Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Vai trò của nguyễn ái quốc trong việc thành lập đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.74 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
.………***………..

TIỂU LUẬN MÔN HỌC:
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI 1:
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc
trong việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam

HỌ VÀ TÊN :
MSSV

:

LỚP

:


Hà Nội, 2020
MỤC LỤC

2
2


PHẦN MỞ ĐẦU


Giữa lúc nước nhà đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước
địi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo và có một đường lối cách
mạng đúng đắn, một lý luận soi đường. Tất cả đã được giải quyết từ
khi Đảng ra đời, đó thật sự là một bước ngoặt trọng đại cho cách
mạng Việt Nam. Quá trình vận động thành lập Đảng là một quá trình
đấu tranh và chuẩn bị lâu dài, tồn diện của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh và những nhà cách mạng Việt Nam. Trong đó Người có vai
trị hàng đầu, có tác động lớn nhất đến việc thành lập Đảng chính là
lãnh tụ Hồ Chí Minh - vị anh hùng dân tộc, Người đã bôn ba cả đời
khắp năm châu bốn biển để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc
Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình nho học yêu nước, lớn lên trên
quê hương giàu truyền thống yêu nước đấu tranh bất khuất, được
tiếp nhận sự giáo dục của gia đình theo tư tưởng yêu nước thương
dân… tất cả đã hình thành cho Nguyễn Ái Quốc lịng căm thù sâu
sắc giặc xâm lược, thông cảm với nỗi khổ của nhân dân ngay từ thời
niên thiếu. Tuy chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của cha anh
nhưng bằng trí tuệ thiên tài và sự độc lập trong suy nghĩ đã tạo cho
Người có một tư tưởng và chí hướng hoàn toàn khác với phong trào
yêu nước đương thời. Người đã sớm nhận thấy những hạn chế, sai
lầm của những nhà Cách mạng đi trước nên đã chọn cho mình một
hướng đi riêng đó là sang phương Tây, vừa để học hỏi kinh ngiệm,
nghiên cứu lý luận, xem xét tình hình vừa tham gia trực tiếp vào lao
động và đấu tranh trong hàng ngũ công nhân và nhân dân lao động
các nước để tìm con đường cứu nước. Và sự lựa chọn đó đã đưa Cách
mạng Việt Nam đến một chặng đường mới, là mốc đánh dấu và cũng
là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Cách mạng Việt Nam đó là sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó Cách mạng Việy Nam đã
có người lãnh đạo và có một đường lối rõ ràng, giải quyết được sự
khủng hoảng lớn đang còn tồn tại. Để có thể hiểu rõ hơn về vấn đề
3

3


trên, tơi đã chọn đề tài 1 “Vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”.

4
4


CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA LỊCH SỬ
VIỆT NAM
1. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến

Năm 1883, 1884 triều đình Nguyễn ký hiệp ước Harmand và
Patenotre thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp, chia nước ta
thành 3 kỳ với 3 chế độ chính trị khác nhau, vừa xây dựng hệ thống
chính quyền thuộc địa, vừa duy trì chính quyền phong kiến và tay
sai làm chổ dựa. Mọi quyền hành đều trong tay người Pháp, với âm
mưu thâm độc thực hiện chính sách chia để trị, chính sách ngu dân,
chính sách độc quyền về kinh tế, ra sức vơ vét tài nguyêm bóc lột
sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cừng nhiều hình thức thuế
khố năng nề, vơ lý. Trước những áp bức bóc lột dã man của thực
dân Pháp, dù đã ký hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp, song phong
trào đấu tranh chống thực dân Pháp vẫn diễn ra, nhân dân ta đã liên
tiếp nổi dậy cầm vũ khí chống bọn cướp nước. Nhưng tất cả những
cuộc đấu tranh đó đều khơng giành được thắng lợi.
Phong trào Cần Vương (1885) đã thất bại khi cuộc khởi nghĩa của
Phan Đình Phùng chấm dứt năm 1895, cụ thể: một phong trào đấu
tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động đã mở

cuộc tấn cơng trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc
không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng
Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó hàm Nghi bị bắt, nhưng
phong trào Cần Vương vẫn phát triển ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc Kì và
Bắc Trung Kì, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm
Bành và Đình Cơng Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện
Thuật (1883-1892), Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895).
Cùng với thời gian này cịn nổ ra phong trào khởi nghĩa nơng dân
n Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài đến năm 1913 cũng không
giành được thắng lợi. Nguyên nhân là do thiếu đường lối đúng, thiếu
một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi.
5
5


