Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự (qua thực tiễn tỉnh thanh hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.79 KB, 19 trang )

Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân
sự (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa).


Lê Trung Kiên


Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Luật
Chuyên ngành: Lý luận lịch sử Nhà nước và pháp luật; Mã số: 60.38.01.
Người hướng dẫn: GS. TSKH. Đào Trí Úc.
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án
dân sự (THADS ) trong điều kiện ở nước ta hiện nay. Đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nước
trong lĩnh vực THADS và đưa ra một số nguyên nhân của thực trạng đó. Kiến nghị những giải
pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy công tác THADS nói
riêng và hoạt động thi hành án nói chung để đạt hiệu quả cao hơn.

Keywords: Thi hành án; Pháp luật Việt Nam; Tố tụng dân sự; Thanh Hóa; Vụ án dân sự
Content.

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động của Nhà nước để đưa bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án, của các cơ quan có thẩm quyền khác được tôn trọng và thực hiện trên thực tế
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững kỷ
cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Chính vì vậy, thi hành án nói chung,
THADS nói riêng đã trở thành một nguyên tắc hiến định được ghi nhận tại Điều 136 Hiến pháp 1992 sửa
đổi bổ sung năm 2001 và Điều 4 Luật THADS.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội khóa IX ngày 06/10/1992 và Pháp lệnh THADS năm 1993, công


tác THADS được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương.
Gần 20 năm qua, công tác THADS đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, công tác THADS hiện
nay còn bộc lộ những tồn tại và hạn chế như: hệ thống văn bản pháp luật về THADS thiếu đồng bộ, việc
kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định còn chậm; cơ sở vật chất vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng
khiếu nại, tố cáo có diễn biến phức tạp; hoạt động phối hợp trong THADS có lúc, có nơi chưa được quan
tâm, chú trọng; kết quả công tác THADS hàng năm tăng chậm, không bền vững, án tồn đọng chuyển sang
năm sau còn nhiều; một số tổ chức, cá nhân chưa nhận thức và coi trọng công tác THADS. Vì vậy, hiệu
quả của công tác THADS chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu và đảm bảo được tính công bằng, nghiêm
minh của pháp luật. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng trên, đó là vai trò của Nhà nước
và quản lý nhà nước đối với công tác THADS còn hạn chế.
Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài luận văn cao học Luật "Vai trò của Nhà nước trong
lĩnh vực thi hành án dân sự (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực THADS như: Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục
THADS - Bộ Tư pháp thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì. Một số công trình nghiên cứu
khác như: Luận văn thạc sĩ Luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân sự" của tác giả Hoàng
Kim Chiến; Luận văn thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng; Luận
văn thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang
Thái. Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật Thi hành án dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội; một số bài viết
đăng trên các tạp chí, sách báo chuyên ngành Luật… Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về nội dung này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Mục đích:
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực
THADS, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp nâng cao vài trò của Nhà nước trong lĩnh
vực THADS trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
- Nhiệm vụ:

Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS hiện nay; Đánh giá
đúng đắn, toàn diện thực trạng vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS và nguyên nhân của thực
trạng đó; kiến nghị những giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy công
tác THADS đạt hiệu quả cao hơn.
- Giới hạn:
Vấn đề đặt ra chỉ giới hạn trong những nội dung cơ bản về vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực
THADS để tìm ra giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước, góp phần hoàn thiện hoạt động thi hành án
nói chung và THADS nói riêng trong điều kiện nước ta hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu gồm: Phân tích, tổng hợp, lịch sử,
luật học so sánh để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài.
5. Điểm mới của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, thực trạng, nguyên nhân và đưa
ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước cũng như hiệu quả công tác trong lĩnh vực
thi hành án nói chung, THADS nói riêng.
6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu
Hiện nay, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của Nhà nước trong lĩnh
vực THADS. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu về vai trò của Nhà nước và quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án; sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và đặc biệt là cho việc từng bước hoàn thiện pháp luật về thi
hành án trong bối cảnh hiện nay ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Chương 2: Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở Thanh Hóa hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự
tại Thanh Hóa.
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Nội dung và đặc điểm của lĩnh vực thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Quan niệm về THADS là đề tài tranh luận chưa có hồi kết trên diễn đàn khoa học pháp lý. Hiện tại có
một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng.
Quan điểm thứ hai khẳng định, thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp.
Quan điểm thứ ba, xác định, thi hành án là hoạt động tư pháp.
Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp là hợp lý hơn cả.
Bởi lẽ, thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động mang tính hành chính, hay tư pháp, không phải là
giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Bản chất của hoạt động thi hành án thể hiện rõ cả hai đặc điểm
đó là tính hành chính và tính tư pháp.
Để làm rõ khái niệm THADS, chúng ta phải hiểu như thế nào về "dân sự" trong THADS. Hiện có hai
nhóm ý kiến khác nhau như sau: Ý kiến thứ nhất, xác định "dân sự" theo nghĩa hẹp. Cơ sở để đưa ra ý kiến
này xuất phát từ quy định tại Điều 1 của Bộ luật Dân sự năm 2005 cho rằng: quan hệ dân sự bao gồm quan hệ
về tài sản và nhân thân phi tài sản trong giao lưu dân sự. Ý kiến thứ hai hiểu khái niệm "dân sự" ở đây theo
nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng
dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao
gồm các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai và từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm THADS
như sau: THADS là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành
theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
1.1.2.1. Thi hành án dân sự mang bản chất hành chính - tư pháp
- Tính chất tư pháp trong hoạt động THADS.
- Tính chất hành chính của hoạt động THADS.
1.1.2.2. Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên và đương sự (người phải thi hành án, người được thi hành án)

