Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

NGUYỄN ĐỨC TƠN

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TƠN

NGÀNH HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

CÁC TỘI THAM NHŨNG
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

KHĨA

Hồ Chí Minh, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TÔN

CÁC TỘI THAM NHŨNG
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự


Mã số: 8.38.01.04

Người hướng dẫn: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Hồ Chí Minh, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Các tội tham nhũng trong lĩnh vực Thi hành
án dân sự ở Việt Nam hiện nay” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
tơi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung
thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được cơng bố trong các
cơng trình khoa học khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI THAM NHŨNG ........................................................ 8
1.1. Những vấn đề lý luận về các tội tham nhũng......................................... 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội tham
nhũng ................................................................................................................... 17
CHƯƠNG 2: THỰC TIÊN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI THAM NHŨNG TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở
VIỆT NAM.......................................................................................................... 30
2.1. Định tội danh các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân sự .... 30
2.2. Quyết định hình phạt đối với các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi

hành án dân sự ..................................................................................................... 44
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI THAM NHŨNG TRONG
LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................................................. 57
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội tham
nhũng ................................................................................................................... 57
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội
tham nhũng .......................................................................................................... 63
KẾT LUẬN ................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 72

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, tình hình các tội tham nhũng đang diễn biến hết sức phức tạp
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực thi hành án dân sự,
gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho các quan hệ xã hội, đặc biệt là
làm méo mó hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý,
công bằng xã hội, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển đất
nước, xã hội. Phịng, chống tham nhũng có hiệu quả, vì vậy được Đảng, Nhà
nước ta xác định là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa
khó khăn, phức tạp, lâu dài và được tiến hành bằng nhiều phương tiện, biện pháp
khác nhau, trong đó có phương tiện, biện pháp pháp luật hình sự.
Với tính cách là cơng cụ bảo vệ hữu hiệu xã hội khỏi sự xâm phạm của tội
phạm nói chung và các tội tham nhũng nói riêng, pháp luật hình sự nói riêng,
pháp luật hình sự nước ta góp phần khơng nhỏ vào việc kìm hãm, ngăn chặn,
dần loại trừ các tội tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội, dần khơi phục lịng tin

của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý xã hội của Nhà nước. Nhờ
đó, cơng cuộc đấu tranh với tham nhũng nói chung và với các tội tham nhũng
nói riêng ngày càng được tăng cường trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có lĩnh vực thi hành án dân sự. Tuy nhiên, kết quả phát hiện, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đối với các tội tham nhũng còn
khiêm tốn so với yêu cầu đặt ra. Riêng trong lĩnh vực thi hành án dân sự là lĩnh
vực hoạt động của Nhà nước mà ở đó Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền được đưa ra thực hiện trên thực tế theo
đúng trình tự thủ tục luật định theo nguyên tắc mọi bản án, quyết định phải được
thi hành nghiêm minh theo Điều 106 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công
dân, mặc dù tình hình các tội tham nhũng diễn ra phức tạp, song năm 2015 đến
năm 2019, ở nước ta chỉ phát hiện và xử lý 07 vụ án với 4 tội danh tham nhũng
2


gồm 1 vụ án tham ô tài sản với 3 bị cáo; 03 vụ án lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi hành công vụ với 04 bị cáo và 03 vụ lạm dụng chức vụ quyền hạn
chiếm đoạt tài sản với 02 bị cáo. Có đến 4 tội tham nhũng khơng có khởi tố, điều
tra truy tố, xét xử, đó là các tội: tội nhận hối lộ; tội lạm quyền trong khi thi hành
công vụ; tội lạm dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi; tội giả mạo trong công tác. Trong khi đó, tình hình các tội tham nhũng
diễn ra trong lĩnh vực này hết sức phức tạp.
Sự khơng tương thích giữa tình hình các tội tham nhũng xảy ra trong lĩnh
vực thi hành án dân sự với kết quả phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các
tội phạm này trên thực tế đặt ra nhu cầu nghiên cứu các khía cạnh lý luận, quy
định của pháp luật hình sự, thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về các tội
tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở nước ta trong thời gian qua, từ
đó tìm kiếm các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các
tội tham nhũng trong lĩnh vực nói trên. Đó cũng là lý do học viên chọn đề tài:

“Các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” làm
luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Bởi “tính nhạy cảm” của vấn đề nghiên cứu mà dưới góc độ luật hình sự
và tố tụng hình sự, các tội tham nhũng ít được quan tâm nghiên cứu hơn so với
góc đội tội phạm học và phịng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, các tội tham nhũng ngày càng
được đề cập nghiên cứu thường xuyên hơn, kết quả là đã có khá nhiều cơng trình
nghiên cứu ở các cấp độ nghiên cứu khác nhau được cơng bố. Ở cấp độ giáo trình
sau đại học có thể kể đến Luật hình sự Việt Nam, Phần các tội phạm do GS.TS.
Võ Khánh Vinh chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2014. Ở
cấp độ bài Tạp chí có thể kể đến “Hình sự hóa hành vi tham nhũng trong lĩnh vực
theo Cơng ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc năm 2003” của tác giả Bùi
Thế Tỉnh cơng bố trên Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01 năm 2012. Ở cấp độ luận
văn thạc sĩ luật học chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự có thể kể đến:
3


