VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------------------
LÝ ANH QUY
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----------------------
LÝ ANH QUY
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Hữu Chí. Các số
liệu trích dẫn nêu trong luận văn có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; Các kết quả trình
bày trong luận văn đảm bảo tính tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học theo quy định của Học viện và đã thực hiện thanh tốn đầy đủ tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Học viện Khoa học xã hội.
Nay tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Học viện Khoa học xã hội
xem xét để tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lý Anh Quy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ........................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp ..........................................7
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ........................................ 12
1.3. Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp một số nước trên thế giới và gợi mở cho
Việt Nam.......................................................................................................... 25
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................... 32
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp .................. 32
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí
Minh ................................................................................................................. 47
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............................. 61
3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ....................................................................... 61
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp....... 62
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm
thất nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. .......................................... 74
KẾT LUẬN......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 81
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 86
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASXH
An sinh xã hội
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp
Bộ LĐ-TB-XH
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
DN
Doanh nghiệp
HĐLĐ
Hợp đồng lao động
HĐLV
Hợp đồng làm việc
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
NLĐ
Người lao động
LĐ
Lao động
NTN
Người thất nghiệp
PLLĐ
Pháp luật lao động
Sở LĐ-TB-XH
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
Phòng LĐ-TB-XH
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội
UBND
Ủy ban nhân dân
TCTN
Trợ cấp thất nghiệp
TTDVVL
Trung tâm Dịch vụ Việc làm
Tp.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
TCLĐQT
Tổ chức Lao động Quốc tế
ILO
International Labour Organization
VN
Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kết quả thực hiện cụ thể qua từng năm 2015 - 2019: ................ 50
Bảng 2.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ qua từng năm: .............................. 52
Bảng 2.3. Kết quả cụ thể đào tạo nghề qua từng năm: ............................... 53
Bảng 2.4. Số lượng hồ sơ tiếp nhận qua từng năm: .................................... 55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn ba mươi năm đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, ASXH
được nâng cao và đang dần hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Do đó, tình
hình biến động cũng như tình hình khó khăn về kinh tế của thế giới ít nhiều cũng ảnh
hưởng đến tình hình kinh tế trong nước. Đại dịch COVID-19 xảy ra trên thế giới đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế trong nước và dẫn đến tình trạng thất
nghiệp gia tăng; Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh khách quan và
tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp trở thành một chính
sách cần thiết trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp lần đầu tiên ở VN có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2009, được quy định trong Luật BHXH năm 2006; tiếp theo Luật việc làm
năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 trong đó có quy định về pháp
luật BHTN nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ khi bị mất việc làm.
Thành phố Sài Gịn được hình thành từ năm 1623, nhưng đến năm 1698, Chúa
Nguyễn mới thành lập thành phố Sài Gòn. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến
Nhà rồng, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi
đất nước thống nhất vào ngày 30/4/1975, thì Sài gịn được đổi tên là “thành phố Hồ
Chí Minh” từ ngày 02-7-1976 và từ đó đến nay tp.HCM là đơ thị lớn thứ hai của
VN về diện tích (chỉ sau thủ đơ Hà Nội) và đông nhất về dân số, đồng thời cũng là
một trong các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục quan trọng nhất
của VN; Hiện nay, Tp.HCM là thành phố trực thuộc trung ương được xếp loại đô thị
đặc biệt của VN, cùng với thủ đô Hà Nội. Tp.HCM nằm trong vùng chuyển tiếp
giữa đông nam bộ và tây nam bộ; phía bắc giáp tỉnh Bình Dương, tây bắc giáp
tỉnh Tây Ninh, đông bắc và đông giáp tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu, đông nam
giáp Biển Đông và tỉnh Tiền Giang, nam và tây giáp tỉnh Long An; Tp.HCM cách Hà
Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km theo
1
đường chim bay. Tp.HCM hiện nay có 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với
322 phường, xã và thị trấn, tổng diện tích 2.095,06 km². Tp.HCM đang là một đơ
thị lớn có dân số tăng rất nhanh, chỉ trong chưa đến 2 thập kỷ, dân số TP.HCM đã
tăng gấp đôi, từ 4 triệu người năm 1990 lên 8 triệu người năm 2016. Cứ 5 năm, dân
số thành phố lại tăng hơn 1 triệu người.
Theo kết quả điều tra thỉ tổng dân số của Tp.HCM vào thời điểm 0 giờ ngày
01/4/2019 là 8.993.082 người, trong đó dân số nam là 4.381.242 người (chiếm
48,7%) và dân số nữ là 4.611.840 người (chiếm 51,3%); chiếm tỷ trọng 9,35% dân
số cả nước và 50,44% dân số vùng Đông Nam bộ. Dân số thành thị là 7.125.497
người (chiếm 79,23%), dân số nông thôn là 1.867.585 người (chiếm 20,77%). Kể từ
năm 2009 đến nay, tốc độ tăng dân số bình quân năm khu vực nông thôn là
4,47%/năm so với khu vực thành thị là 1,77%/năm cho thấy tốc độ đơ thị hóa diễn
ra mạnh mẽ đặc biệt là khu vực nông thôn. Tp.HCM là thành phố đông dân nhất
nước, tăng 1.800.000 người so với năm 2009, với tỷ lệ tăng bình quân 2,28%.
Nhưng, theo thống kê cả các cư dân biến động cơ học thì dân số thực tế của
tp.HCM năm 2018 khoảng 14.000.000 người. Giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong
nền kinh tế nước ta, năm 2018 Tp.HCM đóng góp khoảng 1/3 giá trị sản xuất công
nghiệp, 1/5 kim ngạch xuất khẩu, 27,8% tổng thu ngân sách quốc gia, Không chỉ dẫn
đầu cả nước về phát triển kinh tế, Tp.HCM còn là nơi đổi mới, đột phá về thể chế và
tiên phong trong rất nhiều mơ hình phát triển, thể hiện rõ nét sự năng động, sáng tạo.
Với đặc điểm địa lý, kinh tế, dân số đặc thù như thế; Việc thực hiện pháp luật
BHTN trên địa bàn Tp.HCM bước đầu đã có những thành cơng nhất định.