Quan hệ THADS luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc là cơ quan THADS, Chấp hành viên và các bên
đương sự (người phải thi hành án, người được thi hành án) hình thành trên cơ sở thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Cơ
quan THADS và Chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước để thi hành bản án, quyết định
theo quy định. Về nguyên tắc, tính chủ động, độc lập của Chấp hành viên trong hoạt động nghiệp vụ luôn
được tôn trọng, bảo vệ.
1.1.2.3. Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành án của các bên đương sự
Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải trong quan hệ dân sự. Ngoài
những trường hợp phải chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định, cơ quan thi hành án chỉ tổ chức
thi hành án trên cơ sở yêu cầu của người phải thi hành án, người được thi hành án, đồng thời phải tôn
trọng và đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự nguyện thi hành án.
1.1.2.4. Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Trình tự, thủ tục THADS là một cơ chế chặt chẽ theo quy định của pháp luật THADS nhằm phục vụ cho
chức năng thi hành án. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, thủ tục THADS phải đảm bảo tính chính xác
cao độ, bởi lẽ hoạt động thi hành án là để hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
THADS, vì vậy, nếu cơ quan thi hành án, Chấp hành viên áp dụng pháp luật THADS không chính xác sẽ dẫn
đến hậu quả thực tế rất khó khắc phục.
1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự
1.2.1. Sơ lược lịch sử quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự
- Thời Pháp thuộc;
- Giai đoạn từ năm 1945 đến 1993;
- Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2004;
- Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2009;
- Giai đoạn từ năm 2009 đến nay.
1.2.2. Khái niệm chung về quản lý nhà nước
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý nhưng tóm lại, quản lý là sự tác động lên một
hệ thống nào đó với mục tiêu đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm trù xuất
hiện trước khi có Nhà nước, được phát sinh từ lao động, không tách rời với lao động. Như vậy, quản lý xã
hội không phải là sản phẩm của sự phân chia quyền lực, mà là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm
liên kết và phối hợp hoạt động chung của con người.

Theo nghĩa rộng quản lý nhà nước là sự quản lý của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, theo nghĩa
hẹp quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan hành chính nhà. Như vậy,
"Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới các
đối tượng quản lý nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy tất cả các cơ quan
nhà nước đều thực hiện chức năng quản lý nhà nước".
1.2.3. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS có thể được hiểu là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước
trong lĩnh vực THADS nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh đối với hoạt động THADS do các cơ quan
THADS tiến hành để hiện thực hóa những bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền theo quy định và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước.
1.2.4. Các nguyên tắc quản lý
Theo từ điển tiếng Việt: "Nguyên tắc là điều cơ bản định ra nhất thiết phải tuân theo trong một loạt
việc làm". Như vậy, nguyên tắc là tư tưởng cốt lõi, chủ đạo, chỉ đạo hoạt động và xuyên suốt trong hoạt
động đó. Nguyên tắc quản lý THADS là những tư tưởng cốt lõi, chỉ đạo được quy định trong đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực THADS, bao gồm:
a. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
b. Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa
c. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành, với quản lý theo chức năng và lãnh thổ
d. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của các cơ quan có
thẩm quyền trong phạm vi toàn quốc.
1.2.5. Hình thức, phương pháp quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự
Hình thức quản lý là cách thức biểu hiện hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước
trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền đối với các quan hệ xã hội. Lĩnh vực
THADS bao gồm những hình thức quản lý nhà nước như sau:
- Hình thức ban hành văn bản quản lý nhà nước
- Hình thức ban hành văn bản áp dụng pháp luật
- Hình thức áp dụng các hoạt động mang tính chất pháp lý khác



1.2.6. Nội dung cụ thể và thủ tục quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự
Hiện nay, theo quy định của Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn, nội dung và thủ tục
quản lý THADS được quy định như sau:
a. Quản lý về mặt tổ chức, cán bộ
Hiện nay cơ quan THADS được chia làm hai loại: Cơ quan quản lý THADS gồm Tổng cục THADS
thuộc Bộ Tư pháp, Cục thi hành án trực thuộc Bộ Quốc phòng; Cơ quan THADS gồm: Cục THADS cấp
tỉnh trực thuộc Tổng cục THADS, Chi cục THADS cấp huyện trực thuộc Cục THADS cấp tỉnh và phòng
thi hành án quân khu và tương đương là cơ quan thi hành án trực thuộc quân khu.
b. Quản lý về cơ sở vật chất
Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương theo thẩm quyền được phân cấp
sẽ ban hành hoặc thực hiện các chế độ chính sách cụ thể, các văn bản hướng dẫn về công tác bảo đảm cơ
sở vật chất cho Ngành THADS.
c. Quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ
Tổng cục THADS có nhiệm vụ quản lý về mặt chuyên môn, nghiệp vụ công tác THADS trong phạm
vi toàn quốc, Cục THADS tỉnh quản lý, chỉ đạo về nghiệp vụ THADS trên địa bàn. Cục thi hành án - Bộ
Quốc phòng giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nghiệp vụ THADS trong quân
đội. Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, cấp huyện, Tư lệnh quân khu và tương đương có trách nhiệm chỉ
đạo việc tổ chức phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong THADS trên địa bàn, chỉ đạo việc cưỡng chế
thi hành các vụ án lớn, phức tạp. Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Chấp hành viên
trong việc xác minh, áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS…
d. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự
e. Xử lý vi phạm và các hình thức trách nhiệm trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Hoạt động THADS chủ yếu là hoạt động xử lý tài sản, do đó nguy cơ dẫn đến vi phạm trong hoạt
động nghiệp vụ của cán bộ, Chấp hành viên trong ngành là tương đối cao. Thực tiễn công tác THADS
trong phạm vi toàn quốc thời gian qua phát sinh không ít các vụ việc vi phạm, đây là vấn đề gây nhiều
quan ngại đối với dư luận xã hội. Để nâng cao vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực THADS, bên cạnh
các yếu tố khác, Nhà nước cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát… có cơ chế nhạy
bén để sớm phát hiện sai phạm và kịp thời xử lý nghiêm các sai phạm, đồng thời áp dụng các hình thức
trách nhiệm, các chế tài pháp lý thích đáng đối với các vi phạm đó.
1.2.7. Chủ thể quản lý

- Chủ thể quản lý theo lãnh thổ: Chính phủ thống nhất quản lý công tác THADS trong phạm vi toàn
quốc; UBND các cấp theo quy định quản lý công tác THADS trên phạm vi địa bàn.
- Chủ thể quản lý theo ngành gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục
THADS - Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng, Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.

