Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.41 KB, 11 trang )

THANH TỐN KHƠNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM:
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Tóm tắt:
Kể từ thời điểm Chính phủ ban hành Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012
về thanh tốn khơng dùng tiền mặt, đến nay, tỷ trọng tiền mặt lưu thông trên tổng các
phương tiện thanh toán của Việt Nam vẫn cịn khá cao (trên 10%). Để góp phần thúc đẩy
thanh tốn khơng dùng tiền mặt tại Việt Nam nhằm đạt mục tiêu đến cuối 2025, tỷ trọng
tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở mức dưới 8%. Bài viết đưa ra những phân
tích về các cơ hội và thách thức của thanh tốn khơng dùng tiền mặt tại Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Thanh tốn khơng dùng tiền mặt; cơ hội; thách thức
1. Thực trạng về thanh tốn khơng dùng tiền mặt tại Việt Nam
Thanh tốn khơng dùng tiền mặt (TTKDTM) là những khoản thanh toán thực hiện
bằng cách trích tiền từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của người thụ hưởng
hoặc bù trừ lẫn nhau thông qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh tốn. TTKDTM góp phần
quản lý quỹ Ngân sách nhà nước hiệu quả hơn; thúc đẩy nhanh sự vận động của vật tư,
tiền vốn trong nền kinh tế; góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, từ đó
tiết kiệm được chi phí lưu thơng cho xã hội.
Kể từ thời điểm ban hành Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về
TTKDTM, đến nay, tỷ trọng tiền mặt lưu thông trên tổng các phương tiện thanh tốn của
Việt Nam chưa có sự thay đổi nhiều. Tại thời điểm tháng 4/2013, khi Nghị định
101/2012/NĐ-CP bắt đầu có hiệu lực, tỷ trọng tiền mặt lưu thơng trên tổng phương tiện
thanh tốn của Việt Nam là 12,07%, đến tháng 5/2019, tỷ lệ này là 11,67%. Trong khi đó,
tổng phương tiện thanh tốn đã tăng hơn 234% xét trong cùng giai đoạn. Điều này cho
thấy, TTKDTM chuyển biến chậm so với tốc độ tăng của tổng phương tiện thanh toán.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tính đến tháng 5/2019, số dư tổng
phương tiện thanh tốn đã đạt đến quy mơ 9.706.888 tỷ đồng (tăng 5,37% so với cuối
năm 2018), tháng 12/2013, quy mô này chỉ ở mức 4.400.692 tỷ đồng. Tính theo số dư
quy mơ tổng phương tiện thanh tốn nói trên, tỷ trọng tiền mặt lưu thông tương ứng với
quy mô 1.132.793,83 tỷ đồng. Số liệu trên cho thấy, mặc dù có sự gia tăng đáng kể số
lượng công ty tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán tại thị trường Việt Nam (năm 2013,


số lượng công ty là 12, năm 2015 là 20, năm 2019 là 31 và đến nay là 34) nhưng tỷ trọng
tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh tốn của Việt Nam khơng có sự thay đổi
nhiều như kỳ vọng.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng khơng ngừng trang bị thêm các phương
tiện thanh tốn nhằm thúc đẩy TTKDTM trong nước; cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt
động TTKDTM tại Việt Nam hiện nay khá tốt.

1


Đồ thị 1: Tỷ trọng thiết bị thanh toán quý IV, giai đoạn 2013 - 2019
100
90
80
70
60
50

89.5

91.5

93

93.8

93.9

94.3


93.5

10.5

8.5

Quý IV 2013

Quý IV 2014

7
Quý IV 2015

6.2
Quý IV 2016

6.1
Quý IV 2017

5.7
Quý IV 2018

6.5
Quý IV 2019

40
30
20
10
0


ATM

POS/EFTPOS/EDC

Nguồn: Vụ Thanh toán - NHNN
Đồ thị 1 cho thấy, tỷ trọng ATM có xu hướng giảm, POS/EFTPOS/EDC có xu
hướng tăng trong giai đoạn 2013 - 2019; cụ thể, tại quý IV năm 2013, tỷ trọng ATM là
10,5% và POS/EFTPOS/EDC là 89,5%; quý IV năm 2019, tỷ trọng này lần lượt là 6,5%
với ATM và 93,5 với POS/EFTPOS/EDC. Theo Vụ Thanh toán, NHNN, số lượng giao
dịch qua ATM tại quý IV năm 2019 đạt 272.291.822 món với giá trị giao dịch đạt
737.460 tỷ đồng; số lượng giao dịch qua POS/EFTPOS/EDC đạt 95.455.590 món với giá
trị giao dịch đạt 167.906 tỷ đồng.