Luận văn thạc sĩ luật học về đề tài “Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Thuận” của Trần Anh Tuấn, bảo vệ thành
công tại Học viện Khoa học xã hội năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học về đề tài
“Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam” của Mai Văn Sang, bảo vệ thành công tại Học viện Khoa học xã hội
năm 2015…Ở cấp độ luận án tiến sĩ có các luận án: “Các tội phạm về tham nhũng
theo pháp luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn Đạt, bảo vệ thành công tại Học
viện Khoa học xã hội năm 2012; …
Ở những quy mô và phạm vi nghiên cứu khác nhau, các cơng trình nghiên
cứu nêu trên ở những mức độ nhất định làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội tham
nhũng. Chính vì vậy, các cơng trình nghiên cứu đó cung cấp cho tác giả luận văn

này những kiến thức, cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, về mặt
thực tiễn, các cơng trình nghiên cứu đó nghiên cứu chung (trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội) hoặc gắn với địa bàn nghiên cứu cụ thể mà ở đó cũng
diễn ra các q trình, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Riêng trong một
lĩnh vực mặc dù phạm vi rộng (cả nước) như lĩnh vực thi hành án dân sự thì chưa
có cơng trình nào nghiên cứu các tội tham nhũng trong lĩnh vực này, nơi mà các
tội tham nhũng ngày càng xảy ra nhiều hơn, cần khắc phục. Rõ ràng, nghiên cứu
các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án hình sự là đề tài mới mẻ và có tính
cấp thiết cũng như có ý nghĩa lý luận và thực tiễn .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến mục đích làm rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý
các tội tham nhũng, nội dung của các quy định của pháp luật hình sự Việt nam
về các tội tham nhũng, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự (định tội danh và
quyết định hình phạt) đối với các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân
sự ở nước ta, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng (định tội danh và
4


quyết định hình phạt) đúng đối với các tội tham nhũng ở nước ta trong thời gian
tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên, tác giả luận văn tập trung thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về các tội tham nhũng.
- Phân tích các nội dung quy định của pháp luật hình sự ở Việt Nam về các
tội tham nhũng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội
tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở nước ta.
- Phân tích các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

pháp luật đối với các tội tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bởi mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn lấy các quan điểm khoa học,
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự đối với các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân sự để nghiên cứu
các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự.
Về pháp luật: luận văn tập trung phân tích các quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về các tội tham nhũng, có so sánh với các
quy định tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999.
5


Về thực tiễn: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội tham
nhũng có nội dung rộng thể hiện ở những hoạt động khác nhau của nhiều chủ thể
có thẩm quyền khác nhau. Tuy nhiên, bởi bị giới hạn số lượng trang được phép
thực hiện, luận văn này chỉ tập trong vào hai nội dung chính là định tội danh và
quyết định hình phạt của Tịa án đối với các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi
hành án dân sự.
Các số liệu thống kê về vụ án và số bị cáo bị xét xử về các tội tham nhũng
trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở nước ta được tác giả luận văn thu thập từ
thực tiễn xét xử của Tòa án trong phạm vi cả nước trong thời gian từ năm 2015
đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lê nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, đường lối của
Đảng; Chính sách, Pháp luật của Nhà nước về tội phạm, hình phạt, phịng ngừa

tội phạm, cải cách tư pháp, công lý, quyền con người, quyền công dân…làm
phương pháp luận nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề
tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn còn sử dụng trong một tổng thể các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu
án điển hình…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức sâu sắc và thống nhất
những vấn đề lý luận về các tội tham nhũng.
6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng vào cơng tác xét xử
các tội tham nhũng; giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào
tạo luật ở nước ta hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Bố cục luận văn ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về các tội
tham nhũng.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội tham nhũng
trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở Việt Nam
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình
sự đối với các tội tham nhũng trong lĩnh vực thi hành án dân sự