1.3. Khung pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay ở nƣớc ta
Điều 136 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 ghi nhận "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân
dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành".
Cụ thể Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm
2011 từ Điều 375 đến Điều 383 quy định về thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án. Nhưng phải đến,
Luật THADS năm 2008 gồm 9 chương, 183 điều, được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 14 tháng 11 năm
2008, lần đầu tiên khung pháp luật về THADS ở Việt Nam mới được hoàn thiện cơ bản.
1.4. Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự và vai trò hỗ trợ của Nhà nƣớc
Chủ trương xã hội hóa hoạt động THADS đã được đề cập đến trong nhiều văn kiện, nghị quyết của
Đảng như Nghị quyết số 08-NQ/TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị. Chủ trương xã hội hóa
hoạt động THADS của Đảng có cơ sở thực tiễn và lý luận, bởi vì hoạt động THADS ngoài việc bảo vệ
"lợi ích công" của Nhà nước như thu án phí, tiền phạt… còn lại là các hoạt động bảo vệ "lợi ích tư", điều
chỉnh các các mối quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức mang "bản chất tư", tức là đề cao quyền tự nguyện,
tự thỏa thuận, bình đẳng của các đương sự. Chính trong những loại việc này, Nhà nước nên chia sẻ với xã
hội. Nói cách khác, Nhà nước nên xem các việc thi hành án đó là một loại hình dịch vụ pháp lý và giao
cho tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện đảm nhiệm trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện của đương sự. Hơn nữa,
lịch sử hoạt động Tư pháp ở nước ta cho thấy, chế định Thừa phát lại cũng không phải xa lạ, mô hình này
đã có ở miền Bắc và tồn tại ở miền Nam đến hết năm 1975.
THADS là hoạt động của Nhà nước, tuy nhiên khi thực hiện chủ trương xã hội hóa THADS, Nhà nước giữ vai
trò hỗ trợ và đảm bảo cho hoạt động của Thừa phát lại phát triển theo đúng định hướng, loại trừ việc biến hoạt
động thừa phát lại thành dịch vụ "đòi nợ thuê", làm phức tạp tình hình trật tự, trị an, gây những hậu quả xã hội xấu.
Vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/2009/NĐ-CP thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí
Minh, bước đầu đảm bảo hoạt động xã hội hóa THADS đi vào đời sống thực tế


Chương 2
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở THANH HÓA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa
Đặc điểm tự nhiên:
Thanh Hóa là tỉnh bắc miền Trung, có diện tích tự nhiên 11.134,73 km
2
, đồi núi chiếm 3/4 diện tích
của tỉnh. Thanh Hóa nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nền nhiệt cao, thời tiết khí hậu đã gây ra không ít
khó khăn (khô hạn, bão lụt, rét đậm) cho sản xuất và đời sống, đặc biệt là giao thông đi lại giữa các vùng
trong tỉnh.
Đặc điểm kinh tế - xã hội:
Tỉnh Thanh Hóa gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 24 huyện, trong đó có 11 huyện miền núi; gồm 637 xã,
phường, thị trấn. Năm 2010, dân số của tỉnh là 3,4 triệu người (lớn thứ 3 trong cả nước), gồm 7 dân tộc.
Thanh Hóa là tỉnh có các tuyến giao thông quan trọng đi qua. Giai đoạn 2006 - 2010, nền kinh tế của tỉnh duy
trì được tốc độ tăng trưởng khá, bình quân đạt 11,3%, GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 810 USD.
Trong những năm qua, môi trường đầu tư trong tỉnh đã được cải thiện, kết cấu kinh tế - xã hội được tăng
cường mạnh mẽ, thu ngân sách hằng năm luôn vượt mức dự toán, nền kinh tế từng bước phát triển năng
động, đời sống của nhân dân trong tỉnh được nâng cao.
2.1.2. Sơ lược quá trình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
Tác giả luận văn sơ lược quá trình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa theo ba giai đoạn:
- Từ ngày 01/7/1993 đến ngày 30/6/2004.
- Từ ngày 01/7/2004 đến ngày 30/6/2009.
- Từ ngày 01/7/2009 đến nay.
2.1.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
2.1.3.1. Hoạt động nghiệp vụ Thi hành án dân sự
Qua khảo sát tại Cục THADS tỉnh Thanh Hóa từ năm 2007 đến hết tháng 8 năm 2011, kết quả hoạt
động nghiệp vụ THADS như sau: các chỉ tiêu thi hành án về việc đã đạt được những kết quả khả quan nhất

