Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

KẾT QUẢ sớm PHẪU THUẬT cắt GAN điều TRỊ u NGUYÊN bào GAN ở TRẺ EM tại BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y H NI

PHAN HNG LONG

KếT QUả SớM PHẫU THUậT CắT GAN
ĐIềU TRị U NGuyên BàO GAN ở TRẻ EM
TạI BệNH VIệN NHI TRUNG ƯƠNG

LUN VN THC S Y HC

H NI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHAN HỒNG LONG

KÕT QU¶ SíM PHẫU THUậT CắT GAN
ĐIềU TRị U NGuyên BàO GAN ở TRẻ EM
TạI BệNH VIệN NHI TRUNG ƯƠNG
Chuyờn ngnh: Ngoi khoa
Mó số: 60720123
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:


TS. Phạm Duy Hiền

HÀ NỘI - 2019
LỜI CẢM ƠN


Để hồn thành đề tài nghiên cứu này tơi xin chân thành cảm ơn Ban
giám hiệu, phòng Đào tạo sau đại học, bộ môn Ngoại trường Đại học Y Hà
Nội, cùng tồn thể các thầy cơ giáo đã quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất cho tơi
trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn sâu sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn
của tôi Tiến Sĩ Phạm Duy Hiền, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ,
tận tình dạy dỗ, truyền đạt cho tôi những ý kiến quý báu trong con đường học
tập, nghiên cứu khoa học, người luôn động viên và tiếp thêm động lực cho tơi
hồn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ, nhân viên khoa Ngoại tổng
hợp, phòng kế hoạch tổng hợp, phòng lưu trữ hồ sơ bệnh án Bệnh viện Nhi
Trung ương đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt
q trình thu thập số liệu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng xin dành tất cả tình cảm yêu quý và biết ơn đến gia đình, bạn
bè, những người luôn đồng hành và động viên tôi trong thời gian vừa qua.

Phan Hồng Long


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Phan Hồng Long, học viên lớp nội trú Ngoại khoa khóa 42
Trường Đại Học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Phạm Duy Hiền.

2. Cơng trình này khơng trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hồn tồn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nghiệm về những cam kết này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Phan Hồng Long