Do pháp luật về BHTN mới được áp dụng hơn 11 năm, pháp luật VN hiện
hành về BHTN còn tương đối bất cập, hạn chế nên trong quá trình áp dụng và thực
hiện tại tp.HCM vẫn cịn nhiều vướng mắc. Việc tìm ra các biện pháp thích hợp nhằm
khắc phục tình trạng trên là điều hết sức cần thiết để BHTN có thể phát huy được vai
trị và ý nghĩa vốn có trong thực tiễn. Chính vì vậy, để góp phần hồn thiện pháp luật
về BHTN và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế và vì học viên đã có
trải nghiệm thực tế quá trình thụ hưởng TCTN tại TTDVVL Tp.HCM nên quyết định
2
lựa chọn đề tài “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình, với mong muốn tìm ra những điểm
tồn tại, vướng mắc trong quy định của chính sách, pháp luật về BHTN, những khó
khăn trong thực tiễn áp dụng, từ đó làm cơ sở để tìm ra những giải pháp nhằm bảo
đảm quyền được hưởng BHTN. Từ đó, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về chuyên đề này..
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là một bộ phận cấu thành của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật VN về
ASXH, quá trình thực thi BHTN đã phát huy vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Vì thế, thời gian qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực
này, trong đó có những đề tài như:
- Đoàn Phương Thảo (2015), “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp qua thực tiễn
tại tỉnh Quảng Ninh”, luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
- Dương Thị Nguyệt Khuê (2017), “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật VN
hiện nay”, luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
Ngồi ra, luận văn cịn tham khảo một số bài viết trên các tạp chí:
“Nỗ lực phấn đấu thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội” đăng trên tạp
chí Cộng Sản số 789, ngày 12/7/2008 - Bà Nguyễn Thị Kim Ngân - UVTW Đảng.
“Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng
phát triển” đăng trên tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội số 26 tháng 4 năm
2010, của Ông Nguyễn Hữu Dũng - Trợ lý Bộ Trưởng Bộ LĐTB-XH.
“Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
nỗ lực bảo đảm an sinh xã hội giai đoạn hiện nay” - Bà Nguyễn Thị Kim Ngân UVTW Đảng - đăng trên tạp chí Cộng Sản điện tử ngày 27 tháng 5 năm 2011.
Ngồi ra cịn nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến chính sách BHTN trên
cả nước. Hầu hết các cơng trình nghiên cứu đều đề cập tiếp cận lĩnh vực dưới nhiều
góc độ phát triển khác nhau ở tầm vĩ mô, được xem xét điều kiện thực tế ở các địa
phương khác nhau và những thời điểm khác nhau. Đây là nguồn tài liệu tham khảo
hữu ích để học viên hồn thành luận văn của mình.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu phân tích, làm rõ thêm về cơ sở lý luận và chính
sách, pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về BHTN và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BHTN, góp phần
hồn thiện chính sách pháp luật về BHTN trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở lý luận pháp luật về BHTN tại VN hiện nay và những chính
sách, quy định của pháp luật về BHTN trong hệ thống ASXH của nước ta hiện nay
- Phân tích các vấn đề liên quan đến thực trạng và đánh giá thực trạng của hệ
thống các văn bản pháp luật về BHTN hiện hành.
- Chỉ rõ những thành tựu đạt được cũng như chỉ ra những khó khăn, bất cập
trong việc thi hành pháp luật BHTN trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về BHTN tại Tp.HCM.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hồn thiện hệ thống các văn bản
pháp luật về BHTN hiện nay nói chung và nâng cao hiệu quả thực thi tại địa phương
nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận, nội dung của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số
quốc gia liên quan đến BHTN, quy định PLLĐ tại VN về BHTN ở VN từ năm 2009
đến nay.
- Thực tiễn áp dụng của luận án là những vấn đề thực tiễn của pháp luật quốc tế
và pháp luật của một số quốc gia liên quan đến BHTN, thực trạng quy định pháp luật
và thực trạng thực thi PLLĐ tại VN về thực hiện pháp luật về BHTN ở VN hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung, vai trị,
mục đích của pháp luật về BHTN ở VN hiện nay; Các yếu tố tác động đến pháp luật
BHTN; Những ảnh hưởng của pháp luật về BHTN trên thế giới có tác động đến việc
4
xây dựng pháp luật BHTN tại VN; Phân tích các quy định pháp luật về BHTN của
pháp luật VN.
+ Về mặt thời gian nghiên cứu: Pháp luật về BHTN, qua thực tiễn tại thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn từ 2015 - 2020.
+ Về nội dung nghiên cứu: Luận văn không nghiên cứu về giải quyết tranh chấp
cũng như xử lý vi phạm pháp luật BHTN về hành chính và hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu cùng với việc vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, cũng như quan điểm của Đảng cộng sản VN về nhà nước và pháp luật nói chung
và về pháp luật BHTN nói riêng. Nội dung nghiên cứu bám sát đường lối, chủ trương
của Đảng về vấn đề ASXH, với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa gắn với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong đó có quyền được BHTN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tại chương 1 luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận: tổng hợp,
phân tích lý thuyết, phân tích quy phạm, so sánh, đối chiếu thơng qua việc hệ thống
hóa văn bản quy phạm pháp luật là Luật, Nghị định, Thông tư và các văn bản, quy
định khác có liên quan.
Tại chương 2 luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tổng hợp,
thống kê, phương pháp so sánh, phân tích từ các Báo cáo tổng kết của các cơ quan
hành chính nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh, số liệu thống kê, kết hợp với nguồn
thông tin từ cơ quan thông tin đại chúng, nguồn thông tin hợp pháp và tin cậy khác để
làm rõ thực trạng thi hành pháp luật về BHTN, nhằm đánh giá đúng thực trạng áp
dụng pháp luật BHTN tại địa phương.