định. Trước hết, tổng số thụ lý thi hành án (gồm thụ lý mới + năm trước chuyển sang) về việc giảm đều hàng
năm, số việc thụ lý mới hàng năm tăng đều từ 4.461 việc năm 2007 đến 5.039 việc năm 2010, đến hết tháng 9
năm 2011 đã thụ lý mới 5.032 việc. Điều đó có nghĩa là, số việc từ năm trước chuyển sang giảm đều qua các
năm. Tuy nhiên, số việc thi hành xong không có sự tăng trưởng mạnh, hàng năm án tồn đọng chuyển sang
năm sau trên 5000 việc, có nhiều vụ tồn đọng kéo dài.
Thống kê về tiền lại cho thấy kết quả THADS đáng báo động, số tiền chưa thi hành được từ năm
trước chuyển sang tăng đều qua các năm (phản ánh tồn đọng về giá trị gia tăng. Kết quả giải quyết xong
qua các năm thường chỉ đạt bằng 1/3 tổng số thụ lý, số tiền thực thu đạt thấp, tăng trưởng không bền
vững; phân loại số tiền có điều kiện và chưa có điều kiện có sự chênh lệch lớn, phản ánh sự phân loại án
có điều kiện và không có điều kiện thi hành chưa thực sự đảm bảo chính xác.
2.1.3.2. Hoạt động tổ chức, cán bộ
Thực hiện Luật THADS năm 2008, công tác kiện toàn bộ máy tổ chức và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức THADS trong tỉnh được tăng cường mạnh mẽ, tích cực, hiệu quả.
Việc bổ nhiệm và làm thủ tục đề nghị bổ nhiệm các chức danh; Việc tuyển dụng, tiếp nhận, điều động,
thuyên chuyển công chức; Việc giải quyết chế độ chính sách; Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ
từ năm 2010 đến nay được đẩy mạnh. Tuy nhiên, công tác tổ chức, cán bộ còn không ít những khó khăn, như:
thiếu biên chế, thiếu một số chức danh lãnh đạo chủ chốt, nguồn cán bộ kế cận tại chỗ chưa đủ điều kiện để
thay thế. Việc kiện toàn tổ chức Đảng và các đoàn thể tại một số đơn vị còn chậm, cá biệt vẫn còn số ít đơn vị
chưa chủ động tham mưu, để kịp thời kiện toàn Ban Chỉ đạo THADS. Tình trạng kỷ luật lỏng lẻo tại một vài
đơn vị vẫn chưa được khắc phục. Chất lượng cán bộ tuy được tăng cường nhưng so với các ngành trong khối
nội chính vẫn còn hạn chế.
2.1.3.3. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự
Từ 01/01/2007 đến nay, thống kê công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan THADS tỉnh
Thanh Hóa như sau: Cấp tỉnh: Tổng thụ lý về khiếu nại: 40 việc; về tố cáo: 03 việc; đã giải quyết xong
100%. Cấp huyện: Tổng thụ lý về khiếu nại: 30 việc; về tố cáo: 04 việc; đã giải quyết xong 100 %.
Tuy nhiên, tình trạng khiếu nại, tố cáo hàng năm đang có những diễn biến phức tạp. Hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở vẫn còn yếu kém, cán bộ làm công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo còn kiêm nhiệm nhiều việc. Một số Chi cục ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đúng
thể thức, nội dung quyết định chưa đầy đủ. Còn những vụ việc khiếu nại chưa có sự thống nhất cao trong
quan điểm giải quyết. Chế độ báo cáo, thống kê về giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn chưa được duy trì thường

xuyên, đồng đều
2.1.3.4. Về cơ sở vật chất
Hiện nay các cơ quan THADS trong toàn tỉnh đã được quan tâm, đầu tư đúng mức. Hầu hết các trụ sở làm
việc được xây dựng khang trang, hiện đại, tiêu biểu như trụ sở làm việc của Chi cục THADS thành phố Thanh
Hóa; Quảng Xương, Đông Sơn… các cụm công trình làm việc và kho vật chứng được xây dựng tại các đơn vị như
Tĩnh Gia, Thọ Xuân, Thường Xuân, Hoằng Hóa Trang thiết bị, phương tiện làm việc được nâng cấp, các đơn vị
đều có xe công (1-2 xe máy cho mỗi Chi cục; 03 ô tô cho Cục), cấp kinh phí thường xuyên và bổ sung đảm bảo, đã
tạo điều kiện vật chất cần thiết để thúc đẩy hoạt động thi hành án đạt hiệu quả cao.
Tuy nhiên, còn một số trụ sở làm việc của các đơn vị thi hành án trong tỉnh đã cũ, xuống cấp, chật hẹp,
không đáp ứng được yêu cầu công việc. Công tác xây dựng và triển khai kế hoạch xây dựng trụ sở làm việc,
kho tàng còn chậm. Việc thanh, quyết toán một số công trình xây dựng không kịp thời. Tài sản của một số đơn
vị thi hành án trong tỉnh do quản lý, sử dụng không tốt đã xuống cấp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong công tác THADS còn yếu. Tại một vài Chi cục có biểu hiện vi phạm trong việc thực hiện chế độ quản lý,
sử dụng kinh phí
2.1.3.5. Hoạt động phối hợp trong THADS và vai trò chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS các cấp
Từ khi có Luật THADS, hoạt động phối hợp trong THADS đã được tăng cường về số lượng, nâng
cao về chất lượng. Việc củng cố kiện toàn Ban Chỉ đạo THADS cũng được cấp ủy, chính quyền các cấp
quan tâm, chỉ đạo và hầu hết các đơn vị THADS trong tỉnh chủ động tham mưu kịp thời.
Tuy nhiên, hoạt động phối hợp trong THADS vẫn còn không ít những khó khăn, vướng mắc như: có
không ít các cơ quan, trong không ít những vụ việc thực hiện phối hợp THADS còn mang tính chất hình thức,
miễn cưỡng. Một số phương tiện thông tin đại chúng do không kiểm tra, biên tập kỹ nên đã đăng bài viết về
một số việc cưỡng chế THADS trong tỉnh thiếu khách quan, thiếu kiến thức pháp luật. Còn một số địa
phương chưa kiện toàn được Ban Chỉ đạo THADS. Hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS vẫn chưa được
chủ động và thường xuyên. Không ít các thành viên của Ban Chỉ đạo THADS tham gia mang tính hình thức,
không biết và chưa được phân công làm việc gì
2.2. Thực trạng vai trò của Nhà nƣớc và quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự
tại Thanh Hóa
2.2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự tại Thanh Hóa hiện nay
Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển của hoạt động THADS thể hiện rõ nhất trong việc hoạch định, ban
hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về THADS. Hiện nay, Luật THADS năm 2008 và các văn bản