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

APC

: Adenomatous Polyposis Coli

AFP

: Alpha – fetoprotein

BWS

: Beckwith – Wiedemann Syndrome

CLVT

: Cắt lớp vi tính


CUSA

: Cavitron Ultrasonic Surgical Aspirator

CK

: Cytokeratin

FAP

: Familial Adenomatous Polyposis

HCC

: Hepatocellular carcinoma

ICCC

: International Classification of Childhood Cancer

ISGLS

: International Study Group of Liver Surgery

IL

: Interleukin

MRI


: Magnetic resonance imaging

MT

: Macrotrabeculae

PFH

: Pure Fetal Histology

PHITT

: Pediatric Hepatic International Tumor Trial

PLADO

: CisPLAtin + DOxorubicin

PRETEXT

: Pre-treatment Tumor Extend

PVE

: Portal Vein Embolization

SCUD

: Small Cell Undifferentiated Histology


SIOPEL

: International Society of Pediatric Oncology Epithelial Liver Group

TACE

: Transarterial Chemoembolization

UNBG

: U nguyên bào gan

WHO

: World Health Organization


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH


10


ĐẶT VẤN ĐỀ
U nguyên bào gan (UNBG) là loại u gan ác tính thường gặp nhất ở trẻ
em, chiếm khoảng 1% tổng số các loại ung thư ở trẻ em [1]. UNBG có tỷ lệ
mắc cao nhất là ở trẻ dưới 1 tuổi – 11,2/1 triệu trẻ và giảm dần theo tuổi, hầu
hết gặp ở trẻ dưới 5 tuổi và thường gặp ở nam hơn ở nữ [2]. Nguyên nhân gây
bệnh còn chưa được biết rõ, tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy UNBG thường
kết hợp với hội chứng Beckwith – Wiedemann (BWS), bệnh đa polýp tuyến
có tính chất gia đình (FAP) và ở trẻ đẻ non hoặc có cân nặng thấp khi sinh [3],
[2],[4],[5].
Tại Mỹ hằng năm có gần 100 bệnh nhi mắc UNBG được ghi nhận.
Trong 21 năm từ 1975 – 1995, tần số mắc bệnh UNBG ở trẻ em Mỹ gần như
tăng gấp đôi từ 0,8/1 triệu trẻ (1975 – 1983) đến 1,7/1 triệu trẻ (1990 – 1995)
[6],[1]. Ở Việt Nam, năm 2004, Nguyễn Phạm Anh Hoa nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng và cận lâm sàng các khối u gan nguyên phát ở trẻ em có 69,7% là u
ác tính, trong đó UNBG chiếm khoảng 47,9% [7].
Biểu hiện lâm sàng của u gan nói chung và UNBG nói riêng là các triệu
chứng khơng đặc hiệu, trong đó gan to, bố mẹ trẻ sờ thấy khối ở gan là triệu
chứng quan trọng cũng lý do khiến trẻ đi khám. Chẩn đốn UNBG chủ yếu
dựa vào lâm sàng có khối u vùng hạ sườn phải, cận lâm sàng dựa trên siêu
âm, chụp cắt lớp vi tính và xét nghiệm nồng độ AFP trong máu [8]. Trước đây
do thiếu các phương tiện chẩn đoán nên UNBG thường được phát hiện muộn
khiến cho tỷ lệ tử vong của bệnh rất cao [7].
Kết quả điều trị u nguyên bào gan trong các nghiên cứu gần đây cho
thấy sự cải thiện đáng kể, tỉ lệ sống thêm 5 năm của u nguyên bào gan giai
đoạn I, II tăng từ 60% đến 75% [9]. Đó là kết quả của những tiến bộ trong
phẫu thuật kết hợp với điều trị hóa chất. Phẫu thuật cắt hết hồn tồn u là điều
kiện chính quyết định khỏi bệnh, hóa trị liệu có vai trị làm giảm kích thước



11

khối u, làm cho u có thể cắt bỏ được, kiểm soát bệnh tồn dư vi thể sau phẫu
thuật cũng như tiêu diệt các ổ di căn [10].
Phẫu thuật cắt gan ở trẻ em là một phẫu thuật khó, nguy cơ biến chứng và
tử vong cao [11]. Năm 1908, Hogarth Pringgle đã mơ tả kỹ thuật kiểm sốt
chảy máu lúc mổ bằng ngón tay ép vào rốn gan với 6 ca [12]. Lortat – Jacob
(1952) trình bày kỹ thuật cắt gan bằng phẫu tích và kiểm sốt mạch máu của
cuống gan [13]. Tại Việt Nam, từ năm 1939, Tôn Thất Tùng đã khảo sát giải
phẫu học “Sự phân bố các tĩnh mạch của gan và những áp dụng để cắt gan” và
thực hiện phương pháp cắt gan có kế hoạch gọi là “Kỹ thuật cắt gan bằng
cách thắt các cuống Glisson trong nhu mô gan” [14].
Từ năm 2004 – 2011, tác giả Trần Ngọc Sơn báo cáo 75 trường hợp phẫu
thuật điều trị u gan tại Bệnh viện Nhi Trung ương, trong đó có 52 bệnh nhân
chẩn đốn UNBG được phẫu thuật cắt gan thành công với tỷ lệ biến chứng
1,9%, khơng có bệnh nhân nào tử vong [15]. Năm 2015, Trương Đình Khải
nghiên cứu 31 trường hợp UNBG được phẫu thuật kết hợp với hóa trị, kết quả
61,2% đáp ứng hoàn toàn, thời gian sống thêm 4 năm là 66% [16].
Ngày nay, với sự phát triển của phẫu thuật, gây mê hồi sức, kết quả phẫu
thuật cắt gan điều trị UNBG ở trẻ em đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ tử vong
quanh mổ thấp. Tuy nhiên tỷ lệ biến chứng như chảy máu, rò mật, tắc mật, suy
gan, tụ dịch kéo dài, nhiễm trùng vẫn còn khá cao khoảng 30% [17],[18].
Do vậy với mong muốn đánh giá khả năng thực hiện, tính an tồn và hiệu
quả của phẫu thuật cắt gan ở trẻ em, chúng tôi tiến hành đề tài: “Kết quả sớm
phẫu thuật cắt gan điều trị u nguyên bào gan ở trẻ em tại bệnh viên Nhi
Trung Ương” với hai mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng u nguyên bào gan ở trẻ em
đã phẫu thuật.
2. Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật điều trị u nguyên bào gan ở trẻ em
tại Bệnh viện Nhi Trung ương.