Đồ thị 2: Tỷ trọng giao dịch qua ATM và POS/EFTPOS/EDC
quý IV, giai đoạn 2013 – 2019

2


100

4.3

90

11.7

8.9


88.3

91.1

14.5

17.4

19.5

18.5

85.5

82.6

80.5

81.5

Quý IV 2018

Quý IV 2019

80
70
60
50

95.7


40
30
20
10
0

Quý IV 2013

Quý IV 2014

QuýPOS/EFTPOS/EDC
IV 2015
Quý IV 2016 ATM
Quý IV 2017

Nguồn: Vụ Thanh toán – NHNN
Mặc dù số lượng máy móc thiết bị phục vụ cho TTKDTM không ngừng gia tăng,
nhưng tỷ trọng TTKDTM tăng với tốc độ chưa tương xứng. Tại quý IV/2013, tỷ trọng
giao dịch qua ATM chiếm 95,7%, qua POS/EFTPOS/EDC chiếm 4,3% trong tổng số
lượng giao dịch; đến quý IV năm 2019, tỷ trọng này lần lượt là 81,5 và 18,5%. Điều này
cho thấy, giao dịch thẻ qua ATM vẫn chiếm tỷ trọng lớn cả về giá trị và số lượng, trong
khi đó giao dịch thẻ qua ATM chủ yếu vẫn là để rút tiền mặt.
Theo báo cáo “Thái độ thanh toán của người tiêu dùng” được Visa cơng bố tháng
3/2019, các hình thức TTKDTM, đặc biệt là thanh toán kỹ thuật số đang được hưởng ứng
tích cực hơn. Trong năm 2018, 73% số người tham gia khảo sát của Visa trả lời đang sử
dụng thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, tăng 14% so với năm 2017. Tỷ lệ người có sử dụng các
phương thức thanh toán kỹ thuật số (gồm ứng dụng di động, thanh tốn khơng tiếp xúc,
thanh tốn bằng mã QR) lần lượt là 44%, 32% và 19%. Số lượng và tổng giá trị giao dịch
qua thẻ Visa tại Việt Nam trong năm 2018 tăng 25% và 37% so với năm 2017. Theo

NHNN, tính đến cuối tháng 6 năm 2020, toàn hệ thống ngân hàng đã đạt khoảng 93,7
triệu tài khoản cá nhân, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2019. Đến cuối tháng 6, số lượng
thẻ lưu hành đạt mức 106 triệu thẻ, tăng khoảng 14,5% so với cùng kỳ năm 2019. Số
lượng máy ATM đạt 19.570 máy và 266.310 POS, tăng lần lượt 4,4% và 2,5% so với
cùng kỳ năm 2019. Số lượng giao dịch thanh toán nội địa qua thẻ ngân hàng trong 6
tháng đầu năm 2020 đạt trên 171 triệu giao dịch với giá trị đạt khoảng 399 nghìn tỷ đồng,
tăng tương ứng 20,9% và 9,1% so với cùng kỳ năm 2019.
Để thúc đẩy TTKDTM, các ngân hàng đã tích hợp thêm nhiều tính năng hỗ trợ
thanh tốn hàng hóa, dịch vụ vào thẻ ngân hàng. Đồng thời, chất lượng dịch vụ thẻ cũng
như độ an tồn trong thanh tốn thẻ được các ngân hàng chú trọng và nâng cao. Đến nay,
đã có 78 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai dịch vụ thanh toán qua internet,
49 tổ chức thực hiện qua điện thoại di động, 34 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian
thanh toán. Với sự nỗ lực của các tổ chức, đến nay, TTKDTM tại Việt Nam đã đạt được
3