hướng dẫn hiện hành đã bổ sung những quy định mới có tính chất ưu việt hơn so với Pháp lệnh THADS năm 2004
như: Đổi mới hệ thống tổ chức, cán bộ của các cơ quan THADS. Về trình tự, thủ tục THADS đã bổ sung những
quy định phù hợp, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Đối với tỉnh Thanh Hóa để chỉ đạo thực hiện tốt công tác
THADS, trước đây Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản pháp quy như: Chỉ thị số 03/2001/CT-UB
ngày 12/3/2001 về việc tăng cường chỉ đạo và tổ chức THADS; Kế hoạch số 1408/KH-UB ngày 13/5/2002 về việc
kiểm tra, đánh giá lại công chức THADS trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 1689/QĐ-UBND về việc thành lập Ban
Chỉ đạo THADS, Chỉ thị số 01/CT-UB ngày 05/01/2005 về việc tăng cường và nâng cao hơn nữa công tác
THADS trên địa bàn; Quyết định số 1056/QĐ-UBND ngày 06/4/2011 về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo THADS tỉnh
Thanh Hóa và ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS tỉnh theo quy định. Tóm lại, pháp luật về
THADS nói chung và những văn bản pháp quy do UBND tỉnh ban hành để tăng cường chỉ đạo, quản lý công tác
THADS trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều tiến bộ.
Bên cạnh đó, Pháp luật về THADS hiện nay và các văn bản pháp quy của Chính quyền các cấp tỉnh
Thanh Hóa về lĩnh vực THADS vẫn còn những điểm vướng mắc, chưa phù hợp, không khả thi làm giảm
hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh.
2.2.2. Thực trạng về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
2.2.2.1. Quản lý nhà nước về chuyên môn, nghiệp vụ
Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS đã kịp thời ban hành và phối hợp với các cơ quan hữu quan ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn Luật, đã tăng cường các đợt tập huấn cho Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành
viên, Thẩm tra viên, Thư ký thi hành án. Công tác hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục THADS theo đề nghị
của cơ quan THADS địa phương cũng được làm tốt hơn, hoạt động kiểm tra được đẩy mạnh, từng bước bảo
đảm cho các cơ quan THADS trong toàn quốc thực hiện thống nhất và có hiệu quả Luật THADS năm 2008.
Đối với Cục THADS tỉnh Thanh Hóa hàng năm thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn, hướng dẫn
nghiệp vụ cho các Chấp hành viên, kế toán cơ quan thi hành án. Việc hướng dẫn, chỉ đạo theo yêu cầu vụ việc
cụ thể của cấp dưới cũng được Cục tiến hành có chất lượng và kịp thời hơn; đồng thời cử cán bộ, Chấp hành
viên tỉnh có năng lực, kinh nghiệm tham gia chỉ đạo các vụ việc cưỡng chế khó khăn, phức tạp của cơ sở.
Công tác kiểm tra nghiệp vụ thi hành án được duy trì hàng năm ít nhất một lần đối với 27 Chi cục trong tỉnh.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Cục THADS hiện nay vẫn còn
mang tính chất sự vụ, chưa có kế hoạch tổng thể.
Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân như:
- Về chủ quan.

- Về khách quan.
2.2.2.2. Quản lý nhà nước về tổ chức cán bộ
Triển khai quy định của pháp luật trong tình hình mới, các chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước về công
tác tổ chức, cán bộ lĩnh vực THADS đã thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm kiện toàn bộ máy, từng bước
đảm bảo cơ cấu chức danh quản lý, chức danh chuyên môn, làm tốt công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
điều động, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, công chức ngành THADS tỉnh; kiên quyết xử lý cán bộ, công chức có
biểu hiện vi phạm nhằm chấn chỉnh kỷ cương, tăng cường kỷ luật để xây dựng bộ máy hoạt động hiệu quả theo
quy định, đồng thời nâng cao toàn diện chất lượng cán bộ, công chức trong Ngành.
Dù vậy, công tác tổ chức cán bộ của ngành THADS tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn về cả tổ
chức, bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ cũng như phương pháp, hiệu quả tiến hành công tác tổ chức,
cán bộ. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu từ vai trò còn hạn chế của Nhà
nước trong lĩnh vực THADS.
2.2.2.3. Quản lý nhà nước về cơ sở vật chất
Trong những năm qua, cơ sở vật chất của ngành THADS đã được đầu tư, nâng cấp. Tuy vậy, việc
triển khai xây dựng, sửa chữa một số công trình trụ sở làm việc, kho vật chứng còn chậm, chất lượng
công trình chưa đảm bảo; việc quản lý cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động chưa chặt chẽ, thủ tục cấp phát
kinh phí vẫn rườm rà, chính sách đãi ngộ cán bộ chưa thực sự thỏa đáng. Hơn nữa, ngành chủ quản chưa
tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc cấp phát, sử dụng kinh phí, quản lý cơ sở vật chất của các đơn vị cơ sở,
do trình độ của công chức làm kế toán và chủ tài khoản còn hạn chế, ý thức trách nhiệm chưa cao nên tại một
số Chi cục, cơ sở vật chất đang trong tình trạng xuống cấp, thậm chí có đơn vị sử dụng kinh phí tùy tiện, sai
nguyên tắc đã bị xử lý kỷ luật.
2.2.2.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự
Trong năm 2011 Cục thi hành án tỉnh đã tổ chức tập huấn về công tác tiếp dân và giải quyết khiếu
nại, tố cáo, tiến hành kiểm tra đối với 14 Chi cục THADS trong tỉnh. Chính vì vậy, chỉ tính riêng năm
2011, trong phạm vi toàn tỉnh không có đơn thư khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài, đã tiếp nhận 74 đơn
khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị…, đã xử lý giải quyết 74/74 đơn.
Thế nhưng, hiện nay về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo tại
Cục THADS tỉnh vẫn chưa đảm bảo (không có phòng tiếp dân). Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ
sở còn hạn chế, năng lực của cán bộ được giao phụ trách công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu, vì vậy vẫn còn những quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của các Chi cục, bị cấp trên