Điều này chứng tỏ rằng, thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm trong
khuôn khổ ý thức hệ phong kiến đã chấm dứt. Cuộc đấu tranh của
nhân dân ta rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước,
về giai cấp lãnh đạo Cách mạng.
Phong trào Cần Vương bị thất bại vì giai cấp địa chủ phong kiến
đã thối nát, phần lớn đã đầu hàng thực dân Pháp, lại áp bức bóc lột
nhân dân một cách thậm tệ. Cho nên ngọn cờ Cần Vương không thể
tập hợp được quần chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân. Cuộc khởi
nghĩa của nơng dân do cụ Hồng Hoa Thám lãnh đạo bị thất bại vì
khơng có đường lối, chính sách rõ ràng, không tổ chức được quần
chúng đôngd dảo, cách đánh chưa tốt, vũ khí lại thiếu thốn….
2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam cũng như một số nước
phương Đơng khác đã ít nhiều chịu sự chi phối của ý thức hệ tư sản.

Đặc biệt cách mạng Minh Trị ở Nhật Bản (l868), cuộc cách mạng Tân
Hợi ở Trung Quốc (1911) đã có tác động nhất định tới phong trào yêu
nước ở Việt Nam, làm dấy lên ở nước ta một phong trào yêu nước
rộng rãi theo khuynh hướng tu sản nhưng đều thất bại. Tiêu biểu là
phong trào của cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, phong trào
Duy Tân của vua Duy Tân.
Đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ
bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản để đánh Pháp giành độc lập dân tộc,
thiết lập một nhà nước theo mơ hình qn chủ lập hiến của Nhật.
Ơng lập ra Hội Duy Tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (19061908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp
không thành, ông về Xiêm chờ thời cơ. Giữa lúc đó Cách mạng Tân
Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam
Quang Phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về
nước võ trang bạo đông chống Pháp, giải phóng dân tộc nhưng rồi
cũng khơng thành cơng. Cụ Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đánh
6
6


đuổi thực dân Pháp, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa
sau.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở
mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh doanh theo hướng
TBCN trong khn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu nước mạnh, buộc
thực dân Pháp phải trao trả độc lập tự do cho Việt Nam. Ở Bắc Kì, có
mở trường học giảng dạy và học tập theo theo nhưng nội dung và
phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội.
Ở Trung Kì, có cuộc vận động Duy Tân hơ hào thay thế phong tục tập
quán; nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế
(1908). Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu cải cách, không chủ trương

đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất mặc dù còn rất nhiều han
chế về số lượng cũng như về thực lực kinh tế chính trị, nhưng với
tinh thần dân tộc dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn
lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh
cụ thể với nhiều những hình thức khác nhau.
Trong khoảng những năm 1923-1930, phong trào cách mạng theo
khuynh hướng dân chủ tư sản với động lực là trí thức tiểu tư sản
phát triền mạnh, nhiều tố chức, đảng phái yêu nước xuất hiện như
Tâm Tâm Xã (l923-1925), Hội Phục Việt (1925), Đảng Thanh niên của
Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng Đảng của Nguyễn An
Ninh (1926-1929), Tân Việt Cách mạng Đảng (1926-1930), Việt Nam
Quốc dân Đảng (1925-l930)...
Nhìn chung, các tố chức, đảng phái u nước nói trên có tinh thần
chống đế quốc, hoạt động của họ đã có tác dụng nhất định trong
việc truyền bá tư tưởng mới, giáo dục lòng yêu nước... Song, hạn chế
của họ là chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời
đại sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chưa thấy được giải phóng dân
tộc phải gắn liền với giải phóng các giai cấp cần lao, chủ nghĩa yêu
7
7


nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản... Mặt
khác, họ cũng chưa thấy hết được bản chất của chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa đế quốc, cũng như vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng
nhân, vai trò của quần chúng nhân dân (trước hết là nơng dân) trong
cách mạng. Vì những hạn chế trên, các tổ chức, đảng phái yêu nước
này chưa thể xác định được một đường lối cách mạng đúng đắn.