7



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI THAM NHŨNG
1.1. Những vấn đề lý luận về các tội tham nhũng
1.1.1. Khái niệm các tội tham nhũng
Để có thể xây dựng khái niệm về các tội tham nhũng, trước hết cần phân
tích khái niệm tham nhũng và khái niệm tội phạm nói chung. Tham nhũng là
một hiện tượng tiêu cực của xã hội, có tính phổ biến, xuất hiện cùng với sự ra
đời của Nhà nước; là “lợi dụng quyền lực Nhà nước để trục lợi riêng bao gồm
các hành vi lợi dụng chức quyền hạn để tham gia tham ô, trộm cắp tài sản nhà
nước hoặc lợi đụng địa vị công tác để tư lợi riêng hoặc tạo ra sự xung đột về
thái độ quan tâm giữa lợi ích xã hội với lợi ích cá nhân để mưu cầu tư lợi”;là
“sự lợi dụng quyền hạn của Nhà nước để trục lợi cho mục đích cá nhân” [Liên
Hợp quốc, cơng ước năm 2003 về chống tham nhũng];“bao hàm trong nội dung
của nó cả tệ nạn hối lộ (nấp dưới hình thức “thù lao” để quyến rũ người đang
bị mắc nợ), tệ bệnh gia đình chủ nghĩa (sự ban ơn, che chở, trên cơ sở những
quan hệ cá nhân) và sự chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản công cộng và biến tài
sản thành của riêng cá nhân” Giáo sư J.Nai [Political Corution: A hansd book”
(Oxford,1989)]; là “lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân để lấy của”, là
hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ quyền
hạn của mình để nhũng nhiễu, hạch sách dân, thu lợi vật chất cụ thể . [Từ điển
tiếng Việt, 2010, Nxb Từ điển Bách Khoa, trang 235]; là “hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” [khoản 2, điều
1, Luật Phịng, chống tham nhũng năm 2018].
Tham nhũng, vì vậy trước hết phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành
vi đó phải do người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó
thực hiện. Việc thực hiện hành vi đó của người có chức vụ, quyền hạn là vì vụ
lợi. Hiện nay, ở Việt Nam có các dạng hành vi sau đây bị coi là hành vi tham

8



nhũng như: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản; ....
Trong số các dạng hành vi tham nhũng trên thì có 7 dạng hành vi tham
nhũng được pháp luật hình sự đưa “lên tầm tội phạm”. Những hành vi này có
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với các hành vi tham
nhũng khác cịn lại. Đó là những hành vi khơng chỉ có tính chất và mức độ nguy
hiểm đáng kể cho xã hội, mà còn được quy định trong pháp luật hình sự, có mức
độ nghiêm trọng của lỗi (cố ý) cao hơn và bị pháp luật hình sự dự liệu các hình
phạt cụ thể để áp dụng đối với chủ thể thực hiện chúng. Các tội tham nhũng luôn
được ghi nhận trong Bộ luật hình sự nước ta. Hiện nay, các tội tham nhũng được
ghi nhận tại Mục A, chương XXI Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017, từ Điều 353 đến Điều 359. Những tội tham nhũng gồm: Tội tham ô
tài sản; Tội nhận hối lộ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: .... Bởi cũng là
những hành vi tham nhũng, các tội tham nhũng: Thứ nhất, là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cao cho xã hội của các tội tham nhũng
được quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó đáng chú ý là các tội này
xâm hại hoạt động đúng đắn của các thiết chế của Nhà nước, người thực hiện là
người có chức vụ, quyền hạn; Thứ hai, các tội tham nhũng có tính trái pháp luật
hình sự; Thứ ba, các tội tham nhũng có tính có lỗi (cố ý) và có tính phải chịu
hìnhp hạt. Trong sự phân hóa tội phạm, phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể
hóa hình phạt, những người phạm tội tham nhũng bao giờ cũng thuộc diện phải
bị xử lý nghiêm khắc hơn.
Trên cơ sở quy định khái niệm tội phạm tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và từ những phân tích khái qt trên đây, có
thể hiểu.
“Các tội tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng hoặc

lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện một cách cố ý vì vụ lợi, xâm
9


hại đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chứ,gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ
chức, tập thể, doanh nghiệp quyền và lợi ích của cá nhân, cơng dân”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội tham nhũng
Ngoài khái niệm các tội tham nhũng đã được phân tích ở trên, việc xác định
hành vi cụ thể nào đã xảy ra trên thực tế là tội tham nhũng hay không cần phải
dựa vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng có trong 4 yếu tố cấu thành các tội phạm
tham nhũng. Bởi vậy, việc nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của các tội tham
nhũng là quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Bẩy tội tham nhũng nói trên đều có những dấu hiệu pháp lý riêng, song
cũng có những dấu hiệu pháp lý chung mà việc nhận biết những dấu hiệu pháp
lý chung đó là rất quan trọng. Bởi vậy, học viên lần lượt đi phân tích 4 yếu tố
cấu thành tội phạm (loại tội phạm) gồm: Khách thể của các tội tham nhũng; Mặt
khách quan của các tội tham nhũng; Chủ thể của các tội tham nhũng; Mặt chủ
quan của các tội tham nhũng.
- Khách thể của các tội tham nhũng
Khách thể (loại) của tội tham nhũng là những mối quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự ghi nhận, bảo vệ và đảm bảo sự hoạt động đúng đắn, uy tín
của cơ quan Nhà nước, tổ chức Chính trị - xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, …. bị các tội tham nhũng xâm phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại. Việc đảm bảo cho bộ máy Nhà nước và tổ chức hoạt động xã hội đúng
đắn, đáp ứng được lợi ích nói trên là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
pháp luật hình sự nước ta.
Với mục đích bảo đảm cho bộ máy Nhà nước hoạt động đúng dắn, đồng
bộ, nhịp nhàng, Nhà nước ta quy định cụ thể thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ
của các cấp, các ngành; chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của từng loại cán bộ,
công chức, viên chức Nhà nước. Trong bộ máy đó, việc thực hiện tốt chức năng,