Chương 3 luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, đánh
giá nhằm đề xuất các giải pháp mang tính khả thi đối với các đề xuất, giải pháp trình
bày trong luận văn để hồn thiện pháp luật về BHTN để cơng tác quản lý BHTN
được triển khai thi hành thuận lợi, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của VN.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Nghiên cứu có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn quy định pháp luật BHTN
hiện hành để đánh giá vướng mắc, hạn chế tác động và thực tiễn thi hành của chế độ
BHTN, từ đó có kiến nghị sửa đổi, bổ sung khắc phục bất cập nhằm hoàn thiện pháp
luật BHTN, phát huy tối đa vai trò và chức năng của BHTN đối với đời sống NLĐ
nói riêng và đối với xã hội nói chung
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những phân tích, kiến nghị của luận văn có giá trị tham
khảo đối với cơ quan quản lý nhà nước về BHTN nhằm hoàn thiện pháp luật nói
chung và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật tại địa phương đặc thù nói riêng. Bản
Luận văn cũng có thể là tài liệu học tập, tham khảo cho sinh viên và những người
quan tâm đến pháp luật hiện hành về BHTN.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp và sự điều chỉnh của
pháp luật.
Chương 2. Thực trạng pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thi hành tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, BHTN được hiểu là giải pháp nhằm khắc phục
hậu quả của tình trạng thất nghiệp, giúp NTN tạm thời đảm bảo được cuộc sống và
tìm kiếm việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung. Quỹ
này được hình thành qua sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ có sự hỗ trợ của nhà
nước, được sử dụng để trả trợ cấp thất nghiệp, cũng như tiến hành các biện pháp
nhằm nhanh chóng giúp NTN có được việc làm mới. Dưới góc độ pháp lý, BHTN là
tổng thể các quy phạm pháp luật quy định việc đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi
trả cho TCTN để bù đắp thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm và thực hiện các biện
pháp đưa NTN trở lại làm việc. BHTN vì thế thường được hiểu là một chế độ trong
hệ thống các chế độ BHXH, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho NLĐ bị mất thu nhập
do thất nghiệp. BHTN là một phạm trù kinh tế - xã hội gắn với sự ra đời của sản xuất
hàng hố và phân cơng LĐ xã hội, giúp cho NLĐ giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc
sống cho bản thân và gia đình khi bị mất việc làm, tái hoà nhập thị trường LĐ.
Theo ILO Convention (1952) và ILO Convention (1988): BHTN là một hình
thức BHXH nhằm đảm bảo chi trả một khoản trợ cấp tối thiểu trong một thời gian
giới hạn cho những cá nhân bị thất nghiệp mà không do lỗi của họ, gây ra việc mất
thu nhập mà họ và gia đình họ dựa vào đó. BHTN thường chỉ đảm bảo cho những
NLĐ có thu nhập định kỳ, bởi vì theo lý thuyết những đối tượng này dễ gặp phải rủi
ro thất nghiệp khơng tự nguyện.
Xuất phát từ những ý kiến trên, có thể xem khái niệm BHTN như sau: BHTN
là quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung-quỹ BHTN-được hình thành do
sự đóng góp của các bên tham gia (NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước) nhằm
đảm bảo ổn định đời sống cho NLĐ và gia đình khi gặp rủi ro về việc làm. Mặt khác,
7
TCTN của Nhà nước và trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm khác với việc hình
thành quỹ BHTN là một q trình thường xun, liên tục, và có sự tham gia đóng góp
của cả NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước. BHTN không những là sự đóng
góp chung rủi ro mất việc làm cùng tham gia đóng góp vào quỹ và từ quỹ đó hỗ trợ
tài chính cho một bộ phận nhỏ những người khơng may rơi vào tình trạng thất
nghiệp; mà cịn là sự góp chung rủi ro giữa các DN với nhau[18].
Về mặt kinh tế, các đối tượng tham gia BHTN đã huy động và hình thành một
quỹ tiền tệ chung nhằm hỗ trợ cho những NLĐ bị mất việc làm, giúp đỡ họ giải quyết
khó khăn tạm thời để sớm tìm được việc làm mới từ đó góp phần gia tăng năng suất
LĐ, thúc đẩy phát triển kinh tế, giảm các nguồn chi từ ngân sách nhà nước hoặc các
quỹ tiền tệ khác đối với các chương trình hỗ trợ liên quan đến NTN.
Về mặt pháp lý, BHTN là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
phát sinh giữa các bên tham gia vào quá trình thực hiện các chế độ về BHTN.
Về mặt xã hội, BHTN giúp hạn chế những rủi ro có thể mang đến cho con
người từ việc mất việc làm và thu nhập. Nhà nước đã sử dụng công cụ này như là một
trong những biện pháp đảm bảo ASXH, góp phần đảm bảo trật tự, an ninh xã hội để
giải quyết những bất ổn về tâm lý của các NTN. Những người tham gia BHTN họ
cũng ổn định tinh thần trong quá trình làm việc, kích thích tăng năng suất LĐ, thu hẹp
khoảng cách mâu thuẫn về quyền lợi giữa NLĐ và NSDLĐ.
Vậy, BHTN là một trong những chế độ thuộc hệ thống các chế độ về ASXH
của một quốc gia, được hình thành nhằm khắc phục những biến cố xảy ra đối với việc
làm của NLĐ bằng các biện pháp trợ cấp kinh tế và hỗ trợ tìm kiếm việc làm mới.
1.1.2. Tác động của thất nghiệp đến kinh tế - xã hội
* Tác động đến sự tăng trưởng kinh tế
Thất nghiệp xảy ra đồng nghĩa rằng lực lượng LĐ đang bị lãng phí, họ không
được sử dụng đúng cách. Sức LĐ bị lãng phí thì nền kinh tế làm sao có thể phát triển?
Tình trạng thất nghiệp tăng cao cũng là dấu hiệu của sự suy thối kinh tế. Nó là
ngun nhân chính gây ra tình trạng lạm phát.
8
Đối tượng phải chịu ảnh hướng trực tiếp và cũng là ảnh hưởng nặng nề nhất của
tình trạng thất nghiệp chính là NLĐ. Họ khơng có việc làm đồng nghĩa họ khơng có
thu nhập. Khơng có tiền trong tay sẽ dẫn đến sự đói kém, gây sức khỏe giảm sút. Một
người trong gia đình khơng có thu nhập sẽ tạo ra gánh nặng cho những người cịn lại.