8
8


CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA NGUYỄN
ÁI QUỐC
1. Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Sinh Cung sinh ngày 19/5/1890, quê ở làng Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa
lúc nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào.
Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng
dân tộc. Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm
đường cứu nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, năm 1919 Người đã đổi tên thành
khi ở Pháp với tên Nguyễn Ái Quốc và đã trải qua những bước ngoặt
lớn.
2. Quá trình tìm đường cứu nước

Ngày 6/7/1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Mácxây, thấy nhiều
phụ nữ nghèo khổ. Nguyễn Tất Thành nói với người bạn “Tại sao
người Pháp khơng “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai
hóa” chúng ta?”. Làm thuê trên chiếc tàu đi vịng quanh châu Phi,
tận mắt trơng thấy những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen
dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với bọn
thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng
không đáng một xu.
Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành
một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian
dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi

thăm tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào
quang quanh đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen
dưới chân tượng.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm
1917 trở lại Pháp.

9
9


Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) giết hại biết bao sinh
mạng, phá huỷ vơ vàn của cải. Qua đó Nguyễn Ái Quốc càng hiểu
thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và
Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được
nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng tư
sản là “những cuộc cách mạng không đến nơi”.
Vào cuối năm 1917, giữa lúc chiến tranh Thế giới sắp kết thúc,
Người trở lại nước Pháp. Tại đây, Người lao vào cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra hội
những người Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt Nam hồn để tuyên
truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp. Trong những ngày hoạt động cách
mạng sơi nổi đó, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng
nổ làm chấn động toàn cầu. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt,
Người hướng đến ánh sáng của Cách Mạng Tháng Mười và chịu ảnh
hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc Cách mạng vĩ đai đó.
Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị hồ bình
Hội nghị Vécxây (1919) tại Pháp để chia phần. Thay mặt Hội những
người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu
sách 8 điểm. Trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết,

Người chỉ đề cập những yêu sách “tối thiểu” và “cấp thiết”. Tổng
thống Mỹ Uynxơn (Wilson), tác giả chương trình 14 điểm với chiêu
bài dân tộc tự quyết cũng có mặt ở Hội nghị. Nhưng những yêu sách
dù khiêm tốn của Người không được Hội nghị đáp ứng. Tuy nhiên,
bản yêu sách này báo trí tiến bộ Pháp cơng bố rộng rãi và gây ảnh
hưởng chính trị vang dội. Đó là địn tấn công trực diện đầu tiên của
Nguyễn Ái Quốc vào bọn đế quốc. Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái
Quốc hiểu rõ “chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn...”.
Những lời tuyên bố tự do của nhà chính trị tư sản trong lúc chiến
tranh thực ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc.
10
10


Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình,
trơng cậy vào lực lượng của bản thân mình. Đầu năm 1919, Nguyễn
Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ,
Người có dịp tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở
Pháp. Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công
nhân, liên lạc và cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều
thuộc địa Pháp.
Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn
Ái Quốc ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã
tham gia nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành
quả cách mạng. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba)
ra đời, có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Năm
1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn ra quyết liệt trong
nhiều đảng công nhân và ngày trong Đảng Xã hội Pháp: tiếp tục
theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương hay đi theo
Quốc tế thứ ba, con đường cách mạng.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận
cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn
trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng
giải phóng dân tộc, nhận rõ lập trường của Lênin và Quốc tế thứ ba
khác hẳn với những lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Luận
cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tán
thành Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ
đạo cách mạng vô sản, trở thành một trong những nhà sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát triển,
Nguyễn Ái Quốc khơng chống ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư
sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có nhiều khuyết tật. Người
11
11


khẳng định dứt khốt chủ nghĩa tư bản khơng cứu được nước, không
cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ.
Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc có một
phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối
chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm
cách mạng thế giới có chọn lọc. Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện nổi bật trong việc vận dụng

học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ta

12
12


CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Những chuẩn bị của Nguyễn Tất Thành cho việc thành

lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Tháng 7/1920 sau khi được đọc bản “sơ thảo lần thứ I những luận
cương về dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin…. Nguyễn Ái Quốc
đã tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải đáp cho con đường
giải phóng cho nhân dân VN và sau đó trờ thành 1 trong những
người tham gia sáng lập ĐCS Pháp (12/1920). Năm 1920 Nguyễn Ái
Quốc tham gia sáng lập hội liên hiệp tiếp tục thành lập để bổ sung
tư tưởng cứu nước và Nguyễn Ái Quốc cũng thấy phải có 1 chính
Đảng. Một mặt người truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, một mặt
chuẩn bị những điều kiện thành lập chính đảng ấy của giai cấp vô
sản Việt Nam, gồm:
-