quyền hạn, nhiệm vụ của người này là điều kiện, tiền đề, cơ sở cho hoạt động
của người khác. Vì vậy, việc lợi dụng chức vụ quyền hạn để vi phạm pháp luật
10


của một số cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước hoặc ít, hoặc nhiều đều ảnh
hưởng xấu đến hoạt động đúng đắn của bộ máy Nhà nước và phải bị xử lý
nghiêm minh, kịp thời bằng pháp luật. [30]
Bởi vì các tội tham nhũng được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn, do đó, khách thể của tội phạm tham nhũng là các quan hệ xã hội tạo nên
hoạt động theo quy định pháp luật của cơ quan, tổ chức và uy tín của các cơ
quan, tổ chức đó đối với nhân dân. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình,
những cán bộ và nhân viên của các tổ chức xã hội được giao những chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn nhất định, có bộ máy quản lý riêng, cùng tồn tại và hoạt
động song song với bộ máy Nhà nước. Bên cạnh đó, khơng phải mọi hành vi
xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức đều được bảo vệ
bởi luật hình sự. Vì ngịai luật hình sự cịn nhiều ngành luật khác như luật hành
chính, luật lao động… cũng bảo vệ các quan hệ xã hội đó, khi hành vi xâm hại
đến các quan hệ xã hội này chưa nghiêm trọng tới mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Trên thực tế, cũng có trường hợp cùng một lúc hành vi tội phạm xâm phạm
vào hai quan hệ xã hội khác nhau. Trong trường hợp này, nhà làm luật sẽ xem
quan hệ (khách thể của tội phạm) nào thể hiện bản chất nhất hành vi để quy định
tội phạm đó. Ví dụ như theo quy định về tội tham ô tài sản tại Điều 353 Bộ luật
hình sự năm 2015, thì khách thể của tội phạm vừa là hoạt động bình thường của
cơ quan, tổ chức, vừa là quan hệ sở hữu, nhưng khách thể thể hiện bản chất nhất
hành vi này là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức chứ không phải quan hệ
sở hữu như quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 coi tham ơ là tội phạm xâm
phạm quan hệ sở hữu. Do dó, đã phần nào giải thích vì sao tội tham ơ tài sản
theo Bộ luật hình sự năm 2015 lại nằm ở chương XXIII - Mục 1 các tội tham

nhũng chứ không phải nằm trong chương các tội phạm sở hữu như Bộ luật hình
sự năm 1985.
Ngồi cơ quan thì các tổ chức khác như các tổ chức chính – xã hội, các
đoàn thể, các hội quần chúng, … cũng thực hiện các nhiệm vụ mà Nhà nước đặt
11


ra. Các tổ chức này tuy không phải cơ quan Nhà nước, nhưng được Nhà nước
giao thực hiện các nhiệm vụ nhất định và được Nhà nước thừa nhận, bảo vệ.
Như vậy, từ những ý kiến trên, ta có thể định nghĩa khách thể của các tội
tham nhũng là: “những quan hệ xã hội bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn, uy
tín của cơ quan Nhà nước, tổ chức Chính trị, tổ chức chính trị xã hội, các quyền
và lợi ích của cơng dân”. Ngồi ra, các tội tham nhũng còn xâm phạm các
khách thể khác là quan hệ sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp khác của tổ chức cá
nhân.
- Mặt khách quan của các tội tham nhũng
Mặt khách quan của các tội tham nhũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc
đánh giá bản chất chính trị, pháp lý của các tội phạm về tham nhũng. Vì vậy,
việc làm sáng tỏ nội dung của mặt khách quan của các tội tham nhũng có ý
nghĩa lớn đối với việc xác định các dấu hiệu của các tội tham nhũng. [30]
Các tội tham nhũng, trước hết là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tập thể, tiền hoặc lợi ích
vật chất khác của dân.
Trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn khi là người có chức vụ, quyền
hạn đã lạm dụng chức năng quyền hạn của mình vượt qua ngồi phạm vi thẩm
quyền mà pháp luật quy định để chiếm đoạt hoặc thu về cho mình hoặc cho
nhóm người mà mình quan tâm đến quyền, tài sản hoặc một lợi ích vật chất
khác.
Trong mặt khách quan của tội tham nhũng thì hành vi lợi dụng (hoặc lạm
dụng) chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để phạm tội là dấu hiệu bắt