Cha mẹ khơng có cơng ăn việc làm thì con cái sẽ khơng có cái ăn, khơng được đi học
và cũng chẳng ai còn lo cho sức khỏe của chúng.
* Gây nguy hại đến trật tự xã hội
Thất nghiệp là một trong nhiều ngun nhân dẫn đến xã hội bất ổn. NLĐ khơng
có việc làm sẽ sinh ra tâm lý bất mãn, họ có thể tụ tập tiến hành biểu tình khiến sự
n bình trật tự xã hội thường ngày khơng cịn. Nhiều NTN đang là một NLĐ nghiêm
túc thì bỗng nhiên “nhàn cư vi bất thiện” trở nên có những tính xấu như trộm cắp
hoặc có thể dụ dỗ nghiện ngập hay mại dâm cũng chỉ vì “đói ăn vụng, túng làm liều”.
Tóm lại, thất nghiệp mang đến nhiều tác hại cho bản thân NLĐ, cho nền kinh tế
và cho cả xã hội. Vì vậy, chúng ta hãy cố gắng tận dụng kiến thức, kỹ năng của bản
thân để tìm cho mình cơng việc thích hợp nhất tránh rơi vào tình trạng thất nghiệp.
1.1.3. Ý nghĩa bảo hiểm thất nghiệp
BHTN có ý nghĩa rất thiết thực trong cuộc sống, đảm bảo mục tiêu ASXH và
phát triển kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia cụ thể như sau[17]:
* BHTN có chức năng bảo vệ, bù đắp những tổn thất về mặt tài chính cho NLĐ
bị thất nghiệp và giúp họ có khả năng cũng như cơ hội quay lại thị trường làm việc.
* BHTN không chỉ là công cụ giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội mà cịn
là chính sách giúp ổn định xã hội một cách tốt nhất.
* Bảo hiểm thất nghiệp cịn có chức năng khuyến khích giúp hạn chế sự ỷ lại
của NLĐ, khuyến khích họ chăm chỉ làm việc, sẵn sàng làm việc.
* Sau những lợi ích trên thì BHTN vừa đóng vai trị quan trọng đối với DN, vừa
đóng vai trị tối ưu đối với Nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề xã hội.
* Nhờ có BHTN, khi NLĐ bị mất việc, chủ DN khơng phải mất phí trợ cấp mất
việc làm cho NLĐ nên NSDLĐ sẽ sử dụng nguồn LĐ thoải mái và hợp lý hơn, tạo
động lực cho sản xuất phát triển.
9
* Cũng nhờ có BHTN mà gánh nặng ngân sách của nhà nước khi có thất nghiệp
xảy ra được giảm thiểu.
1.1.4. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
BHTN là một chế định tiến bộ có vai trị rất quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia[41], đó là:
1.1.4.1 Vai trị của bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động
Khi tham gia quan hệ LĐ, NLĐ muốn tìm kiếm cơng việc tốt, thu nhập ổn định
cao, đúng với chun mơn kỹ thuật hoặc ít nhất là có việc làm, có thu nhập đủ để duy
trì ổn định cuộc sống của cá nhân và gia đình bình thường. BHTN là một giải pháp
tạm thời giúp NTN có thể cân bằng được tâm lý cũng như tài chính trong thời gian
đầu hụt hẫng do bị mất việc làm. BHTN vừa giúp đỡ họ ổn định cuộc sống khi bị mất
việc làm thông qua việc trả TCTN vừa tạo cơ hội để họ có thể tiếp tục tham gia thị
trường LĐ. Tạo ra chỗ dựa về vật chất và tinh thần cho NLĐ khi lâm vào tình trạng
mất việc làm. Với bất kỳ NLĐ nào đều có nhu cầu tìm cho mình một cơng việc ổn
định, phù hợp với trình độ, khả năng của bản thân, nhất là những cơng việc nhẹ
nhàng nhưng có mức lương cao nhằm duy trì cuộc sống ở mức cơ bản so với mức
sống chung của tồn xã hội. Khi NLĐ khơng may gặp rủi ro và mất việc làm thì
BHTN sẽ chịu trách nhiệm trong việc chi trả trợ cấp thông qua một khoản tiền nhất
định giúp NLĐ ổn định cuộc sống và có thể tránh rơi vào tình trạng cùng cực, nghèo
khó. Khoản tiền trợ cấp tuy khơng q lớn những cũng là một khoản hỗ trợ về mặt tài
chính nhằm đảm bảo sự “cân bằng” trong cuộc sống của NLĐ khi bị thất nghiệp. Đây
chính là điểm đặc thù của BHTN so với các chế độ khác của BHXH, mang bản chất
đặc trưng của chế độ việc làm. Ngoài ra, NLĐ bị thất nghiệp còn được hưởng nhiều
quyền lợi khác từ BHTN như được đóng bảo hiểm y tế trong thời gian bị thất nghiệp
hay được bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ.
Đây là một trong giải pháp hữu hiệu trong việc phịng ngừa từ xa tình trạng thất
nghiệp có thể xảy ra.
Vai trò của BHTN đối với NLĐ là: động viên NLĐ hăng hái - tích cực hơn
trong q trình làm việc; là bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi bị mất việc làm,
10
giúp họ và gia đình ổn định cuộc sống; là phân phối lại thu nhập giữa những người
cùng tham gia BHTN; là Quỹ BHTN nhàn rỗi được tái đầu tư sẽ góp phần vào phát
triển kinh tế - xã hội
Các nguồn thu chủ yếu từ các đối tượng tham gia đã tồn tích, hình thành quỹ
BHTN, trong thời gian nhàn rỗi có thể đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế để
tạo lợi nhuận hợp lý, góp phần tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHTN. Khoản đầu tư
này vừa góp phần phát triển sản xuất - kinh doanh cho nền kinh tế, vừa đảm bảo an
toàn cho quỹ BHTN không bị trượt rồi mất giá để chi trả trợ cấp BHTN cho NLĐ.