những kết quả nhất định. Theo Vụ Thanh toán, NHNN, năm 2019, thanh toán qua kênh
internet tăng 64%, đạt 551 triệu lượt giao dịch với tổng giá trị giao dịch gần 6 triệu tỷ
đồng, tăng 37% so với năm 2018; số lượng giao dịch qua kênh điện thoại tăng 198%, đạt
418 triệu lượt với tổng giá trị giao dịch đạt 21,92 triệu tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm
2020, số lượng giao dịch qua internet là hơn 200 triệu giao dịch, với giá trị khoảng 12,9
triệu tỷ đồng, tăng 36% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019; số lượng giao dịch qua kênh
điện thoại di động đạt hơn 472 triệu giao dịch, với giá trị khoảng 4,9 triệu tỷ đồng, tăng
tương ứng 178% và 177% so cùng kỳ năm 2019. Thanh toán qua di động đã vượt khá xa
thanh toán qua internet (quan sát đồ thị 3).
Đồ thị 3: Tốc độ tăng trưởng giá trị giao dịch thanh toán
qua điện thoại di động và internet
25

21.92


20
16
15

13.38

10
5.58

5
0.69
0

1.8
Điện thoại

Internet
2017

2018

2019

Nguồn: NHNN
2. Cơ hội thúc đẩy phát triển thanh tốn khơng dùng tiền mặt tại Việt Nam
2.1. Hành lang pháp lý
Tại Việt Nam, hành lang pháp lý đầu tiên đề cập đến hoạt động TTKDTM là
Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006
phê duyệt Đề án TTKDTM giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt

Nam. Đề án tập trung triển khai TTKDTM thông qua việc thúc đẩy phát triển dịch vụ thẻ
ngân hàng. Đến năm 2012, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về
TTKDTM ra đời đã tạo nền tảng pháp lý cơ bản cho hoạt động thanh tốn, góp phần thúc
đẩy mạnh mẽ TTKDTM trong nền kinh tế của Việt Nam. Cuối năm 2015, NHNN bắt đầu
cấp giấy phép hoạt động chính thức cho các công ty Fintech hoạt động trong lĩnh vực
trung gian thanh tốn. Theo đó, nhiều hình thức thanh tốn điện tử mới được đưa vào
hoạt động như sử dụng mã QR code, mPos,… Để tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động TTKDTM tại Việt Nam, ngày 30/12/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 2545/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai
đoạn 2016 - 2020. So với Quyết định 291/2006/QĐ-TTg, Quyết định 2545/QĐ-TTg đã
đưa ra mục tiêu tập trung phát triển một số phương tiện và hình thức thanh tốn mới, hiện
đại. Quyết định này cũng yêu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định về TTKDTM, trung gian
4


tài chính, … Sau gần 4 năm triển khai Quyết định số 2545/QĐ-TTg, đến nay, đã có 78 tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua internet và 45 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
di động. Hiện nay, ở Việt Nam có các hệ thống TTKDTM chính gồm: hệ thống thanh
toán điện tử liên ngân hàng (IBPS); hệ thống thanh toán bù trừ; hệ thống thanh toán nội
bộ của từng NHTM; các hệ thống thanh toán song phương; hệ thống thanh toán ngoại tệ
VCB - Money; hệ thống thanh toán chứng khoán do BIDV quản lý, vận hành; hệ thống
thanh toán thẻ; hệ thống thanh toán qua internet và điện thoại di động. Cơ sở hạ tầng và
công nghệ phục vụ TTKDTM, nhất là thanh toán điện tử tiếp tục được chú trọng đầu tư,
nâng cao chất lượng. Các cơng nghệ mới, hiện đại trong thanh tốn như việc áp dụng xác
thực vân tay, nhận diện khuôn mặt, sử dụng mã phản hồi nhanh (QR Code), mã hóa thơng
tin thẻ, thanh tốn phi tiếp xúc, cơng nghệ mPOS... được các ngân hàng nghiên cứu, hợp
tác và ứng dụng. NHNN cấp phép hoạt động các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian
thanh tốn, trong đó tập trung những tính năng nạp tiền điện thoại, thanh tốn qua mã
QR, thanh tốn hóa đơn dịch vụ cước điện thoại di động, hóa đơn điện nước, internet, các
khoản vay tài chính… Hệ thống ATM, POS tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cao chất