buộc để xác định đó là tội tham nhũng.
Ngồi ra khác với trường hợp phạm tội khác, vì người phạm tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi phạm tội ln ln chứa đựng khả
năng tiềm tàng hồn thành việc phạm tội; người phạm tội dễ dàng thực hiện; dễ
12


dàng vơ hiệu hóa các động cơ, điều kiện cản trở và tất nhiên hậu quả là nguy
hiểm dễ xảy ra hơn.
Do đó, trong Bộ luật hình sự nước ta, yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn
được quy định theo hướng phải chịu trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn cả ba
mức độ: là yếu tố định tội của một số tội; là yếu tố định khung tăng nặng của
nhiều tội và là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung đối với các tội cịn
lại. Đối với các tội tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dấu hiệu cấu
thành cơ bản, nên chế tài đối với tội này là nghiêm khắc hơn.
Hành vi thể hiện ra bên ngồi của tội tham nhũng đó là người phạm tội đã
lợi dụng (hoặc lạm dụng) chức vụ, quyền hạn được giao để làm sai lệch hoạt
động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, đi lệch với nhiệm vụ được giao, được pháp
luật quy định. Hành vi của người thực hiện tội phạm này có thể bằng hành động
hoặc có thể khơng hành động, ví dụ cụ thể như sau:
- Hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của cán bộ kiểm lâm
để không không kiểm tra xe hoặc lơ chốt kiểm tra theo yêu cầu của các chủ xe
ghỗ (Điều 354 Bộ luật hình sự).
- Hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội còn thể hiện ở hành vi sử
dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản của người khác ( Điều
355 Bộ luật hình sự).
- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sửa chữa, làm sai lệch nội dung
giấy tờ, tái liệu như tẩy xóa, thêm bớt nội dung giấy tờ, tài liệu (Điểm a, khoản
1, Điều 359 Bộ luật hình sự).
- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm giấy tờ giả, cấp giấy tờ giả

hoặc vừa làm giấy tờ giả, vừa cấp giấy tờ giả (Điểm b, Khoản 1 Điều 359 Bộ
luật hình sự) như: làm bằng giả, sổ hộ khẩu giả, ….
Dấu hiệu thứ hai trong mặt khách quan của các tội tham nhũng là hậu quả
do hành vi đó gây ra. Nghiên cứu hậu quả mặt khách quan có ý nghĩa quan trọng
13


trong việc xác định hành vi nguy hiểm trong xã hội đó có là pham tội tham
nhũng hay chỉ là hành vi phạm pháp luật khác. Việc xác định tính chất và mức
độ của những hành vi phạm tội từ đó giúp ích cho việc cá thể hóa trách nhiệm
hình sự.
Hậu quả của hành vi tham nhũng như đã phân tích có thể là hậu quả về mặt
vật chất, nhưng cũng có thể là hậu quả phi vật chất. Những hậu quả về vật chất
cũng có thể là rất lớn. Nhưng hậu quả về vật chất cho dù có lớn đến mức nào ta
cũng có thể dần dần khắc phục được. Ngồi ra, cịn những hậu quả phi vật chất
cụ thể hơn đó là mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Hậu quả này thể hiện
sự mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước.
Bên cạnh đó, các tội tham nhũng đối với cấu thành vật chất (các Điều 353,
355, 356, 357, 359 Bộ luật hình sự năm 2015) đó là mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi phạm tội của người có chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và
hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra. Hành vi phạm tội của người có chức vụ,
quyền hạn là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả đó. Do vậy, khi người phạm
tội thực hiện hành vi trái pháp luật về tội tham nhũng thì chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự nếu hậu quả do họ gây ra được phát sinh là kết quả tất yếu của
hành vi phạm tội. Còn trong các tội có cấu thành hình thức như: Tội nhận hối lộ
(Điều 354) tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác
để trục lợi (Điều 358) thì dấu hiệu về hậu quả và mối quan hệ nhân quả không
đặt ra như một giấu hiệu bắt buộc.
- Chủ thể của của các tội tham nhũng
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi

do luật định và đã được thực hiện do hành vi phạm tội cụ thể. [Điều 12 Bộ luật
hình sự].
Các tội tham nhũng có chủ thể đặc biệt, tức là người có chức vụ trong các
cơ quan, tổ chức. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, chỉ có người có
14