12

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu gan
1.1.1. Hình thể ngồi
Gan có màu nâu đá, mật độ chắc, nặng khoảng 1500g nhu mơ và chứa
khoảng 800 – 900g máu. Kích thước chỗ to nhất thùy phải dài
25 – 28cm, rộng 16 – 20cm, dày 6 – 8cm. Gan có hình giống quả dưa hấu cắt
chếch từ trái sang phải theo một bình diện nhìn lên trên, ra trước và sang phải.
Nhìn bề ngồi gan như bị chia bởi dây chằng liềm ở mặt trên và rãnh dọc trái
ở mặt dưới làm 2 thùy: Thùy phải lớn và thùy trái nhỏ. Gan có 3 mặt: mặt
trên, mặt dưới và mặt sau [19].

Hình 1.1. Hình thể ngồi của gan [20]
1.1.1.1. Các khe của gan [21],[22].


13

-

Gan được chia thành nhiều phần nhỏ bởi các khe hay rãnh:
Khe giữa: Chia gan thành 2 phần cân xứng và độc lập với nhau, mỗi phần có
tĩnh mạch, động mạch và đường mật riêng. Khe này nằm trên một mặt phẳng
tạo với mặt dưới gan một góc 75 – 80 o mở về phía trái. Mặt trái khe này xuất
phát từ điểm giữa giường túi mật đến bờ trái tĩnh mạch chủ dưới ngay chỗ đổ
vào của tĩnh mạch gan trái. Mặt dưới gan, mặt phẳng này chia giường túi mật

thành hai phần bằng nhau rồi qua cuống gan phải, qua vùng đuôi đến bờ trái
tĩnh mạch chủ dưới, đây chính là giới hạn phân chia thành 2 nửa gan: gan phải

-

và gan trái. Trong khe này có tĩnh mạch gan giữa.
Khe rốn: Khe duy nhất thể hiện ở mặt trên gan, chính là chỗ bám của dây
chằng liềm. Khe này chia gan làm 2 thùy: thùy phải to và thùy trái nhỏ. Khe
rốn tạo thành một mặt phẳng hợp với mặt dưới gan một góc 45 o mở về phía
trái. Đầu trước khe là dây chằng trịn, đầu sau là ống Arantius. Khe rốn có ít
mạch máu, gan ở chỗ này khá mỏng nên trong phẫu thuật thường đi theo

-

đường này để cắt thùy gan trái.
Khe bên phải: Bắt đầu ở bờ trước nơi điểm giữa của góc gan phải và bờ phải
giường túi mật và kết thúc ở phía sau nơi tĩnh mạch gan phải đổ vào tĩnh
mạch chủ dưới. Ở mặt trên gan khe này đi song song với bờ phải của gan, mặt
dưới gan đi qua đầu rãnh ngang của rốn gan và qua vùng đuôi của thùy
Spiegel. Mặt phẳng của khe này hợp với mặt phẳng dưới gan một góc 30 –
45o mở về phía trái. Khe này chia gan phải làm 2 phân thùy: Phân thùy trước

-

và phân thùy sau, trong khe này có tĩnh mạch trên gan phải.
Khe bên trái: Theo Tơn Thất Tùng nó đi theo đường chéo từ bờ trái tĩnh mạch
chủ dưới tới bờ trước thùy gan trái ở 1 điểm cách điểm giữa đoạn từ dây
chằng tròn đến dây chằng tam giác trái một khốt ngón tay về phía trái. Khe
bên trái chia thùy trái làm 2 hạ phân thùy: Hạ phân thùy II và III. Trong khe
có tĩnh mạch gan trái.



14

Hình 1.2. Các khe, rãnh của gan [22].
“Nguồn: Gray's Anatomy, 2008”
1.1.1.2. Cuống gan và các thành phần cuống gan [21],[23].
Cuống gan hay cuống Glisson gồm 3 thành phần: Tĩnh mạch cửa, động
mạch gan, đường mật. Các thành phần này đi cùng nhau, được bọc chung
trong bao Glisson và phân chia trong gan gần như nhau, vì vậy đa số các tác
giả không mô tả riêng từng thành phần mà mô tả chung thành 2 cuống: Cuống
-

phải và cuống trái.
Cuống phải: Từ chỗ chia đôi ở rốn gan cuống phải chạy sang phải dài 1cm,
khi đến đầu rãnh rốn trước mỏm đi thì chia làm 2: một chạy ngang sang
phải cho phân thùy sau, 1 chạy thẳng lên trên cho phân thùy trước.
+ Cuống phân thùy sau: Đường đi của cuống này là một đường vịng
cung mở ra sau trong. Phía mặt lồi của vòng cung cho 4 – 6 nhánh, mỗi nhánh
cách nhau 1cm, các nhánh này làm thành một mặt phẳng song song với mặt