sửa hoặc hủy theo quy định. Mặt khác, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Quy chế giải quyết khiếu nại,
tố cáo về THADS ban hành kèm theo Quyết định số 1420/QĐ-KNTC ngày 01/6/2010 của Tổng cục trưởng
Tổng cục THADS chưa đủ để các cơ quan THADS địa phương thực hiện, nhất là đối với các vụ việc khiếu
nại, tố cáo phức tạp.
2.2.2.5. Xử lý vi phạm và các hình thức trách nhiệm trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Thực hiện Luật THADS năm 2008, hệ thống cơ quan THADS được kiện toàn, nhất là các cơ quan
THADS địa phương. Do đó, công tác kiểm tra được Cục THADS tỉnh tiến hành thường xuyên, toàn diện,
có chất lượng cao hơn rõ rệt, việc phát hiện và xử lý vi phạm cũng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh.
Chỉ tính riêng trong 02 năm 2010 và 2011, Cục đã xử lý kỷ luật đối với 04 trường hợp công chức có vi
phạm (03 khiển trách, 01 cảnh cáo). Những việc làm trên rất có ý nghĩa trong việc tăng cường kỷ luật và
nề nếp làm việc, góp phần xây dựng, củng cố ngành từng bước vững mạnh hơn.
Dù vậy, vẫn còn những cán bộ, công chức trong ngành ý thức kỷ luật chưa cao, những cá nhân, tập thể
có biểu hiện vi phạm chưa được phát hiện kịp thời. Công tác kiểm tra, xử lý vi phạm có lúc, có trường hợp
còn mang tính hình thức, nể nang, chưa thực sự quyết liệt, tạo ảnh hưởng không tốt trong việc xây dựng đội
ngũ cán bộ trong sạch, đơn vị THADS vững mạnh.
2.2.2.6. Quản lý nhà nước một số mặt công tác khác
a. Công tác phối hợp trong THADS và hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS.
b. Công tác Thi đua, khen thưởng
c. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật THADS
Ngành THADS tỉnh thường xuyên phối hợp với Sở Tư pháp, với các phương tiện thông tin đại chúng
để tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Ngoài ra, trong
năm 2011, Cục đã đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền trong đợt bầu cử Quốc Hội và HĐND các cấp; tiến
hành cấp phát tờ rơi, tờ gấp với các nội dung cơ bản của pháp luật THADS với số lượng 40.000 tờ đến
637 xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật THADS vẫn còn hạn chế. Sở Tư pháp, các cơ quan báo chí chưa làm tốt công tác này. HĐND
các cấp tỉnh Thanh hóa cũng chưa thực sự giám sát có hiệu quả hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật THADS. Kinh phí để tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa đảm bảo.

Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THANH HÓA
3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
Trên cơ sở đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Qua thực
tiễn hoạt động THADS tại tỉnh Thanh Hóa, để không ngừng đổi mới và hoàn thiện pháp luật về THADS,
chúng tôi có một số ý kiến sau:
Trước hết, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tập hợp hóa, pháp điển hóa hệ thống pháp luật về
THADS để rà soát, đối chiếu loại bỏ những quy phạm, những văn bản pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo,
kịp thời bổ sung những văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực THADS đang
còn bỏ trống, đảm bảo xây dựng hệ thống pháp luật về thi hành án đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch. Mặt khác, cần ban hành một Bộ luật chung về thi hành án. Trong đó, có phạm vi điều
chỉnh bao quát toàn diện các lĩnh vực thi hành án dân sự, hình sự, hành chính, quy định tập trung một đầu
mối quản lý thống nhất hoạt động thi hành án. Cũng cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật điều chỉnh
hoạt động giám sát thi hành án, vấn đề xã hội hóa công tác THADS và chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức trong Ngành.
3.2. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức ngành
thi hành án dân sự
Những định hướng, giải pháp trong phạm vi toàn Ngành: Xây dựng mô hình cơ quan thi hành án
thống nhất, chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ các hoạt động THADS, hình sự, hành chính…giao cho Bộ Tư
pháp quản lý chung; Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để điều chỉnh hệ thống tổ chức cơ quan THADS phù
hợp với mô hình của các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án, Viện kiểm sát…, nhất là vấn đề tổ chức cơ
quan THADS khu vực để thi hành các Bản án, Quyết định sơ thẩm của Tòa án khu vực; Tăng cường công tác
tổ chức, cán bộ trên các phương diện như rà soát cán bộ, công tác tuyển dụng, đào tạo, điều động, đề bạt, công
tác kỷ luật, chế độ đãi ngộ, việc kiện toàn bộ máy…
Đối với Ngành Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa: Cần chủ động tham mưu cho Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, UBND tỉnh tăng cường công tác xây dựng thể chế; kiện toàn Ban chỉ đạo thi hành án, bổ sung cán
bộ chủ chốt hiện còn thiếu, đẩy mạnh công tác quản lý Ngành, chủ động, thường xuyên thực hiện có hiệu
quả công tác giám sát, kiểm tra, xây dựng và quản lý tốt trang Wep… Có chính sách thu hút cán bộ cho
các đơn vị miền núi, triển khai thực hiện công tác điều động, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ khách quan, công
khai phù hợp với quy hoạch.
3.3. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức,

ngƣời lao động trong Ngành
Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư xây dựng trụ sở làm việc và kho vật
chứng cho các cơ quan THADS trong tỉnh, nhất là cần đầu tư xây dựng trụ sở làm việc mới và kho vật
chứng cho các cơ quan THADS ở những nơi được thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực. Đối với những đơn
vị này và các đơn vị thành phố, thị xã trong tỉnh nên được cấp xe ô tô bán tải. Đảm bảo đủ máy vi
tính/người (có kết nối INTERNET) cho 100% cán bộ, công chức trong ngành và tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong công việc, đồng thời khẩn trương thành lập trang Web của Cục THADS tỉnh
Thanh Hóa. Tăng mức cấp kinh phí, nâng mức khoán kinh phí/người cho các cơ quan THADS, chính
quyền địa phương hàng năm cần hỗ trợ một phần kinh phí cho các cơ quan THADS hoạt động, thực hiện
chế độ phụ cấp cho ngạch Thư ký thi hành án. Tăng cường kiểm tra các đơn vị dự toán trực thuộc, kiểm
soát chặt chẽ hoạt động tài chính của các cơ quan thi hành án, đồng thời thường xuyên bồi dưỡng nghiệp
vụ cho Chủ tài khoản, Kế toán, Thủ quỹ của các đơn vị.
3.4. Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc trong hoạt động thi hành án dân sự và phƣơng hƣớng, giải
pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc trong hoạt động thi hành án dân sự tại Thanh Hóa
Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS trong phạm vi toàn
quốc hiện nay:
Tăng cường rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật THADS, nhất là các văn bản pháp luật quy định về
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chức năng trong việc quản lý công tác thi hành án. Cải cách
cơ chế quản lý và đổi mới thủ tục thi hành án. Đổi mới phương thức lãnh đạo điều hành theo quan điểm cải
cách tư pháp, cải cách hành chính, cải tiến phương thức hoạt động và lề lối làm việc. Tăng cường trách nhiệm
và đề cao trách nhiệm của người quản lý, người đứng đầu, phải có chế tài rõ ràng, gắn liền với phạm vi trách
nhiệm của người quản lý, đồng thời xử lý nghiêm minh những trường hợp thiếu trách nhiệm, vi phạm trong việc
quản lý, điều hành cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát và xây dựng cơ chế kiểm tra, giám
sát hữu hiệu trong lĩnh vực thi hành án; Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, xem đây là động lực để tập thể,
cá nhân trong Ngành hăng say học tập, lao động lập thành tích xuất sắc trong công tác.
Phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS tại Thanh Hóa:
Tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và tổ chức cơ sở Đảng các cấp đối với
công tác THADS. Các cơ quan THADS tỉnh Thanh Hóa, cần tích cực, chủ động tham mưu cho Bộ Tư
pháp, Tổng cục THADS, cấp ủy, chính quyền địa phương và Ban chỉ đạo thi hành án các cấp trong hoạt động
THADS để đạt kết quả công tác cao hơn. Quản lý và kiện toàn mạnh mẽ công tác cán bộ cả về số lượng, chất