chức vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi tham
nhũng mới có thể là chủ thể của tội tham nhũng.
Theo Khoản 2, Điều 352, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định khái niệm
người có chức vụ như sau: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử,
do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.” Quy định mới này đã bổ sung mới so
với Bộ luật hình sự cũ là quy định thêm đối tượng là công chức đựơc giao thực
hiện một nhiệm vụ nhất định. Điều đó, xác định rộng hơn về chủ thể của các tội
tham nhũng.
Theo khoản 2, Điều 3, Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi, bổ sung năm
2018 thì người có chức vụ quyền hạn gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ
quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân, viên chức quốc phịng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; Công an nhân dân; ... [Điều 3, Luật
phịng chống tham nhũng]
Như vậy, thì người có chức vụ là người có hai điều kiện là:
Thứ nhất: được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định thông qua việc bổ
nhiệm, bầu cử hoặc do một hình thức khác như thực hiện nghĩa vụ luật định
(Cơng an, Bộ đội), thực hiện nghĩa vụ nghề nghiệp (giáo viên, bác sĩ…).
Thứ hai: có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ. Là
người có quyền quyết định liên quan đến lợi ích của người khác.
Như vậy các dấu hiệu về chủ thể của tội tham nhũng như sau:
- Dấu hiệu xác định thời gian thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ của người có

chức vụ, quyền hạn.
- Dấu hiệu về chức năng nhiệm vụ mà ngươi đó được giao.
- Dấu hiệu về chức năng, nhiệm vụ của người đó có được.
15


- Dấu hiệu xác định người đó đã sử dụng quyền hạn do công việc nào tạo
ra.
- Dấu hiệu chỉ rõ nơi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người có chức vụ.
Trên thực tế, một người có chức vụ thể hiện một quyền năng riêng biệt,
nhưng có thể thực hiện đồng thời các quyền năng. Chẳng hạn một người vừa
thực hiện một quyền năng lãnh đạo, vừa thực hiện chức năng hành chính. Do
vậy, để đánh giá người có chức vụ, quyền hạn sử dụng quyền năng nào để xâm
phạm vào hoạt động đứng đắn của cơ quan Nhà nước.
- Mặt chủ quan của các tội tham nhũng
Các tội tham nhũng được thực hiện bằng lỗi cố ý, vì động cơ vụ lợi hoặc
động cơ cá nhân khác. Người thực hiện tội phạm nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện. Mặt chủ quan của tội phạm là
những diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của người phạm tội đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả do hành vi phạm tội của mình
gây ra.
Mục đích ở tội phạm này khi thực hiện hành vi phạm tội đó là lợi ích vật
chất hoặc lợi ích phi vật chất khác mà họ mong muốn đạt được. Mục đích này
được đặt ra do động cơ vụ lợi cá nhân bên trong thúc đẩy.
Đặc trưng cơ bản của các tội phạm này được thực hiện do cố ý là người có
chức vụ, quyền hạn hoặc trong một số trường hợp người phạm tội không phải là
người có chức vụ quyền hạn phạm tội.
Tội tham nhũng là loại tội phạm mà khi thực hiện hành vi đó, người có
chức vụ, quyền hạn nhận thức rõ được hành vi đó của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả do hành vi đó gây ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy

ra.

16


1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội
tham nhũng
Các tội tham nhũng như trên đã phân tích tại tiểu mục 1.1.2 có những dấu
hiệu giống nhau, nhất là những dấu hiệu trong khách thể của tội phạm và trong
mặt chủ quan của tội phạm. Do vậy, khi phân tích các dấu hiệu pháp lý của từng
tội trong nhóm các tội tham nhũng theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành,
tác giả chỉ tập trung phân tích các dấu hiệu pháp lý có trong yếu tố chủ thể của
tội phạm và trong yếu tố mặt khách quan của tội phạm vốn cho phép phân biệt
tội này với tội khác trong nhóm tội tham nhũng và các trường hợp khác nhau
trong một tội tham nhũng cụ thể. Đồng thời tác giả nêu ra những điểm mới trong
mỗi tội phạm cụ thể.
1.2.1. Quy định về tội tham ơ tài sản
Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015 gồm 6 khoản. Trong đó, khoản 1 quy
định các dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội tham ô tài sản; các
khoản 2, 3, 4 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng; khoản 5 quy định
khung hình phạt bổ sung và khoản 6 quy định trường hợp bị coi là phạm tội
tham ô tài sản.
Theo khoản 1 của điều 353 Bộ luật hinh sự năm 2015, tội tham ô tài sản có
các dấu hiện pháp lý sau:
* Dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội tham ô tài sản
Chủ thể của tội tham ô tài sản được quy định là chủ thể đặc biệt, là người
có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản. Trong đó, trách nhiệm
quản lý tài sản có thể là trách nhiệm phát sinh từ chức vụ hoặc từ nhiệm vụ cụ
thể được giao; có thể phát sinh từ thẩm quyền quản lý chung (thủ trưởng cơ
quan, đơn vị, người đứng đầu tổ chức) hoặc từ chức năng quản lý chuyên môn,

