGVPL được quy định cụ thể tại Điều 19 Luật TGPL năm 2017 như sau:
“Công dân Việt Nam là viên chức của Trung tâm TGPL nhà nước có đủ tiêu
chuẩn sau đây có thể trở thành TGVPL:
1. Có phẩm chất đạo đức tốt;
2. Có trình độ cử nhân luật trở lên;
3. Đã được đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý;
4. Có sức khỏe bảo đảm thực hiện trợ giúp pháp lý;
5. Không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật”.

14


Từ quy định trên có thể hiểu TGVPL là viên chức của Trung tâm TGPL nhà
nước có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 19 Luật TGPL năm 2017 được Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm và cấp thẻ TGVPL trên cơ sở đề nghị của
Giám đốc Sở Tư pháp [30, tr.18]. Ngoài những tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức,
trình độ chun mơn, tình trạng sức khỏe, Luật TGPL năm 2017 đã thay đổi tiêu
chuẩn “có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL” và “có thời gian làm công tác
pháp luật từ 02 năm trở lên” [29, tr.16] bằng tiêu chuẩn “đã được đào tạo nghề luật
sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư
hoặc tập sự TGPL”; đồng thời bổ sung tiêu chuẩn “không đang trong thời gian bị xử
lý kỷ luật” [30, tr.17]. Những sửa đổi, bổ sung này nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn, kiến thức pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ TGVPL; qua đó góp
phần thực hiện mục tiêu tổng quát của Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015

- 2025 là “sau năm 2025 người thực hiện TGPL là luật sư hành nghề, bảo đảm cho
các đối tượng thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, chất
lượng tương đương với dịch vụ mà luật sư cung cấp trên thị trường” [37].
Trong TTHS, hoạt động của TGVPL mang tính đặc thù bởi đây là chủ thể đại
diện để thực thi trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước đối
với nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. TGVPL đóng vai trị là người hướng dẫn
pháp luật, bảo đảm cho người được TGPL đều được tiếp cận, sử dụng pháp luật
miễn phí trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện để
công lý và công bằng xã hội được thực thi, thúc đẩy công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho người dân biết quyền và nghĩa vụ của họ theo luật TGPL… bảo đảm
quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật, mà trước hết là quyền bào chữa
và nhờ người khác bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thơng qua
hoạt động TGPL. Đồng thời, hoạt động tham gia tố tụng của TGVPL còn góp phần
xác định sự thật khách quan của vụ việc được nhanh chóng, chính xác, tránh làm
oan người vơ tội, để lọt tội phạm, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết công
việc công bằng và đúng pháp luật; góp phần tích cực thực hiện cải cách tư pháp, mở
rộng điều kiện để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trước toà, bảo đảm cho

15


người nghèo, đối tượng chính sách, người già cơ đơn, trẻ em không nơi nương tựa,
dân tộc thiểu số,… không có điều kiện thuê luật sư cũng được TGVPL tham gia bào
chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp miễn phí cho họ trong TTHS.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật
luật sư năm 2006, thực hiện dịch vụ pháp lí theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức [27]. Luật sư thực hiện TGPL dưới hai hình thức: theo hợp đồng với Trung
tâm TGPL nhà nước; theo sự phân công của tổ chức tham gia TGPL. Luật sư thực
hiện hợp đồng TGPL với Trung tâm là việc cá nhân luật sư tham gia với tư cách luật
sư độc lập, theo hợp đồng dân sự với Trung tâm. Trung tâm căn cứ vào nhu cầu

TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL tại địa phương để lựa chọn, ký kết hợp động thực
hiện TGPL với luật sư có đủ điều kiện. Luật sư thực hiện TGPL theo sự phân công
của tổ chức tham gia TGPL cũng phải tuân thủ những quy định đối với người thực
hiện TGPL. Có thể nói đội ngũ luật sư đã tham gia vào hoạt động TGPL ngay từ
giai đoạn đầu tiên của việc hình thành và trong suốt q trình phát triển cơng tác
này. Nhất là khi Luật TGPL năm 2006 ra đời đã tạo cơ chế pháp lý cho việc tham
gia thực hiện TGPL của luật sư. Thực tiễn cho thấy, trong công tác TGPL, luật sư là
lực lượng đóng vai trị rất quan trọng, thực hiện phần lớn các vụ việc tham gia tố
tụng. Theo số liệu thống kê, từ khi triển khai “Chiến lược phát triển TGPL ở Việt
Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” ban hành kèm theo Quyết định số
678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ thì đến năm 2013, trong
tổng số vụ việc tham gia tố tụng có 15.954 vụ việc do luật sư cộng tác viên thực
hiện (chiếm 65,6%). Việc tham gia của luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư
trong hoạt động TGPL đã thể hiện được trách nhiệm xã hội của mỗi luật sư trong
hoạt động hành nghề, góp phần mang lại những giá trị xã hội cho công tác mang
đậm tính chất nhân văn này. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý TGPL là một trong
những nghĩa vụ của luật sư. Theo quy định, luật sư phải thực hiện nghĩa vụ này ít
nhất 01 ngày làm việc (08 giờ) trong 01 năm; nếu không thực hiện hoặc thực hiện
không đủ thời gian bắt buộc mà có lí do chính đáng thì sẽ được thay thế nghĩa vụ
bằng việc nộp vào “Quỹ trợ giúp pháp lí” của đồn luật sư nơi mình là thành viên

