Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

XÁC ĐỊNH tần SUẤT và một số yếu tố LIÊN QUAN đến TĂNG GLUCOSE máu ở TRẺ đẻ NON dưới 32 TUẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.38 KB, 47 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHẠM THỊ MAI

XÁC ĐỊNH TẦN SUẤT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN TĂNG GLUCOSE MÁU Ở TRẺ ĐẺ NON DƯỚI 32 TUẦN

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHẠM THỊ MAI

XÁC ĐỊNH TẦN SUẤT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN TĂNG GLUCOSE MÁU Ở TRẺ ĐẺ NON DƯỚI 32 TUẦN

Chuyên ngành: Nhi khoa
Mã số: 8720106

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thị Quỳnh Nga

HÀ NỘI – 2019


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATP
CN
ĐN
GLUT
HSSS
NST
RQ
SD
SIRS
TB
TKKT
TM
UDPG
UI
VRHT
WHO
XHN

Adenosine triphosphate
Cân nặng
Đẻ non
Chất vận chuyển glucose

Khoa hồi sức sơ sinh
Nhiễm sắc thể
Hệ số hô hấp
Độ lệch chuẩn
Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống
Trung bình
Thần kinh trung ương
Tiêm tĩnh mạch
Uridine diphosphoglucose
Đơn vị
Viêm ruột hoại tử
Tổ chức y tế thế giới
Xuất huyết não thất

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng glucose máu một vấn đề thường gặp ở đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh
và phổ biến hơn ở trẻ non tháng và nhẹ cân. Tỷ lệ trẻ sơ sinh rất nhẹ cân là từ 4%
đến 8% trẻ sinh ra sống. Nhóm này chiếm khoảng một phần ba tỷ lệ tử vong trong
thời kỳ sơ sinh [1]. Nhiều trẻ trong số này không dung nạp glucose dẫn đến tăng

glucose máu. Các báo cáo lên tới 68% trẻ có trọng lượng lúc sinh cực thấp (TLLST)
có tăng glucose máu trong vài tuần đầu đời [2]. Trẻ có trọng lượng lúc sinh cực thấp
có nguy cơ tăng glucose máu gấp 18 lần trẻ sơ sinh nặng hơn 2000g [3]. Mặc dù, tỷ
lệ tăng glucose máu ngày càng tăng ở trẻ sơ sinh rất nhẹ cân, nhưng khơng có định
nghĩa rõ ràng về tăng glucose máu ở trẻ sơ sinh [3]. Theo Dreyfus et al., xác định
tăng glucose máu ở trẻ đẻ non là hai giá trị > 8,3 mmol / L (150 mg / dl) trong 14
ngày đầu đời của trẻ sơ sinh [4] .Sinh non là một trong những yếu tố rủi ro quan
trọng nhất trong sinh bệnh học của tăng glucose máu. Ngồi ra cịn có nồng độ cao
các chất trung gian: catecholamine và cytokine gây kháng insulin, sự gia tăng sản
xuất glucose ở gan, các tế bào beta của tuyến tụy chưa đủ khả năng hoạt động bài
tiết insulin gây nên tình trạng thiếu hụt insulin tương [5]. Một số yếu tố ảnh hưởng
glucose máu ở trẻ sơ sinh liên quan trong quá trình mang thai và cuộc đẻ bao gồm:
tuổi thai, cân nặng khi sinh, điểm Apgar, thiếu oxy, mẹ dùng steroid trước sinh, mẹ
mắc các bệnh lý nặng như : nhiễm trùng huyết , sock nhiễm khuẩn… Cũng như sau
khi sinh trẻ được sử dụng các thuốc: truyền dung dịch glucose lớn hơn so với nhu
cầu, truyền dung dịch lipid tốc độ cao và sớm, chậm cho ăn đường miệng, coticoid,
theophylin, cafein … có thể gây tăng glucose máu ở trẻ sơ sinh [6].
Tăng glucose máu xảy ra ở trẻ sơ sinh rất nhẹ cân đã được tìm thấy liên quan
tới tăng tỷ lệ các biến chứng liên quan như: xuất huyết não thất nặng (XHNT),
nhiễm trùng huyết khởi phát muộn, kéo dài thời gian nằm viện và viêm ruột hoại tử
(VRHT) [7] …
Tuy nhiên, việc điều trị tăng glucose máu ở trẻ rất nhẹ cân phụ thuộc chủ yếu
vào quyết định của các bác sỹ lâm sàng. Trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu,