lượng trong toàn tỉnh. Tổ chức đường dây nóng để lắng nghe sự phản ánh của cán bộ và nhân dân trong tỉnh
về hoạt động THADS. Đẩy mạnh hoạt động giám sát trong lĩnh vực THADS. Tiếp tục kiện toàn mạnh mẽ
Ban Chỉ đạo thi hành án các cấp theo quy định. Hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án cần phải được duy trì
thường xuyên và có chất lượng, phân công nhiệm vụ rõ ràng và có cơ chế bồi dưỡng, cơ chế phối hợp tốt cho
các thành viên của Ban Chỉ đạo Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, tập huấn pháp
luật về THADS hiện hành. Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan,
các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động thi hành án. Tích cực xác minh, phân loại án, đề cao công tác
hòa giải, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành, kiên quyết cưỡng chế những đối tượng có
điều kiện nhưng cố tình chây ỳ, chống đối việc thi hành án. Đẩy mạnh công tác xét miễn, giảm thi hành án.
Biệt phái Chấp hành viên cấp tỉnh xuống chỉ đạo những đơn vị yếu kém. Tổ chức học tập kinh nghiệm của
một số đơn vị thi hành án có thành tích xuất sắc, cách làm hay, hiệu quả cao. Tiếp tục giải quyết đúng pháp
luật đơn, thư khiếu nại, tố cáo… Đổi mới và nâng cao chất lượng quản lý, điều hành của cơ quan Cục; Ứng
dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động THADS; Phát động và thực hiện tốt công tác thi đua,
khen thưởng; Cải tiến chế độ hội họp, tăng cường thời gian hướng về cơ sở.
3.5. Xã hội hóa lĩnh vực thi hành án dân sự
Trong tình hình hiện nay, định hướng phát triển đối với hoạt động xã hội hóa lĩnh vực THADS chúng tôi
có một số ý kiến sau: Xã hội hóa hoạt động THADS phải đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, điều hành; đảm bảo thực thi cơ chế giám sát của các cơ quan giám sát và của nhân dân; đảm bảo Bản án,
Quyết định có hiệu lực của Tòa án, của các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định phải được thi hành
nghiêm minh. Xã hội hóa hoạt động THADS cần phải có lộ trình phù hợp tránh tình trạng tổ chức và hoạt
động của các văn phòng Thừa phát lại tràn lan, tùy tiện, tạo điều kiện cho các thế lực "xã hội đen" thao túng,
xem đây là hình thức hợp pháp của việc sử dụng bạo lực để "đòi nợ thuê". Tuy nhiên, qua bước đầu thành
công của hoạt động Thừa phát lại ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà nước cần sớm nhân rộng mô hình Thừa
phát lại tới một số thành phố trọng điểm kinh tế, chính trị trực thuộc Trung ương như Hà Nội, Cần Thơ, Đà
Nẵng, Hải Phòng. Mặt khác, Nhà nước cần tăng cường quản lý, hỗ trợ, nhất là hỗ trợ bằng cách chia sẻ một số
công việc của các cơ quan Tòa án, THADS, hỗ trợ một phần kinh phí, phương tiện hoạt động để các Văn
phòng Thừa phát lại có thời gian tự đứng vững. Nhà nước cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định
về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, quy định thành một chương riêng của Luật THADS. Tiến tới Nhà
nước cần thành lập tổ chức xã hội hoạt động nghề nghiệp của các hoạt động bổ trợ tư pháp đã được xã hội hóa
như công chứng, Thừa phát lại…như mô hình của tổ chức Luật sư để quản lý và tổ chức, hoạt động của các

lĩnh vực nêu trên thuận lợi hơn.