lượng.
Bên cạnh đó, việc NHNN xây dựng Tiêu chuẩn cơ sở “Đặc tả kỹ thuật QR Code
trong lĩnh vực thanh toán tại Việt Nam” đã tạo tiền đề cho hệ thống ngân hàng Việt Nam
có thể tiệm cận nhanh hơn các mục tiêu đề ra trong thúc đẩy TTKDTM. Các NHTM cũng
đã và đang tích cực đẩy mạnh phát triển TTKDTM tới tất cả các đối tượng khách hàng,
các tầng lớp dân cư, ở mọi không gian địa lý, gắn liền với tối ưu hóa mạng lưới ATM và
POS; mở rộng thanh toán qua internet, qua các thiết bị di động, sử dụng mã QR, … kèm
theo đó là đảm bảo an tồn, tiện lợi, nhanh chóng cho khách hàng. Theo đó, phát triển
nhiều dịch vụ gia tăng trên kênh cung ứng dịch vụ ngân hàng từ thẻ ngân hàng; xây dựng
chuẩn thẻ chip nội địa và triển khai kế hoạch chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip tại Việt
Nam với lộ trình thích hợp nhằm bảo đảm an ninh, an tồn trong thanh tốn thẻ, tạo thuận
lợi kết nối với các hệ thống thanh toán khác.
Ngày 01/01/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực
hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường cạnh tranh, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, xác định một trong 5
nhiệm vụ trọng tâm là “Đẩy mạnh thanh toán điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến
cấp độ 4”; chỉ đạo các ngành tiếp tục thực hiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt đối với
các dịch vụ công, bổ sung đối tượng thu phạt vi phạm hành chính. Ngồi ra, Nghị định
Chính phủ, các điều luật cũng quy định rất rõ việc thanh tốn dịch vụ cơng qua ngân
hàng.
2.2. Cách mạng cơng nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đã tạo ra những giải pháp mang tính đột phá
trong phát triển tài chính tồn diện và thúc đẩy TTKDTM như, thiết lập các kênh cung
cấp dịch vụ mới (internet banking, mobile banking,...). CMCN 4.0 cũng mang lại cơ hội
cho việc ứng dụng cơng nghệ quản trị thơng minh và tự động hóa trong quy trình nghiệp
vụ, trong đó có hoạt động TTKDTM. Khi công nghệ ngày càng tác động trực tiếp đến

5



mọi hoạt động, nhu cầu sử dụng tiền mặt, tiền giấy và tiền xu sẽ giảm mạnh, thay vào đó
là tiền điện tử.
Những tiến bộ về kỹ thuật công nghệ đang làm thay đổi cấu trúc, phương thức
hoạt động và cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại của hệ thống ngân hàng, hình thành những
sản phẩm dịch vụ tài chính mới như: M-POS, Internet banking, Mobile banking, công
nghệ thẻ chip, ví điện tử,… tạo thuận lợi cho người dân trong việc sử dụng dịch vụ ngân
hàng hiện đại và tiết kiệm được chi phí giao dịch. Nền tảng cơng nghệ để trao đổi thông
tin và thực hiện các giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng hoàn toàn diễn ra trên môi
trường mạng internet, giúp khách hàng không phải tới ngân hàng cũng như ngân hàng
không phải gặp trực tiếp khách hàng để hoàn tất giao dịch.
2.3. Tiếp cận dịch vụ viễn thơng
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển TTKDTM qua điện thoại di
động do có tỷ lệ tiếp cận dịch vụ viễn thông và sử dụng điện thoại di động ở mức khá
cao.
Số liệu bảng 1 cho thấy, số thuê bao internet có xu hướng tăng mạnh trong giai
đoạn 2013 - 2019. Đồ thị 4 cũng cho thấy, tỷ lệ người dân sử dụng internet trong tổng số
dân có xu hướng tăng mạnh. Bên cạnh đó, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, dân số
Việt Nam đến cuối năm 2017 đạt hơn 93,7 triệu người, trên 53% sử dụng điện thoại thơng
minh. Nhóm khách hàng sử dụng điện thoại thông minh hầu hết là người trẻ, có kiến thức
và ham trải nghiệm, ưa chuộng các hình thức thanh tốn mới, đặc biệt là phương thức
thanh toán dựa trên nền tảng di động. Điện thoại thông minh đã làm thay đổi nhận thức
của người sử dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó bao gồm giao dịch tài chính - ngân
hàng, mua sắm,… Việc sử dụng điện thoại thông minh ngày càng phổ biến cùng với sự
phát triển mạnh mẽ của Fintech kỳ vọng sẽ góp phần đưa tỷ trọng tiền mặt trên tổng
phương tiện thanh toán xuống 8% vào cuối năm 2025.