1.1.4.2. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp đối với người sử dụng lao động
Gánh nặng tài chính của NSDLĐ sẽ được chia sẻ khi những NLĐ tại DN bị mất
việc làm, NSDLĐ không phải bỏ ra một khoản chi lớn để giải quyết các chế độ cho
NLĐ. Khơng chỉ dừng ở đó BHTN cịn có vai trị hỗ trợ cho các DN khó khăn trong
việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ để họ có thể duy
trì phát triển ngành nghề của mình. Như vậy NSDLĐ vừa tiết kiệm được một khoản
chi phí vừa có được một đội ngũ LĐ có tay nghề có kỹ thuật đã qua đào tạo để nâng
cao hiệu quả và giảm chi phí trong sản xuất vượt qua khó khăn ổn định DN.
1.1.4.3. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp đối với nhà nước và xã hội
Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp đối với nhà nước: Ngân sách nhà nước sẽ
giảm bớt chi phí khi nạn thất nghiệp gia tăng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tạo
sự chủ động về tài chính cho nhà nước. BHTN chia sẻ gánh nặng ngân sách và ổn
định tình hình chính trị xã hội khi tình trạng thất nghiệp xảy ra, thu hút đầu tư để xây
dựng phát triển đất nước.
Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp về mặt chính trị: Bất kỳ một quốc gia nào, vào
thời gian nào cũng luôn tồn tại một lực lượng thất nghiệp tuy mức độ và tỷ lệ có khác
nhau. Do đó, chế độ BHTN được thực hiện sẽ góp phần ổn định chính trị, kinh tế của
đất nước.
Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp về mặt xã hội: BHTN cịn là một chính sách
xã hội, nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ tạo ra sự ổn định về mặt xã hội và ngược
lại, làm không tốt sẽ khiến cho xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, mất ổn định. Một
11
trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội là do thiếu việc làm và thất nghiệp
gây nên, bởi thất nghiệp thường đi kèm với khơng có thu nhập, mà con người thì bao
giờ cũng có nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại,... đó là những nhu cầu tối thiểu trong cuộc
sống. Khi NLĐ bị mất việc làm, thất nghiệp sẽ tác động rất lớn đến tinh thần và tâm
lý của họ. Để ngăn chặn và hạn chế những hành vi tiêu cực có thể xảy ra cho xã hội
thì có lẽ khơng có biện pháp nào phát huy tác dụng như chính sách TCTN. Rõ ràng
với chính sách này NLĐ cũng yên tâm phần nào về cuộc sống để dồn sức lo tìm kiếm
một cơng việc mới, ổn định dần và tiến đến cải thiện đời sống của gia đình mình
trong tương lai, góp phần giữ gìn sự ổn định xã hội.
Tóm lại, vai trị của bảo hiểm thất nghiệp được biết đến là một chính sách ưu
việt có vai trị to lớn khơng chỉ đối với NLĐ mà còn đối với NSDLĐ, Nhà nước và xã
hội trong nền kinh tế thị trường đầy biến động.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Từ khái niệm, đặc điểm và vai trò của BHTN, đồng thời trên cơ sở quy định của
pháp luật, có thể hiểu khái niệm pháp luật BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ về việc đóng góp và sử dụng quỹ
BHTN, chi trả TCTN để bù đắp thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm và thực hiện các
biện pháp hỗ trợ nhằm đưa NTN trở lại thị trường LĐ và tìm được việc làm.
Pháp luật BHTN, kể từ khi xuất hiện đến nay, luôn phát huy tác dụng trong việc
tạo cơ sở pháp lý để các bên quan hệ BHTN thực hiện các nghĩa vụ đóng phí BHTN
để được thụ hưởng chế độ khi bị mất việc làm. Đồng thời pháp luật BHTN ln là
hình thức bảo hiểm bắt buộc, theo đó NLĐ và NSDLĐ khi đủ điều kiện bắt buộc phải
tham gia đóng phí vào quỹ BHTN, nhằm để tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho
NLĐ khi bị mất việc làm khơng có thu nhập.
Từ đó có thể thấy, việc điều chỉnh pháp luật đối với thất nghiệp và BHTN trước
hết là việc Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho việc
giải quyết các mối quan hê ̣khi xuất hiện thất nghiệp, để các cơ quan có thẩm quyền
ra các văn bản áp dụng pháp luật. Thông qua việc xây dựng và ban hành các văn bản
12
quy phạm pháp luật về thất nghiệp, Nhà nước định hướng cho những quan hê ̣xã hội
trong lĩnh vực thất nghiệp phát triển phù hợp với các yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Như vậy, cùng với quan niệm về BHTN đã phân tích ở trên, có thể
hiểu pháp luật về BHTN là tổng thể các quy định của Nhà nước nhằm điều chỉnh các
quan hê ̣xã hội phát sinh trong lĩnh vực của BHTN như: việc đóng góp và sử dụng
quỹ BHTN, chi trả TCTN và thực hiện các biện pháp đưa NTN trở lại làm việc.
BHTN ra đời mang tính tất yếu khách quan, gắn liền với nền kinh tế thị trường,
khi sức LĐ được coi là một loại hàng hóa đặc biệt. Nhà nước với tư cách là chủ thể
quản lý phải sử dụng các công cụ quản lý nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược
phát triển của đất nước, trong đó có pháp luật BHTN.
Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp là sự tác động của Nhà nước tới các đối tượng
tham gia BHTN thông qua các biện pháp, công cụ pháp luật nhằm mục tiêu ASXH,
ổn định và phát triển kinh tế.
Với khái niệm nêu trên về pháp luật BHTN, thì có ba đặc điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, pháp luật BHTN là một chính sách pháp luật cơng. Do vậy, chủ thể
pháp luật là Nhà nước.
Thứ hai, đối tượng của pháp luật là những NLĐ tham gia đóng BHTN và
NSDLĐ. Chỉ những NLĐ tham gia đóng BHTN bị thất nghiệp mới được hưởng lợi
từ pháp luật BHTN. NSDLĐ được coi là đối tượng của pháp luật BHTN khi họ phải
tuân thủ những quy định của Nhà nước về nghĩa vụ đóng góp tài chính hỗ trợ cho
NLĐ trong trường hợp bị thất nghiệp.