15

dưới gan. Cuống phân thùy sau tận cùng bởi 2 nhánh: 1 nhánh đi ra phía trước
tới góc phải của gan cho hạ phân thùy VI, 1 nhánh đi ra phía sau tới bờ phải
tĩnh mạch chủ dưới cho hạ phân thùy VII.
+ Cuống phân thùy trước: Lớn và dài, ít nhất là 1cm, đó là điều kiện tốt để
phẫu thuật cắt phân thùy trước. Cuống này lúc đầu đi thẳng lên trên, thẳng góc
tới mặt dưới gan, phân nhánh cho hạ phân thùy V rồi quặt ra sau tận cùng bằng 2

nhánh cho hạ phân thùy VIII, mỗi nhánh tận cùng cho 4 – 6 nhánh nhỏ.
Về liên quan giữa các thành phần của cuống gan phải thường thấy ống
-

mật chủ nằm trên, sau là tĩnh mạch cửa và động mạch gan.
Cuống trái: Nằm trong rãnh rốn gan dài gấp 4 lần cuống phải, đó là điều kiện
tốt nhất để cắt gan trái, nó nằm mặt trước thùy Spiegel (thùy Spiegel là mốc
để tìm cuống gan trái cũng như mỏm đi là mốc tìm cuống phải). Cuống trái
lúc đầu chạy sang trái hơi lệch sau, sau đó quặt ra trước theo góc vng tạo
nên đoạn sau trước và tận cùng ở bờ trước của gan nơi bám của dây chằng
trịn. Cuống trái có 3 nhóm nhánh bên: Bờ phải của dây chằng tròn cho 2 – 5
nhánh vào hạ phân thùy IV, bờ trái cho hạ phân thùy III, sườn trái cho hạ phân
thùy II.
Về liên quan các thành phần của cuống trái: Đường mật nằm trên tĩnh
mạch cửa nên rất khó thấy, động mạch ở phía trước nên rất dễ tìm. Tĩnh mạch
cửa có 2 đoạn vng góc nhau là đoạn ngang và đoạn sau trước. Đoạn sau
trước cịn gọi là ngách Rex. Ngách Rex có đường kính gấp 2 lần tĩnh mạch
cửa trái, đầu trước của ngách tương ứng với dây chằng tròn, đầu sau tương
ứng với chỗ bám của ống Arantius; ống này đi theo mặt trái của thùy Spiegel
để tận cùng ở tĩnh mạch chủ dưới.


16

3
1

2
4


Hình 1.3. Sơ đồ các thành phần của cuống Glisson
1.

Bao Glisson 2. Ống mật chủ 3. Động mạch gan 4. Tĩnh mạch cửa
“Nguồn: Ken Takasaki, 2007” [23].

1.1.1.3. Tĩnh mạch gan [21].
Tĩnh mạch gan giữa: Nằm trong mặt phẳng của khe giữa, có thể tìm
thấy bằng cách rạch ở mặt trên gan theo đường đi từ điểm giữa tĩnh mạch chủ
dưới đến điểm giữa của hố túi mật theo một mặt phẳng làm với mặt dưới gan
một góc 70o mở sang trái. Tĩnh mạch này bắt đầu từ 2 nhánh hạ phân thùy V
và phân thùy IV. Nơi xuất phát của tĩnh mạch gan giữa ở trên và trước chỗ
chia đôi tĩnh mạch cửa có 2 nhánh bên: Một nhánh ở hạ phân thùy VIII và
một nhánh ở hạ phân thùy IV. Như vậy tĩnh mạch gan giữa nhận máu của
phân thùy IV, phân thùy trước và đổ vào tĩnh mạch chủ dưới. Tĩnh mạch gan
giữa được coi là trục của gan.


17

Tĩnh mạch gan phải: Là tĩnh mạch lớn nhất của hệ thống các tĩnh mạch
gan, nó có thể to bằng tĩnh mạch chủ dưới, dài 11 – 12cm. Tĩnh mạch gan
phải đi từ bờ trước gan, gần góc phải và chạy theo đúng đường đi của khe bên
phải để đổ vào tĩnh mạch chủ dưới, ở dưới cực trên của thùy Spiegel, thấp
hơn 1 – 2cm so với chỗ đổ vào tĩnh mạch chủ dưới của tĩnh mạch gan giữa và
tĩnh mạch gan trái. Tĩnh mạch gan phải nhận máu của phân thùy sau và phân
thùy trước, có khoảng 5 đến 12 nhánh bên, trong đó hơn 50% có kích thước
lớn (còn được gọi là tĩnh mạch gan phải phụ). Trong phẫu thuật cắt gan phân
thùy trước hay phân thùy sau cần bảo vệ tĩnh mạch này để đảm bảo nhận máu
của phần gan còn lại.