16


một khoản tiền tương ứng khoản thù lao một ngày làm việc của luật sư/năm theo
quy định của Chính phủ.
Trong TTHS, TGVPL, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa
hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Với tư cách là
người bào chữa, họ sẽ bảo vệ người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo); là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, họ sẽ bảo vệ bị hại, đương

sự trong vụ án hình sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án), người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
1.2.2. Đối tượng của trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự
Quyền được TGPL là một quyền cơ bản trong hệ thống quyền con người nói
chung và là một quyền cụ thể của quyền tiếp cận tư pháp. Về bản chất, đó là những
u cầu chính đáng của cá nhân hoặc nhóm người nhất định về việc được tiếp cận
hệ thống dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí dựa trên quy định của pháp luật. Để hoạt
động TGPL mang lại tác động xã hội quan trọng và hiệu quả, cần xác định đúng đối
tượng thụ hưởng quyền TGPL và xây dựng được cơ chế thực thi, các kế hoạch,
chương trình hành động dựa trên quyền và lợi ích của đối tượng thụ hưởng, qua đó
làm phương tiện và mục đích cho tồn bộ hoạt động TGPL.
Đối tượng được TGPL nhìn chung được xác định dựa trên tính chất “yếu thế”,
“dễ bị tổn thương”, “thiếu hụt về tài chính” hoặc do tình trạng nhân thân, tình trạng
pháp lý, tính chất vụ việc. Việc xác định đối tượng TGPL là yêu cầu quan trọng để
làm căn cứ chuẩn bị và dự báo khả năng cung ứng, giúp người thực hiện TGPL có
cơ sở xem xét lựa chọn phương thức thực hiện TGPL phù hợp (tư vấn pháp luật, đại
diện, bào chữa).
Theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý 2017, đối tượng được TGPL
bao gồm:
- Người có công với cách mạng.
- Người thuộc hộ nghèo.
- Trẻ em.

17


- Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn.
- Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
- Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo.

- Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: Cha
đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có cơng ni dưỡng khi liệt sĩ còn
nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; Người cao tuổi; Người khuyết tật; Người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; Nạn nhân trong vụ việc bạo
lực gia đình; Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng,
chống mua bán người; Người nhiễm HIV.
BLTTHS 2015 khơng có quy định riêng về đối tượng được TGPL trong TTHS
mà đồng nhất với quy định của Luật TGPL, điều này được quy định cụ thể tại khoản
1 Điều 71 “…Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được TGPL
theo quy định của Luật TGPL thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được TGPL, nếu họ đề nghị được TGPL thì
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thơng báo cho Trung tâm TGPL
nhà nước”; Điều 72 quy định người bào chữa cho người bị buộc tội có thể là
TGVPL trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được TGPL; điểm b
khoản 2 Điều 76 về chỉ định người bào chữa có quy định nếu người bị buộc tội
thuộc diện được bào chữa chỉ định thì Trung tâm TGPL nhà nước cử TGVPL, luật
sư bào chữa cho người thuộc diện được TGPL. Điều 83 ghi nhận TGVPL có thẩm
quyền tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Điều 84 cho phép TGVPL tham gia tố
tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự.
Từ những quy định trên của BLTTHS 2015 có thể thấy, đối tượng được TGPL
trong TTHS bao gồm người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo); bị hại, đương sự trong vụ án hình sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án), người bị tố giác, người bị kiến nghị

18


khởi tố khi họ thuộc diện được TGPL theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp
lý 2017.

1.2.3. Nội dung của trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự
Nội dung của TGPL là trọng tâm mà các bên tham gia quan hệ xã hội hướng
tới trong hành động thực tiễn nhằm đạt được mục đích của TGPL. Việc xác định nội
dung thuộc các lĩnh vực TGPL liên quan đến quan niệm về nội hàm của quyền được
TGPL, về phạm vi của lĩnh vực pháp luật cũng như thực trạng của nguồn lực TGPL
và nhu cầu của người được TGPL.
So với các hình thức TGPL khác như tư vấn pháp luật và đại diện ngồi tố
tụng thì hình thức tham gia tố tụng thực tế chiếm tỉ lệ thấp. Tuy nhiên, đây là hình
thức TGPL chủ yếu và có vai trò quyết định đối với việc bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp cho các đối tượng được TGPL trong quá trình TTHS. Về mặt pháp lý, khi
tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người được TGPL, TGVPL và luật sư thực hiện TGPL được BLTTHS
2015 quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ cũng như được bảo đảm thực hiện vai trò
kiểm tra, giám sát tính hợp pháp của các thủ tục TTHS được thực hiện bởi cơ quan
có thẩm quyền. Trên cơ sở đó, để hiểu rõ nội dung TGPL trong TTHS, luận văn sẽ
phân tích từng giai đoạn của q trình TTHS để có cái nhìn khái qt và hệ thống
nhất.
Trong giai đoạn khởi tố VAHS
Về mặt lý luận, giai đoạn khởi tố VAHS bắt đầu từ khi các cơ quan có thẩm
quyền trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc tiếp nhận các nguồn tin về tội
phạm như tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố,… Các hoạt động TGPL trong giai đoạn
này không được trực tiếp quy định trong Luật TGPL nhưng gián tiếp được thể hiện
thông qua các quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố quy định tại Điều 83 BLTTHS năm
2015. Có thể phân loại hoạt động của người TGPL với tư cách tham gia tố tụng này
thành các nhóm sau:

19



×