Tư tưởng:

Với tư cách là trưởng tiểu ban Đông Dương của ĐCS Pháp người đã
viết nhiều bài đăng trên báo như: báo Leparia (người cùng khổ),
nhân đạo, đời sống công nhân, tập san thư tín quốc tế, tạp chí Cộng
sản…. Thơng qua các tác phẩm này người đã vạch trần âm mưu và

thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân Pháp đồng thời tuyên truyền chủ
nghĩa Mác – Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người
cơng sản và nhân dân lao động Phap với các nước thuộc địa và phụ
thuộc.
Đặc biệt, tại đại hội lần thứ V của quốc tế cộng sản năm 1924
Nguyễn Ái Quốc đã trình bày bản báo cáo quan trọng về vấn đề dân
tộc và thuộc địa. Bằng nhiều số liệu cụ thể bản báo cáo đã làm sáng
tỏ và phát triển thêm một số luận điểm của Lenin về bản chất của
chủ nghĩa thực dân, về nhiệm vụ của ĐCS trên thế giới trong cuộc
đấu tranh chống áp bức bóc lột và giải phóng dân tộc ở các thuộc
địa.
13
13

Chính trị:


Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính ttrị:
Chỉ rõ bản chất chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân
là kẻ thù chung của dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trên thế giới.
Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là 1 bộ phận của cách
mạng vơ sản thế giới, CM giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và
CM chính quốc có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ thúc đẩy cho nhau nhưng
không phụ thuộc vào nhau.
CM cần phải lôi cuốn sự tham gia của nơng dân, xây dựng khối
cơng nơng làm nịng cốt, là động lực của Cách mạng, đồng thời tập
hợp được sự tham gia của đông đảo các giai tầng khác.
Cách mạng muốn giành thắng lợi trước hết phải có đảng, CM nắm
vai trò lãnh đạo, Đảng muốn giữ vững phải trang bị chủ nghĩa Mác –

Lênin
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không
phải của một hai người
-

Tổ chức:

Ngày 11/1924 Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) để xúc
tiến thành lập chính đảng Macxit. Tháng 2/1925 Người lựa chọn một
số thanh niên tích cực trong Tâm Tâm xã, lập ra nhóm cộng sản
đồn, tháng 6/1925 thành lập hội VNCM thanh niên, là tổ chức tiền
thân của Đảng tại Quảng Châu để truyền bá chủa nghĩa Mac – Lênin
vào trong nước. Tháng 7/1925 Nguyễn Ái Quốc cùng tham gia sáng
lập hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông cùng các nhà Cách
mạng của các nước khác.
Đầu năm 1927, cuốn “đường kách mệnh” gồm những bài giảng của
Nguyễn Ái QUốc tại các lớp huận luyện, đào tạo cán bộ ở Quảng
Châu được bộ tuyên truyền của hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở
Á Đông xuất bản. Tác phẩm này đề cập những tư tưởng cơ bản về
chiến lược và sách lược của Cách mạng Việt Nam.
2. Vai trò của Nguyễn Tất Thành trong việc thành lập Đảng

Cộng sản Việt Nam
14
14


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 phù hợp với quy luật
phát triển của thời đại và đòi hỏi của cơng cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết

quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam, thông qua vai trò của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - người đã tìm ra con đường cứu nước cho cách
mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước,
chuẩn bị tích cực các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời
của Đảng, đồng thời chủ trì việc hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng kịp thời địi hỏi của lịch sử,
chấm dứt tình trạng khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối
cứu nước kéo dài và từ đây có cương lĩnh đúng đắn với việc xác định
mục tiêu chiến lược, lực lượng và phương pháp cách mạng rõ ràng;
có đội tiền phong lãnh đạo mang bản chất cách mạng của giai cấp
công nhân và tiêu biểu cho phong trào dân tộc, quyết tâm lãnh đạo
toàn dân giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc để tiến tới xã hội cộng
sản.
Có thể nói vai trò của Nguyễn Ái Quốc thể hiện ở việc sau khi tìm
thấy, lựa chọn con đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khơng
chỉ hoạt động khẩn trương, tích cực, sáng tạo, chuẩn bị những tiền
đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức để dẫn tới ra đời các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam mà còn nhạy cảm, nắm bắt được tình hình cách
mạng trong nước để triệu tập Hội nghị các tổ chức cộng sản thành
một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.
Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện:
15
15

Tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn



Trải qua q trình bơn ba tìm đường cứu nước (1911 - 1920), tháng
7/1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bắt gặp Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng
trên báo Humanite (Nhân đạo) số ra ngày 16 – 17/7/1920. Tiếp đó,
tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp, Người đã
tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và bỏ phiếu tán thành việc
đảng này gia nhập Quốc tế Cộng sản.
Hai sự kiện này chứng tỏ Người đã tìm thấy và lựa chọn dứt khốt
con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
-

Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào trong nước, chuẩn
bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của Đảng

Trong giai đoạn 1921 - 1929, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Ở đây có ba điểm rất đáng lưu ý:
Đầu tiên, khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Nguyễn
Ái Quốc không bê nguyên xi mà vận dụng sáng tạo. Nghĩa là, chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã qua “nung nấu trí tuệ Hồ Chí
Minh”. Vì thế, Người đã chọn những vấn đề căn cốt nhất, cách diễn
đạt ngắn gọn, dễ hiểu nhất… Do đó, dễ dàng được dân tộc Việt Nam,
trước hết là những nhà cách mạng tiếp thu.
Thứ hai, Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong
trào công nhân mà còn truyền bá vào phong trào yêu nước. Do đó,
tạo ra một cơ sở xã hội rộng lớn cho chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt

Nam, tạo sự chuyển biến về chất của phong trào yêu nước Việt Nam.
Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của đảng cộng sản ở Việt
Nam.
Thứ ba, phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
của Nguyễn Ái Quốc cũng rất đặc biệt. Người tuyên truyền thông
16
16


qua các bài viết, tác phẩm, bài báo (đặc biệt là báo Thanh niên);
thông qua tổ chức (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên) và thông
qua những con người cụ thể (các lớp học tại Quảng Châu - Trung
Quốc, phong trào “vơ sản hóa” tại Việt Nam). Với những cách tuyên
truyền đặc biệt này, một mặt giúp cho truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhanh và sâu rộng hơn; mặt khác, cùng với
truyền bá truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là quá trình
chuẩn bị về tổ chức cho sự ra đời của Đảng sau này.
-

Chuẩn bị và chủ trì hội nghị thành lập Đảng

Cuối năm 1929, đầu năm 1930, Người đã có một quyết định có tính
bước ngoặt: chuẩn bị và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. Việc chuẩn
bị và chủ trì Hội nghị của Người hồn tồn chủ động, vì mãi đến
tháng 2/1930 Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản mới về đến Sài Gịn. Và
vì thế, nếu khơng có sự chủ động của Nguyễn Ái Quốc thì Đảng Cộng
sản Việt Nam đã không ra đời khi những điều kiện đã chín muồi như
lịch sử đã diễn ra.
Có thể thấy, trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước (1911-1930),
Nguyễn Ái Quốc đã có vai trị quan trọng đối với việc thành lập
Đảng. Vai trò quan trọng của Người thể hiện rõ qua việc tìm thấy và

lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam;
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chủ động triệu tập, chủ trì
Hội nghị thành lập Đảng. Từ đó, đã góp phần vơ cùng quan trọng
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930
- Người lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, đưa Cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác gần 90 năm qua. Do đó, có thể
xác định lại quy luật ra đời của Đảng ta đúng như lịch sử đã diễn ra
là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với phong
trào cơng nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

17
17


KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt trọng đại
trong lịch sử Cách mạng Việt Nam. Nó chấm dứt thời kỳ Cách mạng
nước ta ở trong tình trạng bế tắc, khủng hoảng sâu sắc về đường lối
cứu nước, nó “chứng tỏ giai cấp vơ sản nước ta đã trưởng thành đủ
sức lãnh đạo Cách mạng”, kể từ đây (3/2/1930) Cách

mạng Việt

Nam có một Đảng duy nhất lãnh đạo với đường lối thống nhất
trên cả nước. Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là kết quả của quá
trình đấu tranh dân tộc và đấu tranh trong thời đại mới và còn là kết
quả của q trình chuẩn bị một cách cơng phu chu đáo, tích cực của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.

Người đã chuẩn bị về cả tư tưởng, chính trị và tổ chức cho Đảng đặt
những viên gạch đầu tiên xây dựng nên Đảng Cộng sản Việt Nam.

18
18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

NXB chính trị quốc gia.
2. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. NXB Giáo dục.
3. Hồ Chí Minh tồn tập. NXB Sự thật.

19
19



×