Tĩnh mạch gan trái: nằm trong khe trái, tĩnh mạch này được tạo nên do
sự hợp lại của ba tĩnh mạch: Một chạy theo chiều trước sau dẫn máu từ hạ
phân thùy III, một chạy ngang dẫn máu từ hạ phân thùy II, một trung gian
nằm theo đường phân giác của hai tĩnh mạch này. Có một nhánh bên quan
trọng nằm dọc theo khe rốn gọi là tĩnh mạch liên phân thùy, nhận máu của
thùy trái và hạ phân thùy IV. Tĩnh mạch này rất ngắn, 1 – 2cm, đi trên thùy
Spiegel để cùng tĩnh mạch gan giữa đổ vào thân chung. Thân chung này chỉ
dài 5mm và đổ vào tĩnh mạch chủ dưới ở phía bên trái tĩnh mạch này.
Tĩnh mạch Spiegel: Nhận trực tiếp máu của thùy Spiegel và vùng xung
quanh, gồm hai nhóm: Nhóm một gồm các tĩnh mạch nhỏ đổ thẳng vào tĩnh
mạch chủ dưới sắp xếp theo chiều dài của tĩnh mạch chủ dưới, nhóm hai gồm
những tĩnh mạch tương đối lớn và rất đều đặn. Tất cả những tĩnh mạch này
đều nằm trong thùy Spiegel. Thùy Sipegel có 3 tĩnh mạch chính: Tĩnh mạch
gan trên, giữa và dưới của thùy đuôi.
Tĩnh mạch gan phải phụ (tĩnh mạch Makuuchi): là những tĩnh mạch
nhỏ, dẫn máu trực tiếp từ các phần gan phải, gặp trong 40% các trường hợp,
đường kính từ 2 – 10mm, số lượng từ 1 đến 10 nhánh, đổ thẳng vào mặt bên
tĩnh mạch chủ dưới.


18

1

2
3

Hình 1.4. Sơ đồ các tĩnh mạch gan
1.


Tĩnh mạch gan phải 2. Tĩnh mạch gan giữa 3. Tĩnh mạch gan trái
“Nguồn: Ken Takasaki, 2007” [23].

1.1.1.4. Phân chia thùy gan
Có nhiều cách phân chia phân thùy gan.
- Couinaud phân chia gan làm hai nửa gan phải và gan trái tách biệt
nhau bởi rãnh chính, rãnh theo trục tĩnh mạch gan giữa với mốc là đường
nối bờ trái tĩnh mạch chủ dưới tới điểm giữa giường túi mật. Gan phải bao
gồm: phân thùy V, VI, VII, VIII. Phân thùy V và VIII hợp thành khu vực
cạnh giữa phải. Phân thùy VI và VII hợp thành khu vực bên phải. Gan trái
bao gồm phân thùy II, III và IV. Phân thùy II và III hợp thành khu vực bên
trái. Phân thùy IV tương đương với khu vực cạnh giữa trái. Còn phân thùy I
còn gọi là phân thùy Spiegel tương ứng với phần gan nằm trước tĩnh mạch
chủ dưới [24].
- Tôn Thất Tùng: Dựa trên sự phân bố của cuống Glisson và hệ tĩnh mạch
trên gan, Tôn Thất Tùng đã phân chia gan ra làm các phân thùy và hạ phân thùy
từ năm 1937. Phương pháp phân chia này là nền tảng cho phương pháp cắt gan
có kế hoạch, nên đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam và trên thế giới. Phương
pháp cắt gan này được đặt tên là phương pháp Tôn Thất Tùng [25].


19

+ Gan được chia làm 2 phần: Gan phải và gan trái cách nhau bởi khe
giữa, ở mặt trên gan, khe này đi từ giường túi mật ở phía trước tới bờ trái của
tĩnh mạch chủ dưới, ngang với chỗ đổ vào tĩnh mạch chủ bụng của tĩnh mạch
gan giữa.
+ Hai thùy gan phải và gan trái cách nhau bởi khe rốn, là khe duy nhất
thấy rõ ở mặt trên gan từ chỗ bám của dây chằng tròn, liên tiếp với ống
Arantius ở mặt dưới và dây chằng liềm ở mặt trên

+ Năm phân thùy: Sau, trước, giữa, lưng và bên.
+ Tám hạ phân thùy: I, II, III, IV, V, VI, VII, VIII. Trong đó hạ phân
thùy I chính là phân thùy lưng, hạ phân thùy IV chính là phân thùy giữa.