Thứ ba, các biện pháp, công cụ pháp luật được Nhà nước sử dụng bao gồm các
quy định về quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tham gia BHTN là
NLĐ và NSDLĐ, quy định về nguồn tài chính, chế độ BHTN,...
Chế độ BHTN là một khái niệm có phạm vi hẹp hơn khái niệm pháp luật
BHTN. Chế độ BHTN chỉ đề cập tới những quy định về đối tượng, điều kiện được
hưởng trợ cấp thất nghiệp, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ tư vấn tìm việc làm,
đào tạo nghề và bảo hiểm y tế. Pháp luật BHTN không chỉ bao hàm chế độ BHTN
13
mà còn cả các quy định về đối tượng tham gia, nguồn hình thành quỹ và các tổ chức
chịu trách nhiệm triển khai thực hiện pháp luật BHTN.
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Nguyên tắc thứ nhất, pháp luật BHTN dựa trên nguyên tắc cộng đồng chia sẻ
rủi ro giữa những người tham gia BHTN. BHTN là "hạt nhân" của pháp luật thị
trường lao động, là một phần không thể thiếu trong chế độ ASXH của bất kỳ quốc gia
nào và một trong những nguyên tắc cực kỳ quan trọng của chế độ an sinh - xã hội là
bảo đảm sự chia sẽ rủi ro giữa những người tham gia. Do vậy, BHTN dựa trên sự
tương trợ giữa các cá nhân trong xã hội, theo đó số đơng bù số ít. Nếu ngun tắc này
khơng được đảm bảo thì các khoản trợ cấp thất nghiệp sẽ chỉ đơn thuần là một khoản
"tiền tiết kiệm trả muộn" và ý nghĩa xã hội của BHTN sẽ mất đi. Một nguyên tắc thể
hiện rõ tính nhân văn xã hội. Chính vì vậy, việc tham gia vào BHTN phải là bắt buộc
đối với NLĐ và NSDLĐ. Những chủ thể này đều có trách nhiệm tham gia BHTN và
đây được coi là một nội dung trong HĐLĐ. Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản
lý và hỗ trợ khi cần thiết. Chỉ khỉ có sự chung tay và chia sẽ của cả cộng đồng thì
BHTN mới thực sự hiệu quả.
Nguyên tắc thứ hai, chế độ BHTN được xây dựng trên cơ sở quan hệ hữu cơ
giữa mức hưởng của BHTN với mức đóng góp và thời gian đóng BHTN.
Nguyên tắc này dựa trên mối quan hệ giữa sự đóng góp và hưởng thụ của NLĐ,
có đóng thì mới có hưởng. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ thực hiện chức
năng quản lý đối với các hoạt động kinh doanh, do đó khi xây dựng pháp luật BHTN
cần có tỷ lệ tương xứng giữa đóng góp và thụ hưởng của NLĐ, hạn chế tới mức thấp
nhất sự bù đắp của Nhà nước đối với quỹ BHTN. Tuy nhiên, việc quy định tỉ lệ này
phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động, xuất phát từ vai trò quan
trọng của BHTN đó là hỗ trợ cuộc sống cho NLĐ khi bị mất thu nhập do mất việc
làm. Việc xác định mức hưởng trợ cấp BHTN phải đảm bảo được khả năng chi trả
của quỹ bảo hiểm và tính khuyến khích NLĐ chủ động tìm kiếm việc làm nhằm thốt
khỏi tình trạng thất nghiệp. Nếu quy định tỉ lệ hưởng trợ cấp BHTN quá thấp, thời
gian được hưởng quá ít sẽ không bảo đảm được mức sống tối thiểu cho NLĐ, làm
14
mất đi ý nghĩa của BHTN. Nhưng nếu quy định mức trợ cấp BHTN quá cao, thời
gian hưởng trợ cấp kéo dài lại dẫn đến khó cân đối nguồn tài chính giữa thu và chi
BHTN, thì sẽ gây lãng phí tiền quỹ trong việc chi trả BHTN cũng như sẽ tạo ra tâm
lý ỷ lại trông chờ vào sự trợ giúp của BHTN và tư tưởng lười LĐ sẽ không tích cực
tìm việc làm của ở NLĐ. Ngồi ra, ngun tắc này cũng có mối quan hệ khắng khít
với ngun tắc chia sẽ rủi ro, lấy số đông bù số số ít. BHTN khơng chỉ mang tính
chất kinh tế thơng qua các khoản trợ cấp thất nghiệp mà nó cịn mang tính chất xã hội
sâu sắc, có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng nhằm giúp NLĐ vượt qua được
khó khăn sau khi rơi vào tình trạng mất việc làm.
Nguyên tắc thứ ba, là mức đóng BHTN dựa trên cơ sở tiền lương của NLĐ.
Khác với các loại bảo hiểm dân sự hay thương mại, thì BHTN mang tính chất của chế
độ an sinh - xã hội. Trong khi các loại bảo hiểm khác thì bảo đảm về tài sản hay tính
mạng thì BHTN lại đảm bảo cho nguời lao động về vấn đề tài chính mà cụ thể là
phần thu nhập được hưởng trong thời gian bị thất nghiệp. Mức thu nhập được bảo
hiểm chính là mức tiền lương hay mức tiền công hàng tháng do nhà nước quy định
thống nhất. Vấn đề tiền lương luôn luôn là một trong những vấn đề được NLĐ quan
tâm hàng đầu trong bất kỳ bản HĐLĐ hay HĐLV; Về cơ bản, mức đóng (tỷ lệ đóng)
BHTN dựa trên cơ sở mức tiền lương của NLĐ đã thống nhất và ký kết với NSDLĐ.
Nguyên tắc thứ tư, Quỹ BHTN được quản lý thống nhất, dân chủ, cơng khai và
hạch tốn độc lập.