7

thử nghiệm lâm sàng được thực hiện đánh giá hiệu quả điều trị tăng glucose máu và
làm giảm biến chứng lâu dài cho bệnh nhân. Các biện pháp được sử dụng để điều trị
tăng glucose máu như: giảm nồng độ đường trong dịch nuôi dưỡng, sử dụng

insullin, điều trị nguyên nhân của tăng glucose máu. Nhưng thuốc duy nhất để điều
trị tăng glucose máu ở trẻ sơ sinh là Insullin. Tuy nhiên vệc sử dụng Insullin cũng
có một số diễn biến bất lợi như: gây hạ glucose máu, rối loạn điện giải… Vì vậy,
để can thiệp điều trị tăng glucose máu quyết định thời điểm nào cần can thiệp điều
trị và điều trị như thế nào đang là vấn đề tranh cãi của các nhà sơ sinh trên toàn
thế giới.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về tăng glucose máu ở trẻ sơ sinh non tháng
cịn chưa có . Do vậy, với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về tần suất và các yếu tố liên
quan đến tăng glucose máu ở trẻ đẻ non , chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Xác định tần suất và một số yếu tố liên quan đến tăng glucose máu ở trẻ đẻ
non dưới 32 tuần” nhằm hai mục tiêu:
1. Xác định tần suất tăng glucose máu ở trẻ đẻ non dưới 32 tuần tại bệnh

viện Nhi Trung ương.
2. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến tăng glucose máu ở trẻ đẻ non

dưới 32 tuần.


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm trẻ đẻ non
1.1.1. Định nghĩa
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, trẻ đẻ non (ĐN) là trẻ ra đời trước thời hạn bình
thường trong tử cung, có tuổi thai <37 tuần hoặc ít hơn 259 ngày kể từ ngày đầu
tiên của kì kinh cuối cùng và có khả năng sống được. Trẻ có khả năng sống được là
trẻ có tuổi thai ≥22 tuần hoặc có cân nặng ≥500g. ĐN có thể được tiếp tục chia nhỏ
dựa trên tuổi thai: cực non (<28 tuần), rất non (28 - <32 tuần) và non vừa phải

(32 - <37 tuần của thai kỳ [8].
1.1.2. Dịch tễ học trẻ đẻ non
ĐN là một vấn đề lớn trong sản khoa, khơng riêng gì Việt Nam mà ngay cả
những nước phát triển ĐN vẫn còn là một vấn đề phức tạp.
Mỗi năm, có khoảng 15 triệu trẻ ĐN được sinh ra trên toàn thế giới (trước 37
tuần của thai kỳ), đưa tỷ lệ sinh non ở mức 11%. Khoảng 85% là trẻ sinh non vừa
phải (32 – 33 tuần) và sinh non muộn (34 – 36 tuần), 10% là trẻ sơ sinh rất non (28
– 31 tuần) và 5% là trẻ cực non (<28 tuần). Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh phụ thuộc tuổi
thai khi sinh: hơn 10% ở trẻ chào đời trước 28 tuần, 1 – 2% ở trẻ 32-34 tuần [8].
Trong năm 2010, ước tính có khoảng 14,9 triệu trẻ sơ sinh ĐN, chiếm 11,1%
tổng sinh sản trên toàn thế giới, từ 5% ở một số nước châu Âu đến 18% ở một số
quốc gia ở Châu Phi. Hơn 60% trẻ sơ sinh chào đời sinh ra ở Nam Á và tiểu vùng
Sahara, nơi có 52% số người sinh sống trên toàn cầu. ĐN cũng ảnh hưởng đến các
nước giàu, ví dụ Hoa Kỳ có tỷ lệ cao và là một trong mười quốc gia có số ĐN cao
nhất [9].
ĐN liên quan đến tỷ lệ tử vong sơ sinh và tỷ lệ mắc bệnh lâu ngày như các vấn
đề hô hấp, học tập, bại não, và các vấn đề về hành vi.Đây là một vấn đề y tế cơng
cộng quan trọng vì tỷ lệ ĐN ngày càng tăng ở nhiều nước châu Âu và đặc biệt cao ở
Anh. Nghiên cứu so sánh tỉ lệ ĐN ở Anh cho thấy từ năm 1995 đến năm 2006, số