Hình 1.5. Phân thùy gan theo Couinaud
“Nguồn: Dilip Chakravarty K, 2010” [26].
1.1.1.5. Đường mật trong gan và ngoài gan [24].
Hệ thống đường mật được ví như một cây chia nhiều nhánh với nhiều
cấp khác nhau được chia thành đường mật trong gan và ngoài gan với ranh
giới là chỗ phân chia thứ 2 của cây đường mật (tương ứng với đường mật
phân thùy), ở trên là đường mật trong gan, ở dưới là đường mật ngoài gan.
Như vậy đường mật ngoài gan bao gồm ống gan phải, ống gan trái, ống gan
chung, ống túi mật, túi mật, ống mật chủ.


20

Dịch mật từ các tế bào gan tiết ra được đổ vào đường mật.
Đường mật được bắt đầu từ các tiểu quản mật, chúng khơng có thành
riêng mà được giới hạn bởi 2 – 3 màng tế bào gan lân cận, các tiểu quản mật
tập hợp thành những ống lớn hơn ở ngoại vi tiểu thùy gan, thành ống này
được cấu trúc từ các tế bào biểu mô đường mật, các ống nhỏ này hợp thành
các ống gian tiểu thùy rồi thành ống hạ phân thùy. Ống mật đi kèm tĩnh mạch
cửa, động mạch gan trong bộ ba thành phần khoảng cửa. Tĩnh mạch cửa, động
mạch gan dẫn máu vào gan, cùng phân nhánh với kích thước thu nhỏ dần đến
tận tiểu thùy gan. Hệ thống đường mật thì có hướng dẫn lưu ngược lại hợp
dần thành những nhánh lớn hơn hướng về rốn gan. Cả ba thành phần này
được bọc trong một bao xơ (bao Glisson). Thông thường các ống mật ở các hạ
phân thùy trong gan phải hợp thành ống gan phải, các ống mật ở các hạ phân
thùy trong gan trái hợp thành ống gan trái; hai ống gan này sẽ hợp lại với

nhau ở trước trên và hơi lệch sang phải chỗ chia đôi của tĩnh mạch cửa để tạo
thành ống gan chung. Ống gan chung nằm ở bờ tự do của mạc nối nhỏ cùng
với ống túi mật đổ xuống ống mật chủ rồi xuống tá tràng. Ống gan chung và
ống mật chủ là đường dẫn mật chính, túi mật và ống túi mật là đường dẫn mật
phụ. Ống mật chủ độ dài và đường kính tăng theo lứa tuổi, trung bình 5 –
6cm, đường kính khoảng 5 – 6mm được chia làm 4 đoạn: đoạn cuống gan,
đoạn sau tá tràng, đoạn sau tụy và đoạn trong thành tá tràng. Sau khi ra khỏi
cuống gan ống mật chủ đi chếch sang phải cùng với ống Wirsung đổ vào tá
tràng qua bóng Vater, xung quanh là cơ vịng Oddi có vai trị điều tiết mật.
1.1.2. Phơi thai học hình thành và phát triển của gan.
Kết thúc tuần thứ 3 của thai kỳ, nội bì ở đoạn xa của ruột trước dày lên
tạo thành một mầm gọi là mầm gan nguyên thủy. Tế bào nội bì của mầm gan
tăng sinh tạo các dây tế bào gan. Các nguyên bào gan (Hepatoblast) tạo thành
dây tiến vào vách ngang để ngăn khoang cơ thể thành khoang bụng và khoang


21

ngực. Ở đó, các dây tế bào gan phối hợp với những xoang máu phát sinh từ
các tĩnh mạch noãn hồng và tĩnh mạch rốn để tạo thành nhu mơ gan. Cịn mơ
liên kết của gan phát sinh từ trung mô vách ngang. Lúc đầu, các dây tế bào
gan và các mao mạch sắp xếp hỗn độn, không theo chiều hướng nào, về sau
chúng được tổ chức lại để tạo ra những tiểu thùy gan. Mỗi tiểu thùy gan là
khối đa diện, đường kính từ 1 – 2mm. Ở trung tâm mỗi tiểu thùy có một
nhánh tận cùng của tĩnh mạch gan gọi là tĩnh mạch trung tâm tiểu thùy. Từ
tĩnh mạch trung tâm tiểu thùy tỏa ra những dây tế bào nối với nhau thành lưới
gọi là bè Remark. Trong bè Remark có những khe nhỏ thơng với nhau và
chen giữa các tế bào gan gọi là những vi quản mật [27].
Các nguyên bào gan bắt đầu biệt hóa thành các tế bào gan trưởng thành
và cấu trúc tấm ống, chúng bắt đầu chế tiết α – fetoprotein (AFP) để phát

