Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Có 3 cách làm BT nhỏ luật tài chính cá nhân sở hữu bất động sản nếu ủy quyền quản lý bất động sản cho người khác thì vẫn phải nộp thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.63 KB, 11 trang )

BÀI TẬP CÁ NHÂN
MƠN: LUẬT TÀI CHÍNH
ĐỀ BÀI TẬP CÁ NHÂN:

CÓ 3 CÁCH LÀM
Theo quy định hiện hành, cá nhân sở hữu bất động sản nếu ủy
quyền quản lý bất động sản cho người khác (người được ủy
quyền) thì vẫn phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Người được ủy
quyền này, sau đó, bán bất động sản thì lại tiếp tục nộp thuế
TNCN.

1


CÁCH 1:
Anh chị hãy:
1. Lí giải vì sao luật lại quy định như vậy?
2. Chỉ ra, bằng một ví dụ, sự bất hợp lí khi áp dụng quy
định trên?
Bài làm:
Điều 581 Bộ Luật dân sự quy định về hợp đồng ủy
quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được
ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh
bên ủy quyền, còn bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao,
nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Theo
quy định đó, hợp đồng ủy quyền bất động sản không
làm phát sinh việc chuyển dịch quyền sở hữu, quyền sử
dụng bất động sản từ người ủy quyền sang người được
ủy quyền mà chỉ là sự thay đổi chủ thể thực hiện các
quyền của chủ sở hữu bất động sản.
Lợi dụng sơ hở của pháp luật, trên thực tế đã phát sinh


hiện tượng uỷ quyền để trốn thuế TNCN, bên nhận

1


chuyển nhượng và bên chuyển nhượng thỏa thuận với
nhau thay vì ký hợp đồng chuyển nhượng, họ đã thực
hiện ký kết hợp đồng uỷ quyền giao dịch bất động sản
với mục đích người nhận chuyển nhượng được thay mặt
người chuyển nhượng toàn quyền sử dụng, định đoạt
bất động sản như mua bán, tặng cho với bên thứ ba mà
không phải chịu thuế TNCN. Do vậy, để tránh thất thu
thuế và hạn chế tình trạng này, Tổng cục Thuế đã có
Công văn số 1133/TCT-TNCN ngày 05/4/2011 giải đáp
các vướng mắc về thuế TNCN đối với chuyển nhượng
bất động sản và Công văn 3373/TCT – TNCN ngày
20/9/2011 hướng dẫn tính thuế TNCN đối với chuyển
nhượng bất động sản thông qua hợp đồng ủy quyền.
Điều 2.5.e Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định về
khoản thu nhập chịu thuế, trong đó có nói rõ thu nhập
từ việc ủy quyền quản lý bất động sản mà người được
ủy quyền có quyền chuyển nhượng bất động sản hoặc
có quyền như người sở hữu bất động sản theo quy định
của pháp luật thì sẽ phải nạp thuế thu nhập cá nhân.
2


Sở dĩ luật đã quy định như vậy, vì hiện nay có nhiều
trường hợp như: anh K bán nhà cho chị T nhưng lại làm
thủ tục uỷ quyền cho chị T được sử dụng nhà của mình

để mua bán mà chị T không nhận 1 đồng nào từ việc đó
để chị T có thể lách thuế thu nhập cá nhân. Điều này đã
ảnh hưởng nhiều tới việc thu thuế thu nhập cá nhân
của người dân theo yêu cầu của cục Thuế.
Dù là luật nhưng không phải lúc nào cũng đúng, như
điều luật trên cũng có sự bất hợp lý của nó ví dụ như:
anh K và chị T là bạn thân, anh K uỷ quyền cho chị T để
chị T bán nhà giúp anh. Khi chị T đã bán được nhà giúp
anh T, thì nhận được thông báo từ cục Thuế về việc nạp
tiền thuế do được uỷ quyền bán bất động sản. Nhưng vì
2 người là bạn thân nên chị T không lấy tiền hoa hồng
khi bán nhà của anh K, vậy nghĩa là chị không hề có thu
nhập từ việc bán nhà. Vậy tại sao chị phải nạp thuế,
bây giờ phải làm gì để chứng minh được rằng chị không
hề có thu nhập nào từ việc bán nhà uỷ quyền này với
cục Thuế?
3


4


CÁCH 2:
1. Lý giải vì sao luật quy định như trên :
Theo Thông tư 111/2013 của Bộ Tài chính , nếu ủy
quyền cho người khác chuyển nhượng nhà thì chủ sở
hữu là người ủy quyền phải nộp thuế . Đồng thời , người
được ủy quyền có thu nhập từ việc nhận ủy quyền cũng
đóng thuế .
Bản chất của việc ủy quyền là cho phép người khác

thay mặt mình thực hiện các quyền về sở hữu nhà chứ
không phải là chuyển giao quyền sở hữu nhà . Theo Bộ
luật Dân sự , người khác ấy có thể là người thân mà
cũng có thể là người ngoài tùy theo sự chọn lựa , tin cậy
của chủ sở hữu . Thế nhưng , ngay từ khi ban hành văn
bản chỉ đạo thu thuế ủy quyền trước khi có Thông tư
111/2013 , Tổng cục Thuế đã quả quyết giữa Chủ sở
hữu, Người được uỷ quyền của chủ sở hữu và Người
mua có sự lách thuế . Thay vì Chủ sở hữu bán cho
Người được uỷ quyền rồi Người được uỷ quyền bán cho
5