Bảng 1: Số thuê bao di động và internet băng rộng cố định
Đơn vị tính: Nghìn th bao

6



Số thuê bao di động
trong số thuê bao điện thoại

Năm
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Sơ bộ
2019

123736
132469
123925
125455
115015
130418

Số thuê bao
internet băng rộng cố
định (ADSL)
5152,6
6000,5
7657,6
9098,2
11269,9

12994,0

126151

14802,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Đồ thị 4: Tỷ lệ người dân sử dụng internet trong tổng số dân
70
60
50

53

40

35.07
30

36.8

38.5

2012

2013

41

58.14


45

20
10
0
2011

2014

2015

2016

2017

Nguồn World Bank 2020
2.4. Tài chính tồn diện
Thúc đẩy tài chính tồn diện và phát triển TTKDTM có thể coi là hai nhiệm vụ
khơng thể tách rời, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay. Trong các chỉ tiêu có liên quan đến TTKDTM chiếm tới 7/12 nhóm chỉ tiêu liên
quan đến tiếp cận tài chính của người dân trưởng thành và 2/3 nhóm chỉ tiêu liên quan
đến tiếp cận tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù việc tiếp cận dịch vụ tài chính ngân
hàng cịn khó khăn, số chi nhánh NHTM/100.000 người trưởng thành còn thấp, tuy
nhiên, tỷ lệ ATM trên 100.000 người trưởng thành có xu hướng tăng (đồ thị 5). Mức độ
sử dụng tài chính tồn diện của Việt Nam cũng có xu hướng gia tăng (đồ thị 6).
Đồ thị 5: Tiếp cận tài chính toàn diện của Việt Nam

7



30.00
25.00
20.00

19.48

22.51

21.70

20.54

24.34

24.02

23.54

15.00
10.00
3.52

5.00
0.00

2011

3.09
2012


3.80

3.62
2013

2014

ATM/100.000 người trưởng thành

3.80

3.72
2015

3.41

2016

2017

Chi nhánh NHTM/ 100.000 người trưởng thành

Nguồn: World Bank 2020
Đồ thị 6: Mức độ sử dụng tài chính tồn diện của Việt Nam
35.00

30.86

30.86


30.86

30.00
25.00

30.00

30.00

26.70

26.51

26.70

21.37

21.37

20.00
15.00

14.59

14.59

10.00
5.00
0.00


lệ người3dân
1.241
1.242 Tỷ
Tỷ lệ người dân
Tỷ lệ người dân
2011
2012
2013
21.37
14.59
1.24

5

6

4
từ 15 tuổi trở lên1.93
có tài khoản.
từ 15 tuổi trở lên có thẻ ghi nợ.
từ 15 tuổi trở lên có thẻ tín dụng
2014
2015
2016
26.51
1.93
26.51
1.93


8

7

4.10
2017

4.10
2018

Nguồn: World Bank 2020
2.5. Sự phát triển của các công ty Fintech
Hiện nay, tại Việt Nam có khoảng 150 cơng ty Fintech, hoạt động trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, trong đó, phần lớn các cơng ty Fintech đang hợp tác với các NHTM theo
mơ hình hợp tác kinh doanh. Hai thị trường mà các công ty Fintech tập trung phát triển
gồm: thanh toán cho khách hàng cá nhân và nhà bán lẻ, và thanh toán cho doanh nghiệp
và nhà bán lẻ. Fintech thanh toán tiêu dùng và bán lẻ bao gồm ví điện thoại di động,
thanh toán ngang hàng (P2P), ngoại tệ và kiều hối, thanh toán theo thời gian thực và các
giải pháp tiền kỹ thuật số. Fintech thanh tốn bán bn qua trung tâm thanh toán ngân
hàng (bank payments hubs), chuỗi cung ứng tài chính (supply chain finance) và giải pháp
dựa trên tiền tệ số. Theo Đỗ Thị Hà Thương (2019), Fintech có ảnh hưởng khơng nhỏ đối
với thị trường tài chính nói chung và lĩnh vực thanh tốn tại Việt Nam nói riêng. Thực tế
cho thấy, lĩnh vực mà các công ty Fintech tham gia trên thị trường Việt Nam chiếm tỷ
trọng lớn là ở mảng thanh tốn (60,526% so với tồn bộ các lĩnh vực hoạt động của các