triển tế bào gan và cytokeratins 7 (CK7) và CK19 cho phát triển biểu mô
đường mật từ 1 tháng thai kỳ. Đến tuần thứ 5, các xoang mạch máu trong gan
hình thành. Hệ thống đường mật phát triển từ sự xâm nhập màng xảy ra giữa
các phức hợp nối giữa các nguyên bào gan, ban đầu chỉ mỏng như khoảng
gian bào và bắt đầu nhìn thấy ống mật vào tuần thứ 6, tổng hợp mật vào tuần
thứ 9 và bài tiết mật vào tuần thứ 12. Các tế bào Kuffer và tế bào nội mô xuất
hiện sau 3 tháng tuổi thai [28].
Tế bào gan phơi nhỏ, hình thoi, thẫm màu, ít nguyên sinh chất, xếp
thành dải, thành đám hoặc hình hoa hồng. Tế bào gan thai lớn hơn, nhiều
nguyên sinh chất hơn, xếp thành bè đều nhau kèm theo các xoang máu và tiểu
quản mật [29].
Như vậy, trong bệnh UNBG hình ảnh mơ bệnh học sẽ mơ phỏng theo
sự phát triển của gan các thời kỳ. Về tế bào, UNBG đa dạng thay đổi theo độ
biệt hóa của nguyên bào gan [16].


22

Hình 1.6. Mầm gan được hình thành lúc phơi được 36 ngày.
“Nguồn: Gary C. Kanel, 2011”[27].
1.2. Các hình thái cắt gan
Theo Tơn Thất Tùng, có hai loại cắt gan: Cắt gan lớn khi ta cắt từ ba hạ
phân thùy trở lên và cắt gan nhỏ khi ta cắt dưới một phân thùy [14]. Năm
2000 tại Brisbane (Úc) hội nghị phẫu thuật gan thế giới có sự thống nhất về
giải phẫu gan (dựa trên nền tảng phân chia gan của Couinaud) và phẫu thuật
cắt gan [30].
Bảng 1.1. Tên gọi các phẫu thuật cắt gan theo Brisbane 2000 [30].
Tên giải
phẫu


Việt Nam

Brisbane (2000)

II, III, IV
(± I)

Cắt gan trái

Left
hemihepatectomy

V, VI, VII,
VIII (± I)

Cắt gan phải

Right
hemihepatectomy

Cắt thùy trái

Left lateral
sectionectomy OR
Bisegmentectomy
II, III

II, III

Hình ảnh



23

VI, VII

Cắt phân thùy sau

V, VIII

Cắt phân thùy
trước

I – II – III ...
– VIII

Cắt hạ phân thùy

IV, V, VI, VII, Cắt thùy phải hoặc
VIII
cắt gan phải mở
(± I)
rộng
II, III, IV, V,
VIII (± I)

Cắt gan trái mở
rộng

Bisegmentectomy

VI, VII OR Right
posterior
sectionectomy
Bisegmentectomy
V, VIII OR Right
anterior
sectianectomy
Segmentectomy
Extended right
hepatectomy OR
Right
trisectionectomy
Extended left
hepatectomy OR
Left
trisectionectomy

1.2.1. Cắt gan lớn
Là cắt từ ba hạ phân thùy trở lên bao gồm: Cắt gan trái (II, III, IV ± I),
cắt gan phải (V, VI, VII, VIII), cắt thùy phải (IV, V, VI, VII, VIII), cắt gan trái
mở rộng (II, III, IV, V, VIII ± I).
1.2.2. Cắt gan nhỏ
Là cắt một phân thùy hoặc dưới một phân thùy: Cắt phân thùy bên (hoặc
cắt thùy trái kinh điển), cắt phân thùy giữa, cắt phân thùy trước, cắt phân thùy
sau cắt phân thùy đuôi (phân thùy Spiegel), cắt hạ phân thùy.
1.3. Phẫu thuật cắt gan
Có hai điểm quan trọng nhất khi cắt gan là chống chảy máu và bảo vệ
nhu mô gan lành trong phẫu thuật. Để đạt được điều này cần phải lưu ý đến
các yếu tố sau:
-