Do quỹ BHTN được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia là:
NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước nên hoạt động của quỹ phải dựa trên nguyên tắc quản lý
thống nhất, dân chủ, cơng khai và hạch tốn độc lập. Quỹ được sử dụng vào các mục
đích như: Chi trả trợ cấp BHTN cho NLĐ; Chi cho các hoạt động tìm việc làm cho
NTN; Chi cho cơng tác đào tạo, đào tạo lại, học nghề cho NTN; Chi phí cho hoạt
động của bộ máy quản lý BHTN… Do vậy, Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền
quản lý quỹ BHTN; quỹ BHTN là một quỹ tài chính độc lập, tự thu, tự chi do Nhà
nước tập trung quản lý. Sau khi thành lập, quỹ này độc lập với ngân sách Nhà nước
để chủ động giải quyết theo pháp luật BHTN. Quỹ này không được sử dụng để giải
15
quyết các vấn đề xã hội khác. Các kế hoạch thu chi của quỹ BHTN phải được công
khai và báo cáo thường xuyên tới Nhà nước, việc sử dụng quỹ và hoạt động đầu tư
quỹ phải đảm bảo tính minh bạch và an toàn cho quỹ BHTN
Nguyên tắc thứ năm, Nhà nước trực tiếp quản lý pháp luật BHTN
Nhà nước trực tiếp quản lý BHTN thể hiện trước hết là việc Nhà nước trực tiếp
ban hành pháp luật về BHTN, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chế độ
này. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ mà Nhà nước xây
dựng chương trình quốc gia về BHTN, các qui định pháp luật về BHTN như thu hẹp
hay mở rộng đối tượng, điều kiện hưởng và mức hưởng…Với tư cách là người đại
diện và thực hiện các pháp luật xã hội, Nhà nước cịn có trách nhiệm đóng góp vào
quỹ BHTN, áp dụng các biện pháp để bảo toàn giá trị quỹ và làm cho quỹ tăng
trưởng. Ngoài ra, Nhà nước thống nhất tổ chức, quản lý sự nghiệp BHTN cho tồn xã
hội nhưng khơng bao cấp, khơng lấy ngân sách để chi trả mà chỉ hỗ trợ một phần.
Nguyên tắc thứ sáu, pháp luật BHTN đảm bảo nguyên tắc lành mạnh hóa thị
trường lao động. Để giải quyết thất nghiệp địi hỏi phải có một pháp luật tổng thể,
được thiết kế để kích thích nền kinh tế. Xu hướng chung của các nước hiện nay là,
ngoài trợ cấp cho NLĐ, khi thất nghiệp, có điều kiện sinh sống, người ta còn thực
hiện thêm biện pháp đào tạo lại NLĐ để họ có điều kiện dễ tìm việc làm mới. Vì vậy,
BHTN được liên kết chặt chẽ với các biện pháp thị trường LĐ tích cực như tạo ra chỗ
làm việc mới, bảo vệ chỗ làm việc, nâng cao năng lực cho NLĐ, giới thiệu việc làm
cho NTN. Các biện pháp này luôn gắn liền với pháp luật và chương trình việc làm
quốc gia. BHTN thường được thống nhất với chương trình việc làm quốc gia. Đây
như một biện pháp, pháp luật hỗ trợ LĐ nhằm đẩy lùi thất nghiệp, nhanh chóng đưa
NTN trở lại làm việc.
1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Pháp luật BHTN đối với mỗi quốc gia khi xây dựng hệ thống chính sách pháp
luật về BHTN, đều cần những nội dung cơ bản làm nền tảng. Các nội dung này
thường đề cập xoay quanh các vấn đề sau đây:
1.2.3.1. Đối tượng tham gia pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
16
Đối tượng tham gia là nội dung được quan tâm đầu tiên, mang tính chất bắt
buộc, nhằm xác định chủ thể đủ điều kiện tham gia vào pháp luật BHTN. Tùy theo
tình hình kinh tế - xã hội của mỗi nước mà có những quy định về việc làm khác nhau,
có thể mở rộng thêm cũng như thu hẹp lại đối tượng tham gia BHTN. Có có ba chủ
thể tham gia BHTN là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
Về phía NLĐ: Theo Điều 2 Công ước số 44 của ILO về “Công ước về bảo đảm
tiền cấp cho NTN không tự nguyện” năm 1934, BHTN được áp dụng tới tất cả những
NLĐ được trả tiền công, tiền lương Tuy vậy, tùy vào hồn cảnh của mỗi nước tham
gia Cơng ước mà có thể đặt thêm những ngoại lệ về đối tượng tham gia BHTN như
người giúp việc, LĐ tại nhà, LĐ theo mùa vụ, hay những người công tác ổn định
trong lĩnh vực công. Không những vậy, một số quốc gia còn đặt điều kiện về độ tuổi
tham gia BHTN, quốc tịch hay thời hạn LĐ để xác định đối tượng tham gia BHTN.
Về độ tuổi thì BHTN thường được áp dụng với những người trong độ tuổi LĐ.
Về phía NSDLĐ: Bên cạnh NLĐ, thì trong việc xây dựng pháp luật về BHTN,
hầu hết các quốc gia đều đưa NSDLĐ vào là một trong những đối tượng phải tham
gia BHTN giống như NLĐ. NSDLĐ tham gia BHTN có thể là cơ quan, tổ chức, DN,
hợp tác xã đủ điều kiện theo pháp luật LĐ được phép sử dụng LĐ. Tuy vậy, vai trị
của NSDLĐ chỉ dừng lại ở việc đóng phí BHTN vào quỹ BHTN, chứ khơng được
hưởng các lợi ích từ BHTN như NLĐ.
Về phía Nhà nước: Một chủ thể nữa cũng được xem xét là đối tượng tham gia
BHTN, đó là Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ tham gia của Nhà nước vào BHTN ở các
quốc gia là rất khác nhau. Việc Nhà nước tham gia đóng phí BHTN thường tập trung
ở các quốc gia đang phát triển cũng như bước đầu mới triển khai thực hiện chính sách
BHTN như VN. Cịn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển, BHTN đã
được thực hiện lâu đời, nguồn quỹ dồi dào, thì nhà nước khơng đóng phí mà chỉ đóng
vai trị bảo trợ khi thiếu và quản lý quỹ.