KẾT LUẬN
THADS là hoạt động của Nhà nước để những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và
của các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định được thi hành trên thực tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, của tổ chức và của công dân, làm cho công bằng xã hội trở thành hiện thực, có ý nghĩa thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Hoạt động thi hành án nói chung, THADS nói riêng kém hiệu quả sẽ không
đảm bảo được mục đích của quá trình tố tụng, nói cách khác, kết quả của quá trình điều tra, truy tố, xét xử sẽ
không phát huy được tác dụng. Trong những năm qua, thực tế hoạt động THADS còn nhiều hạn chế trở thành
vấn đề được quan tâm, lo lắng của các nhà quản lý, trở thành nổi lo, sự bức xúc của toàn thể xã hội. Trong
điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế
sâu rộng hiện nay, việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, THADS nói riêng
là sự đòi hỏi mang tính tất yếu, khách quan.
Cùng với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, vai trò của Nhà nước quyết định chất lượng, hiệu quả
của hoạt động THADS. Khi Nhà nước chưa thực sự quan tâm tới công tác THADS, hậu quả là các cơ
quan THADS được tổ chức không khoa học, kém hiệu lực, kết quả hoạt động rất hạn chế. Kể từ Pháp
lệnh THADS năm 2004, đến Luật THADS năm 2008, Nhà nước tăng cường quản lý công tác THADS,
từng bước cải cách toàn diện hoạt động này, vì vậy trên các mặt như: thể chế hoạt động, tổ chức bộ máy,
chất lượng cán bộ, cơ sở vật chất và chế độ đã ngộ được nâng cao, kết quả THADS năm sau luôn cao hơn
năm trước, giảm án tồn đọng rõ rệt qua từng năm…, dư luận xã hội phần nào đã yên tâm, tin tưởng đối
với hoạt động THADS.
Qua thực tiễn hoạt động THADS tại Thanh Hóa tác giả đã sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp,
so sánh, phân tích, đánh giá trên cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nước trong hoạt động
THADS từ khi cơ quan THADS được thành lập đến nay. Tuy vai trò của Nhà nước ngày càng được củng cố,
tăng cường nên công tác THADS nói chung, trong phạm vi tỉnh Thanh Hóa nói riêng có nhiều chuyển biến
tích cực, vị thế, uy tín và hiệu quả của các cơ quan THADS trong tỉnh chưa bao giờ được nâng cao như hiện
nay. Song, để tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan THADS trong tỉnh nói riêng, trong
toàn quốc nói chung, nhằm đảm bảo thực thi công lý, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh, tác
giả đã tập trung phân tích một số những tồn tại, hạn chế trong hoạt động THADS do nhiều nguyên nhân khác
nhau nhưng chủ yếu từ vai trò hạn chế của Nhà nước và đưa ra một số quan điểm, giải pháp bước đầu nhằm

tăng cường vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS, khắc phục những tồn tại, bất cập, góp phần cải cách
mạnh mẽ hoạt động THADS, thực hiện thắng lợi chủ trương "đẩy mạnh cải cách hành pháp, lập pháp và tư
pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật để tiếp tục xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa".
Do thời gian nghiên cứu có hạn và được giới hạn trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ Luật học,
những vấn đề tác giả nêu trong luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả sẽ tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung, hoàn thiện trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình.
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Cục THADS tỉnh Thanh Hóa và Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc, xin được trân trọng
cảm ơn sự giúp đỡ của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Cục THADS tỉnh Thanh Hóa và Giáo sư, Tiến
sĩ khoa học Đào Trí Úc, cùng toàn thể các thầy, cô thuộc Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

References.

1. Phạm Quốc Anh (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về hoạt động tư pháp",
Nhà nước và pháp luật, (9), tr.3-13.
2. Hoàng Thế Anh (2005), Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư số 17/2010/TT-BTP ngày 11/10 quy định phân cấp quản lý công chức,
công chức lãnh đạo cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2010), Báo cáo tổng kết công tác tư pháp năm 2010, giai đoạn 2007 - 2010 định hướng
công tác giai đoạn 2011 - 2015, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2011, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(2011), Thông tư liên tịch số 14/2011/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 11/7 hướng
dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính (2010), Thông tư liên tịch số 144/2010/ TTLT-BTP-BTC ngày 22/9 hướng
dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Thông tư liên tịch số
07/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/3 hướng dẫn thủ tục miễn thi hành án đối với các
khoản thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000đ, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Thông tư liên tịch số
10/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/5 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Thông tư liên tịch số
14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7 hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án
dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
10. Chính phủ (2000), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
11. Chính phủ (2003), Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, Hà Nội.
12. Chính phủ (2009), Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát
lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13. Chính phủ (2009), Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 9/9 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án
dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
14. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa (2010), Báo cáo sơ lược quá trình hình thành và phát triển
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa
15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa (2010), Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm
2010, Thanh Hóa.
16. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa (2007-2010), Báo cáo thống kê năm 2007, 2008, 2009, 2010
và 06 tháng đầu năm năm 2011, Thanh Hóa.
17. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa (2011), Báo cáo sơ kết kết công tác thi hành án dân sự 06
tháng đầu năm 2011, Thanh Hóa.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 25/4 của Bộ Chính trị về chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà
Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội;
24. Trần Đình Hảo (2003), "Về cải cách tư pháp và vấn đề thi hành án xét từ góc độ của luật kinh tế dân
sự", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 19-28.
25. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính nhà nước, tập 1,
Hà Nội.
26. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính nhà nước, tập 2,
Hà Nội.
27. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính nhà nước, tập 3,
Hà Nội
28. Lê Xuân Hồng (2002), Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
29. Bùi Xuân Khánh (2002), "Một số ý kiến về thủ tục thi hành án dân sự - kinh tế của Việt Nam từ cách
tiếp cận của Luật so sánh", Tài liệu hội thảo Đổi mới tư pháp dân sự trong điều kiện nền kinh tế
chuyển đổi, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
30. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Nguyễn Công Long (2000), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
32. Nguyễn Đức Nghĩa (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
33. Phòng Kiểm tra, giải quyết Khiếu nại, Tố cáo - Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa (2011), Báo
cáo công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của từ năm 2007 - 06 tháng đầu năm 2011, Thanh Hóa.
34. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
35. Quốc hội (1998), Luật khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
36. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

37. Quốc hội (2003), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
38. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
39. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
40. Quốc hội (2005), Luật khiếu nại, tố cáo (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội
41. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
42. Lê Minh Tâm (2001), "Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án", Luật học, (2).
43. Nguyễn Quang Thái (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
45. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hành chính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
46. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
47. Lê Anh Tuấn (2004), Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
48. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2005), Chỉ thị 01/2005/CT-CTUBND ngày 05/01 về việc tăng
cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Thanh Hóa.
49. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2009), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh
Hóa đến năm 2020, Thanh Hóa.
50. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2011), Quyết định số 1056/QĐ-UBND ngày 6/4 về việc kiện toàn
Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa.
51. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2011), Quyết định số 1441/QĐ-UBND về việc ban hành Quy chế
hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa.
52. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
53. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
54. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2002), "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án
hiện nay", Thông tin khoa học pháp lý.
55. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức
và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Báo cáo phúc trình đề tài cấp nhà nước
độc lập, Hà Nội.
56. Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

57. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

×