8


công ty Fintech), tiếp đến là hoạt động Crowdfunding (chiếm 10,526%),
Bitcoin/Blockchain (7,895%), POS/mPOS Management (5,263%), Data Management

(5,263%), Personal Fiance (5,263%), Lending (2,632%) và Comparision sites (2,632%)
(Trần Nguyễn Minh Hải (2020).
Bên cạnh đó, 34 tổ chức phi ngân hàng đã được NHNN cấp phép để cung ứng dịch
vụ trung gian thanh tốn, bao gồm, chuyển mạch tài chính, bù trừ điện tử, cổng thanh
toán, hỗ trợ chuyển tiền kiều hối, hỗ trợ thu hộ/chi hộ, ví điện tử. Số lượng ví điện tử đã
đạt 10,5 triệu ví và 77,5 triệu giao dịch tính đến hết quý I/2019, tăng trưởng 56% so với
quý I/2018. Lĩnh vực Fintech tại Việt Nam đã và đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt
của các công ty, doanh nghiệp công nghệ lớn như FPT, Viettel, VNPT tham gia vào thị
trường… qua cả hai hình thức trực tiếp và gián tiếp như đầu tư hình thành các công ty
Fintech, thành lập các quỹ đầu tư, vườn ươm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp Fintech…
(Nghiêm Thanh Sơn, 2019). Sự hợp tác giữa các ngân hàng và công ty Fintech diễn ra
mạnh mẽ sẽ góp phần khơng nhỏ vào thúc đẩy phát triển TTKDTM tại Việt Nam.
3. Thách thức đối với thanh tốn khơng dùng tiền mặt tại Việt Nam
3.1. Rủi ro trong các hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
Công nghệ ngân hàng phát triển mang lại nhiều tiện ích cho các bên tham gia,
trong đó có TTKDTM. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như: người bán
chuyển giao tài sản tài chính nhưng khơng nhận được tiền thanh tốn; người mua thanh
tốn nhưng khơng nhận được tài sản; bên đối tác khơng thanh tốn tồn bộ giá trị của một
nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn; việc thanh tốn một nghĩa vụ thanh tốn khơng được
hồn tất do: thiếu luật, thiếu quy định pháp lý để giải quyết;…; hay một bên tham gia
khơng có khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán của một ngân hàng, gây ra các bên tham
gia khác trong hệ thống không thể thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn.
Việc lựa chọn sử dụng nền tảng thanh toán di động là sự đánh đổi giữa tính thuận
tiện và quyền riêng tư của mỗi cá nhân. Hiện tại, với hành lang pháp lý còn lỏng lẻo, các
hãng công nghệ tùy ý sử dụng các thông tin tiêu dùng của hàng triệu khách hàng của
mình cho các mục đích khác nhau. Thơng tin của khách hàng có thể được bán cho các
cơng ty nghiên cứu thị trường hoặc dùng để định vị cho những chiến lược quảng cáo mà
chưa được sự cho phép của người dùng. Đây có thể xem là một lỗ hổng pháp lý hiện nay
tại Việt Nam khi mà các ông lớn công nghệ như Google, Facebook hay các website
thương mại điện tử đang sử dụng thông tin về hành vi người dùng cho mục đích định vị

quảng cáo mà người dùng khơng được thông báo. Lỗ hổng pháp lý này sẽ trở nên nghiêm
trọng hơn trong thời đại của ví tiền điện tử, khi mọi thông tin tiêu dùng của mỗi cá nhân
đều được ghi nhận sau những cú chạm điện thoại. Trước tình hình đó, ngày 26/5/2020,
Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Chỉ thị số 22/CT-TTg về việc đẩy mạnh triển
khai các giải pháp phát triển TTKDTM tại Việt Nam. Trong đó, NHNN được giao khẩn
trương hồn thành việc rà sốt, sửa đổi, bổ sung, hồn thiện hành lang pháp lý cho hoạt
động TTKDTM, thanh toán điện tử, đáp ứng u cầu phát triển các mơ hình, sản phẩm
dịch vụ thanh toán mới.
3.2. Thách thức đối với lĩnh vực ngân hàng trong thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0
9