nghiệp vụ về tài chính, kinh tế, tài sản (kế tốn, thủ quỹ, thủ kho). Trong một số
trường hợp đặc biệt, những người tuy khơng có trách nhiệm quản lý tài sản
nhưng được giao nhiệm vụ có thể độc lập tiếp cận tài sản và chịu trách nhiệm về
17


tài sản đó trong một khoảng thời gian nhất định cũng có thể trở thành chủ thể
của tội tham ơ tài sản.
Theo quy định của điều luật, chủ thể của tội này cịn có trường hợp phải là
người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tham ô hoặc đã bị kêt án về một trong cảc
tội tham nhũng mà chưa được xóa án tích.
Ngồi ra, cũng cần chú ý: Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngồi Nhà nước cũng có thể trở thành chủ thể phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản theo khoản 6 cùa điều luật. Có thể thấy đây
là một quy định mới phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước ta hiện nay
* Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội tham ô tài sản
Hành vi khảch quan của tội tham ô tài sản là hành vì lợi dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý (hành vi chiếm
đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý bằng thủ đoạn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn), đó là hành vi dịch chuyển trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước, của tập thể hoặc của các tổ chức, đơn vị ngoài Nhà nước
thành tài sản của mình bằng thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Ở đây, chức
vụ, quyền hạn được giao như điều kiện, phương tiện để có thể dễ dàng dịch
chuyển tài sản được giao quản lý thành tài sản của mình.
Đối tượng tác động của tội tham ơ tài sản là tài sản do người phạm tội trực
tiếp quản lý. Nó có thể là tài sản thuộc sở hữu của cơ quan, tổ chức mà người
phạm tội trực tiếp quản lý và có quyền định đoạt, nhưng cũng có thể là tài sản
không thuộc sở hữu của cơ quan, tổ chức mà được giao trông giữ như chấp hành
viên, thủ kho tang vật được giao bảo quản, giữ tang vật. [7]
So với khoản 1 Điêu 278 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung

một số điều năm 2009 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999) thì khoản 1,
Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, được sủa đổi bổ sung một số điều năm
2017 (sau đây được gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2015) đã bỏ đi quy định đối
với trường hợp chiếm đoạt tài sản mà mình quản lý dưới hai triêu đồng nhưng
18


gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hinh sự. Vì việc xác định
việc gây hậu quả nghiêm trọng chỉ mang tính định tính, khơng khách quan và
phù hợp so với thực tế hiện tại, cho nên việc bỏ quy đinh như trên là phù hợp
với tình hinh thực tế.
Bên cạnh đó, việc định lượng giá trị tài sản theo quy định tại khoản 1, Điều
278 Bộ luật hình sự năm 1999 là từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng, nhưng theo quy định theo quy định tại khoản 1, Điều 353 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì từ hai triệu đồng đến dưới 100.000.000 đồng thì sẽ bị phạt tù từ 2
năm đến 7 năm tù. Đây là quy định phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của
đất nước ta hiện nay. Ngồi ra, tại các khung hình phạt khác cũng đã ấn định giá
trị gây thiệt hại đều tăng lên so với các quy định cũ.
1.2.2. Quy định về tội nhận hối lộ
Điều 354 Bộ luật hinh sự năm 2015 gồm 6 khoản. Trong đó, khoản 1 quy
định cảc dấu hiệu phảp lý và khung hình phạt cơ bản của tội tham ô tài sản; cảc
khoản 2, 3, 4 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng; khoản 5 quy định
khung hình phạt bổ sung và khoản 6 quy định trường hợp bị coi là phạm tội
tham ô tài sản.
Theo khoản 1 của điều 354 Bộ luật hinh sự năm 2015, tội nhận hối lộ có
cáccác dấu hiệu pháp lý sau:
* Dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội nhận hối lộ
Được quy định là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn có thể
làm hoặc khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo u cầu của người khác.
Theo quy định của điều luật, chủ thể của tội này cịn có trường hợp phải là

người đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ hoặc đã bị kết án về một trong
các tội phạm tham nhũng mà chưa được xóa án tích.
* Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội nhận hối lộ