1.2.3.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Điều kiện hưởng BHTN là tổng thể các yêu cầu mà pháp luật đặt ra nhằm xác
định đâu là đối tượng được hưởng BHTN và đâu là đối tượng không được hưởng
17
BHTN. Không phải bất cứ NLĐ nào đã tham gia đóng BHTN sẽ đương nhiên được
hưởng BHTN khi họ mất việc làm. Một NLĐ được hưởng BHTN thì chắc chắn họ
phải là người tham gia BHTN, có nghĩa vụ đóng phí BHTN hàng tháng trong một
thời gian nhất định cho chính mình đồng thời đáp ứng các u cầu về việc chấm dứt
HĐLĐ, về việc nộp hồ sơ hưởng BHTN, và khoảng thời gian chưa tìm được việc làm
sau khi đã nộp hồ sơ trên. Còn NLĐ tham gia BHTN thì khơng nhất thiết NLĐ đã là
người được hưởng các chế độ của BHTN, vì họ có thể thiếu một trong các điều kiện
do pháp luật quy định như NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, hay
không nộp hồ sơ hưởng TCTN đúng thời hạn quy định của pháp luật về BHTN.
Theo Công ước số 44 của ILO thì NLĐ chỉ đươc hưởng BHTN khi đáp ứng đủ
các yêu cầu đã được đặt ra, như về khả năng LĐ và sẵn sàng làm việc khi được giới
thiệu việc làm, về thời gian đóng, về nguyên nhân thất nghiệp, đã đăng ký tìm việc tại
trung tâm giới thiệu việc làm hoặc tại các cơ quan có thẩm quyền do Nhà nước quản
lý. Hay như tại Đan Mạch, để NLĐ được hưởng TCTN thì họ phải đáp ứng đủ điều
kiện như sau: NLĐ phải đóng bảo hiểm ít nhất 52 tuần trong vòng 3 năm trước khi bị
thất nghiệp; NLĐ phải đăng ký tìm việc làm tại các trung tâm LĐ và phải sẵn sàng
làm việc khi được giới thiệu một công việc phù hợp; Không những vậy, việc thất
nghiệp của NLĐ không phải xuất phát từ việc tự ý rời việc, chấm dứt HĐLĐ trái
pháp luật hay tranh chấp LĐ khác. Nhìn chung để được hưởng BHTN thì NLĐ cần
phải đáp ứng ít nhất các điều kiện về thời gian tham gia BHTN; nguyên nhân thất
nghiệp; thủ tục hưởng BHTN; khả năng LĐ và sẵn sàng làm việc khi được giới thiệu
việc làm mới.
Muốn được hưởng trợ cấp BHTN, NTN phải có đủ các điều kiện sau (theo
Cơng ước số 44 của ILO): Có năng lực làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng hiện tại
khơng có việc làm; Có đăng ký tìm việc tại một phịng tìm việc do cơ quan có thẩm
quyền xác nhận hay tại một trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm do Nhà nước
quản lý; Có sổ BHTN để chứng nhận có tham gia đóng BHTN đủ thời hạn quy định
của thời kỳ dự bị; Trước đó khơng tự ý nghỉ việc vô cớ hoặc không phải bị nghỉ việc
18
vì kỷ luật hay tranh chấp nghề nghiệp; Có giấy chứng nhận mức lương hay thu nhập
trước khi bị thất nghiệp (trường hợp trả trợ cấp theo mức lương).
Thứ nhất, về điều kiện "có năng lực làm việc và sẵn sàng làm việc"
BHTN nhằm bảo vệ NLĐ bị mất việc làm do những nguyên nhân nằm ngoài ý
muốn chủ quan của NLĐ. Do vậy, nếu NLĐ khơng có việc làm do khơng có khả
năng LĐ thì sẽ khơng thuộc trách nhiệm của BHTN. Vì vậy, muốn được nhận trợ cấp
thất nghiệp, NTN phải có "năng lực làm việc" (khả năng LĐ). Cùng với việc "có khả
năng LĐ", muốn được hưởng trợ cấp BHTN, NTN phải "sẵn sàng làm việc". Đây là
một điều kiện liên quan đến cá nhân NTN. Người xin hưởng trợ cấp BHTN được
xem như "sẵn sàng làm việc" nếu hoàn cảnh cá nhân của họ cho phép họ nhận ngay
lập tức việc làm phù hợp mà cơ quan giới thiệu việc làm tìm được cho họ. Sự "sẵn
sàng làm việc" được xác nhận qua thủ tục ghi danh, trình diện tại cơ quan giới thiệu
việc làm. Qua thủ tục này, cơ quan giới thiệu việc làm sẽ có biện pháp nghiệp vụ để
đánh giá sự "sốt sắng", ý chí muốn làm việc của từng người xin hưởng trợ cấp
BHTN, NTN từ chối việc làm phù hợp do cơ quan giới thiệu việc làm tìm cho thì họ
có thể sẽ bị mất quyền hưởng trợ cấp.
Thứ hai, về điều kiện "có đăng ký tìm việc tại một phịng tìm việc". Sự trợ giúp
lớn nhất mà xã hội có thể mang lại cho NTN là tìm cho họ một việc làm mới, việc
cung cấp một khoản trợ cấp bù đắp thu nhập đã mất chỉ là thứ yếu. Do đó, để được
hưởng trợ cấp BHTN, NTN phải đăng ký tìm việc làm ở một phịng tìm việc. Ngồi
ra, đây cũng là cách tốt nhất và đơn giản nhất đề kiểm trả khả năng LĐ, sự sẵn sàng
và ý chí làm việc của NTN.
Thứ ba, về "thời kỳ dự bị" để tránh sự lạm dụng của NTN, pháp luật BHTN của
các nước đều quy định về thời gian dự bị.
Quy định về thời kỳ dự bị có hai tác dụng
Thứ nhất, thời kỳ dự bị đảm bảo rằng chỉ có những người thực sự và thường
xuyên thuộc lao động hoạt động kinh tế thì mới có thể xem như mất thu nhập thực sự,
khi lâm vào tình trạng thất nghiệp, do đó cần một khoản trợ cấp thay thế;
19