Với những tiến bộ về khoa học công nghệ, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày
càng đa dạng, đặt ra thách thức không nhỏ cho NHNN trong việc quản lý cấp phép, giám
sát hoạt động cũng như kiểm soát dịng tiền thanh tốn từ các tổ chức này.
Sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số kéo theo sự gia tăng những lỗ
hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm công nghệ cao, tin tặc hoạt động ngày càng
thường xuyên. Ngoài việc làm tê liệt mọi giao dịch của ngân hàng, loại tội phạm công
nghệ cao ln rình rập, tấn cơng vào tài khoản, làm giả phôi thẻ và ăn cắp tiền của khách
hàng, các tin tặc cịn có thể tấn cơng trực diện vào hệ thống của một ngân hàng, thực hiện
chuyển tiền với số lượng lớn. Các ngân hàng cần phải có các cơ chế bảo mật cao, cơ chế
ngăn ngừa nhiều tầng để ngăn chặn các cuộc tấn công, đồng thời áp dụng những cách
thức phòng thủ mới.
3.3. Rào cản trong phát triển thanh tốn khơng dùng tiền mặt tại khu vực nơng
thơn
Hiện tại, việc phát triển TTKDTM ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực nơng thơn vẫn
cịn nhiều hạn chế. Tại những vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đại bộ phận
người dân chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ và tiện ích thanh tốn hiện đại. Thực
tế, đối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc rút, sử dụng và trả nợ

của người vay bằng tiền mặt còn rất lớn. Tỷ trọng sử dụng tiền mặt trong các hợp tác xã,
các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, chủ trang trại cịn lớn hơn. Thói quen tiêu dùng bằng
tiền mặt đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân, do vậy, việc triển khai TTKDTM gặp
nhiều khó khăn.
Người tiêu dùng trong nước nói chung, người dân ở khu vực nơng thơn nói riêng
vẫn duy trì thói quen sử dụng tiền mặt bởi phương thức thanh tốn này nhanh, thuận tiện,
khơng phức tạp và được chấp nhận ở mọi nơi. Thanh toán bằng tiền mặt giúp họ dễ dàng
quản lý ngân sách mà khơng lo phát sinh chi phí; đồng thời, thanh tốn bằng tiền mặt
khơng để lại dấu vết giao dịch và khơng lộ thơng tin cá nhân. Ngồi ra, một nguyên nhân
căn bản khiến cho việc phát triển TTKDTM còn nhiều hạn chế tại Việt Nam nói chung và
khu vực nơng thơn nói riêng chính là vấn đề liên quan đến hệ thống hạ tầng công nghệ.
Mạng lưới chi nhánh, cơ sở hạ tầng thanh toán chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, nên
việc triển khai TTKDTM ở khu vực nơng thơn cũng gặp khó khăn. Đặc biệt, các sản
phẩm, dịch vụ tài chính chưa được thiết kế để phù hợp với hành vi, nhu cầu người sử
dụng ở khu vực nông thôn, nhất là dịch vụ tài chính số, thanh tốn qua điện thoại di động.
Tài liệu tham khảo
1.
Chỉ thị số 22/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 26/5/2020 về
việc đẩy mạnh triển khai các giải pháp phát triển TTKDTM tại Việt Nam.
2.
Đỗ Thị Hà Thương (2019). Phát huy vai trị của Fintech trong thanh tốn
khơng dùng tiền mặt tại Việt Nam. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, số 17.
/>
10


3.
Hạ Thị Thiều Dao và Trần Nguyễn Minh Hải (2019). Đề xuất mơ hình bảo
đảm an ninh mạng trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam: Cách tiếp cận các bên liên
quan. Tạp chí Ngân hàng, số 19, tháng 10/2019, tr. 18-23.

4.
Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
29/12/2006 phê duyệt Đề án TTKDTM giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm
2020.
5.
Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành phê duyệt Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020.
6.
Nghị định 101/2012/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 22
tháng 11 năm 2012 về thanh tốn khơng dùng tiền mặt.
7.
Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 01/01/2019 về tiếp
tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường cạnh tranh, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021.
8.
Nghiêm Thanh Sơn (2019). Fintech tại Việt Nam: Nắm bắt xu hướng để
“chuyển mình” phát triển. />9.
Trần Nguyễn Minh Hải (2020). Phát triển Fintech trong lĩnh vực thanh tốn
tại Việt Nam. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ.
/>
11



×