Người mua ứng với việc hai chủ sở hữu nhà là Chủ sở
hữu và Người được uỷ quyền đều lần lượt đóng thuế ,
người mua là Người được uỷ quyền có thể lách thuế
bằng cách nhận ủy quyền để chỉ có mỗi Chủ sở hữu
phải đóng khi Người được uỷ quyền bán lại cho Người
mua . Từ suy đoán này mà Bộ Tài chính đã ban hành
thông tư 111/2013 quy định như trên .
2. Ví dụ :
Chị H có 1 bất động sản muốn bán nhưng vì có việc nên
uỷ quyền cho anh A để anh A bán giúp. Sau đó anh A
bán được bất động sản đó cho anh E, khi làm thủ tục
bán nhà thì bên thuế yêu cầu chị H và anh A đều phải
nộp thuế thu nhập cá nhân cho bất động sản đó vì chị H
là chủ bất động sản còn anh A dù được uỷ quyền nhưng
vẫn được % hoa hồng khi bán được bất động sản đó.
Như vậy, 1 bất động sản mà bị đánh thuế 2 lần đó là sự
bất hợp lý.


6


7


CÁCH 3:
1. Lí giải quy định:
Theo quy định hiện hành, cá nhân sở hữu bất động sản
nếu ủy quyền quản lý bất động sản cho người khác
(người được ủy quyền) thì vẫn phải nộp thuế thu nhập
cá nhân. Người được ủy quyền này, sau đó, bán bất
động sản thì lại tiếp tục nộp thuế TNCN.
Lý do Luật quy định như trên là vì: trước đây tại Việt
Nam không thu thuế TNCN đối với ủy quyền giao dịch
BĐS. Nếu ủy quyền toàn quyền được sử dụng, tặng cho,
mua bán… mà bên được ủy quyền không nhận một
khoản hoa hồng nào thì đó là hình thức mua bán “lách”
thuế. Vừa qua, trên thực tế đã phát sinh hiện tượng uỷ
quyền để trốn thuế TNCN, bên nhận chuyển nhượng và
bên chuyển nhượng thỏa thuận với nhau thay vì ký hợp
đồng chuyển nhượng, họ đã giả bằng việc ký hợp đồng
uỷ quyền giao dịch bất động sản với mục đích người
nhận chuyển nhượng được thay mặt người chuyển
8


nhượng toàn quyền sử dụng, định đoạt bất động sản
như mua bán, tặng cho với bên thứ ba mà không phải

chịu thuế TNCN. Do đó, để thực hiện đúng quy định việc
thu thuế TNCN đối với trường hợp cá nhân có bất động
sản ủy quyền cho cá nhân khác thực hiện giao dịch bất
động sản. Tổng cục Thuế đã có Công văn số 1133/TCTTNCN hướng dẫn về thuế TNCN đối với uỷ qùn bất
động sản. Ngoài ra cịn có Thơng tư 111/2013/TT-BTC
cũng quy định rõ về các khoản thu chịu thuế cụ thể ở
Điều 2.5.e là thu nhập từ việc ủy quyền quản lý bất
động sản mà người được ủy quyền có quyền chuyển
nhượng bất động sản hoặc có quyền như người sở hữu
bất động sản theo quy định của pháp luật.
2. Ví dụ
Tháng 2/2018, em ruột tôi là Nguyễn Văn A và vợ là Trần
Thị B bán nhà ở đường Nguyễn Văn Linh, quận Hải Châu,
Đà Nẵng giá 6 tỉ đồng. Do phải đi nước ngoài thường
xuyên nên em trai tôi và vợ đã làm hợp đồng ủy quyền
cho tôi là chị gái với phạm vi ủy quyền là tiến hành bán
9


toàn bộ nhà đất, đồng thời liên hệ với các cơ quan có
thẩm quyền để làm các thủ tục liên quan đến việc
chuyển nhượng quyền sở hữu nhà đất (không ủy quyền
quản lý hoặc sử dụng bất động sản).
Sau khi bán được nhà và nhận tiền tôi sẽ gửi vào tài
khoản mang tên ông em trai tôi và vợ. Do em trai tôi và
vợ làm cam kết chỉ có một căn nhà duy nhất nên theo
quy định được miễn thuế TNCN khi chuyển nhượng.
Tuy nhiên, tháng 5/2018 tôi bất ngờ nhận được thông
báo của Chi cục Thuế quận Hải Châu yêu cầu phải nộp
120 triệu đồng thuế TNCN, kèm theo đó là ghi chú “có

truy thu một lần thuế TNCN theo điểm d, khoản 5, điều
3, nghị định 65”.
Tôi không có thu nhập và cũng không được ủy quyền
quản lý hoặc sử dụng bất động sản thì làm gì có thu
nhập để tính thuế TNCN?
Tôi đã gửi đơn kiện lên TAND quận Hải Châu, trong đơn
khởi kiện tôi đã yêu cầu TAND quận Hải Châu hủy bỏ

10


thông báo thuế của Chi cục Thuế quận Hải Châu để lấy
lại số tiền thuế TNCN đã nộp.
Ví dụ trên nói rõ sự vô lí của điều luật ở đề bài rằng
không phải cứ uỷ quyền nghĩa là sẽ có được thu nhập từ
việc bán bất động sản.

11



×