19


Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ được quy định là hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi
ích nào cho chính bản thân.
Theo đó, hành vi khách quan của tội nhận hối lộ gồm hành vi nhận hoặc sẽ
nhận lợi ích bất kỳ (trực tiếp hoặc qua trung gian) và hành vì làm hoặc khơng
làm một việc vì lợi ích hoặc theo u cầu của người đưa hối lộ.
Đây là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn mình trong cơ quan, tổ chức để thực hiện việc nhận về bất kỳ lợi ích
nào (có thể là lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi Vật chất) từ ngưịi đưa hối lộ.
Trong đó, lợi dụng chức vụ tức là lợi dụng chức danh công tác, chức trách hoặc
quyền hạn được giao. Lợi dụng quyền hạn là lợi dụng quyền năng cụ thể được
giao do có chức vụ hoặc do một căn cứ khác. Trên thực tế, hành vi nhận của hối
lộ có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là nhận tiền hay
lợi ích vật chất một cách thuần túy theo kiểu trao tay hoặc nhận dưới vỏ bọc hợp
pháp như nhận thưởng hoặc tiền thù lao (thực chất khơng chính đáng), nhận lợi
ích bất chính qua hình thức hợp đồng (như hợp đơng vay tiền nhưng sau đó
khơng hồn trả, hợp đồng bán tài sản với giá cao hơn hoặc mua tài sản với giá
thấp hơn giá trị thực tê của tài sản), hoặc qua các loại hình dịch vụ (khơng phải
trả chi phí v.v..
Hành vi làm hoặc khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo u cầu của
người đưa hối lộ có thể là hành vi trái pháp luật hoặc hành vi không trái pháp
luật nhưng đều là hành vi được thực hiện trên cơ sở lợi dụng chức vụ, quyền
hạn. Trường hợp hành vì làm hoặc khơng làm (của người nhận lợi ích) là hành

vi trái pháp luật có thể như: Điều tra viên nhận lợi ích của bị can đang bị tạm
giam để thay đổi (không đúng pháp luật) biện pháp ngăn chặn tạm giam thành
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (cho tại ngoại), Thẩm phán nhận lợi ích vật
chất của bị cáo để cho người này được hưởng án treo (không đúng pháp luật)
hoặc người tiến hành tố tụng đã không tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự
người có tội do đã nhận lợi ích từ họ… [7]
20


So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung
thêm của nhận hối lộ là dạng lợi ích phi vật chất. Đây là một quy định hồn tồn
mới trong Bộ luật hình sự và nó phù hợp với tình hình phát triển của nước ta
hiện nay.
Bên cạnh đó, do yếu tố phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
thì các giá trị tài sản quy định trước đây khơng cịn phù hợp, nên theo Bộ luật
hình sự năm 2015 thì các khung hình phạt đã tăng giá trị nhận hố lộ lên cao hơn
so với Bộ luật hình sự năm 1999,
Tại khoản 6, Điều 354 Bộ luật hình sự năm 2015 đã chính thức bổ sung
thêm đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này là: “ người có chức
vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoai Nhà nước mà nhận hối lộ,
thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”. Có thể thấy với tình hình phát triển
cơng nghiệp hóa hiện đại háo của đất nước thi các doanh nghiệp nhà nước đang
dần cổ phần hóa để thúc đẩy phát triển nền kinh tế của Nhà nước ta hiện nay,
nên việc quy định này giúp đảm bảo việc không bỏ lọt tội phạm trong q trình
thi hành cơng vụ.
1.2.3. Quy định về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Điều 355 Bộ luật hình sự năm 2015 gồm 5 khoản. Trong đó, khoản 1 quy
định các dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản; các khoản 2, 3, 4 quy định các trừơng hợp phạm
tội tăng nặng và khoản 5 quy định khung hình phạt bổ sung.

Theo khoản 1 của điều luật, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản có các dấu hiệu pháp lý sau:
* Dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản
Chủ thể của tội này được quy định là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ,
quyền hạn.
21


* Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản
Hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản được quy định là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn
lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Trong đó, lạm đụng chức vụ, quyền hạn được
hiểu là hành vi sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như là một phương tiện để
làm một việc vượt quá chức năng, quyền hạn của mình. Hành vi đó có thể là:
+ Uy hiếp tinh thần người khác để chiếm đoạt tài sản của họ.
+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác để chiếm đoạt tài sản
của họ. Về hình thức, trường hợp này tương tự như tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản và chỉ khác ở chỗ, chủ thể đã sử dụng chức vụ quyền hạn của mình làm
phương tiện để thực hiện hành vi lừa dối. Người bị lừa do tin vào chức vụ,
quyền hạn của người phạm tội mà bị chiếm đoạt mất tài sản.
+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác đã được
giao cho mình trên cơ sở tín nhiệm. Trường hợp này, về hình thức, tương tự như
hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và chỉ khác ở chỗ, việc giao tài
sản là do tin vào chức vụ, quyền hạn của người phạm tội. [7]
Cũng như các tội tham nhũng trên, các nhà làm luật đã bỏ đi quy định trong
cấu thanh tội phạm cơ bản là “gây hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu xác định
tội phạm. Vì việc xác định như thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ
mạng tính nhận định cảm tính. Thay vào đó nhà làm luật đã ấn định trị giá tài

sản cụ thể trong khung cấu thành tội phạm cơ bản.
Tại các khoản cấu thành tội phạm tăng năng các nhà làm luật đã sủa đổi Bộ
luật hình sự năm 1999 theo hướng cụ thể hóa trị giá tài sản chiếm đoạt và tăng
các giá trị đó lên để phù hợp so với nền kinh tế pháp triển và xã hội hiện nay.
Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm quy định về hành
vi chiếm đọa tài sản dùng vào các mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp,
22


×