Lựa chọn đường mổ: Tiêu chuẩn của một đường mổ cắt gan là phải bộc lộ


24

được gan và cuống mạch gan. Cụ thể là phải bộc lộ được hai điểm tận cùng
gan về bên phải và trái, phía trên phải bộc lộ nhìn rõ được hợp lưu của các
tĩnh mạch gan vào tĩnh mạch chủ dưới. Các đường mổ hay sử dụng để cắt
gan:
+ Đường dưới sườn hai bên: Đây là đường mổ kinh điển cho cắt gan,
đường mổ này cho phép bộc lộ gan tối đa về hai phía, giải phóng dễ dây
chằng tam giác phải và trái, dễ kiểm soát cuống gan. Đường mổ có đặc điểm
là cắt cơ nhiều nên gay đau cho bệnh nhân và ảnh hưởng đến hô hấp sau mổ.
Chỉ định của đường mổ này là trong các trường hợp cắt gan phải.
+ Đường mổ Mercedes: Gồm đường dưới sườn 2 bên và kéo lên phía
mũi ức. Đường mổ này là đường mổ rộng nhất ở ổ bụng có thể bộc lộ được
2 gan, dễ dàng thực hiện cắt gan phải. Nhược điểm gây đau và ảnh hưởng
đến hô hấp như đường dưới sườn 2 bên, ngoài ra tồn tại điểm yếu ở chỗ
giao 2 đường.
+ Đường mổ J: Được các tác giả nước ngồi u thích trong trường hợp
cắt gan phải vì nó cho phép bộc lộ tối đa gan phải cắt bỏ mà tránh được các
nhược điểm của đường Mercedes.
-

Các phương pháp cắt gan:
+ Phương pháp Tôn Thất Tùng (Cắt gan qua nhu mô) [14]:
Phương pháp này được cơng bố vào năm 1962 và nhanh chóng được áp
dụng rộng rãi ở Việt Nam và được thế giới biết đến. Nguyên lý của phương
pháp này là cặp cuống gan và tĩnh mạch gan phần gan cắt bỏ trong nhu mô

gan bằng cách làm vỡ nhu mô gan bằng ngón tay, hay bằng kẹp cắt gan. Thời
gian cặp cuống gan ngắn, qua nhu mô gan, thả cặp cuống gan và cầm máu
diện cắt gan.
Ưu điểm:
- Cắt được gan nhỏ: Phân thùy, hạ phân thùy.


25

- Tránh được các biến đổi giải phẫu cuống gan do kiểm soát được các
cuống mạch trong gan.
- Cắt gan tiết kiệm đủ lấy hết tổn thương.
- Nhanh hiệu quả trong phẫu thuật cắt gan.
+ Kỹ thuật cắt gan theo Lortat – Jacob:
Phương pháp cắt gan của Lortat – Jacob được thông báo năm 1952 [13].
Khác cơ bản với kỹ thuật của Tơn Thất Tùng là kiểm sốt, cặp cắt các
thành phần cuống gan ở ngồi gan sau đó mới cắt gan, sau khi thắt các thành
phần ngoài gan diện gan cắt sẽ đổi màu cho phép giải phóng gan không bị mất
máu nhiều và không giới hạn thời gian cắt.
Ưu điểm:
- Khống chế được các mạch máu ngoài gan (cắt theo diện thiếu máu).
- Giảm số lượng máu mất trong mổ.
- An toàn tránh được biến chứng tắc mạch do khí do đã kiểm sốt được
tĩnh mạch trên gan.
- Ứng dụng nhiều trong ghép gan do tổn thương nhu mơ gan và cuống
mạch trong gan ít.
Nhược điểm:
- Tìm các tĩnh mạch trên gan ở sau gan rất nguy hiểm do đoạn tĩnh mạch
ngoài gan rất ngắn nên dễ làm rách các tĩnh mạch này.
- Lấy nhiều tổ chức gan.

- Những bất thường về giải phẫu cuống gan rất thường gặp: ống mật gan
phải chạy sang trái.
+ Kỹ thuật cắt gan theo Henri – Bismuth [31]: Để khắc phục các nhược điểm
của 2 phương pháp cắt gan trên và tận dụng những ưu điểm của từng phương pháp,
Henri – Bismuth đã mô tả kỹ thuật cắt gan gồm các đặc điểm chính:
Phẫu tích các thành phần của cuống Glisson ngồi gan như kĩ thuật
Lortat – Jacob nhưng không thắt trước mà chỉ cặp lại để kiểm soát diện chảy


×