9

lần nhập viện các đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh của trẻ sơ sinh trong khoảng từ
22 – 25 tuần thai tăng 44% [10].
Một nghiên cứu ở Pháp năm 1997: Tỷ lệ sinh rất non tháng là 1,3 trên 100 ca
sinh sống và chết lưu. Tỉ lệ sống sót của ĐN trong khoảng từ 22 – 32 tuần là 67%
tổng số trẻ sinh ra (bao gồm cả thai chết lưu), 85% số trẻ sinh ra sống và 89% trẻ
nhập viện vào các đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh. Tỷ lệ sống sót tăng lên theo tuổi
thai: 31% số trẻ sinh ra trong 24 tuần sống sót sau khi xuất viện, 78% ở tuần 28 và

97% ở tuần thứ 32. Tỷ lệ sống sót trong số trẻ sinh ra sống thấp hơn ở trẻ sơ sinh,
sinh nhiều lần và trẻ trai. Nói chung, 50% số trẻ chết sau khi sinh là ngừng điều trị và
chăm sóc tại khoa điều trị tích cực: 66% số trẻ chết trong phòng sinh, tỉ lệ này giảm
khi tuổi thai tăng lên; 44% trẻ tử vong ở đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh [11]. Trong
nghiên cứu khác năm 2011: tổng cộng có 0,7% trẻ sinh ra trước tuổi thai 24 tuần sống
sót sau khi xuất viện: 31,2% những trẻ sinh ra lúc 24 tuần, 59,1% ở tuần 25 và 75,3%
ở tuần 26. Tỷ lệ sống sót là 93,6% ở tuổi 27 – 31 tuần và 98,9% ở tuổi 32 – 34
tuần. So với năm 1997, tỷ lệ trẻ sơ sinh sống sót khơng mắc bệnh trầm trọng trong
năm 2011 tăng 14,4% (P <0.001) ở tuần lễ 25 –29 và 6% (P < 0.001) ở 30 – 31 tuần
nhưng không thay đổi đáng kể đối với những trẻ sinh ra ở dưới 25 tuần [12].
1.2. Tăng glucose máu ở trẻ đẻ non
1.2.1. Khái niệm tăng glucose máu ở trẻ đẻ non
Không có định nghĩa rõ ràng về tăng glucose máu ở trẻ sơ sinh. Theo Dreyfus et
al., xác định tăng glucose máu ở trẻ đẻ non là hai giá trị > 8,3 mmol / L (150 mg / dl)
trong 14 ngày đầu đời của trẻ sơ sinh [4].
1.2.2. Các phương pháp đo glucose máu
Một là lấy máu ly tâm tách huyết tương và xét nghiệm trên các hệ thống máy
hóa sinh bán tự động hoặc tự động.
Hai là sử dụng các máy đo glucose máu cá nhân để đo ngay từ máu mao mạch.
1.2.3 Sinh lý cân bằng glucose máu ở trẻ sơ sinh
Trong quá trình mang thai, thai nhi được cung cấp glucose từ mẹ. Sau khi sinh,
glucose máu giảm và sau đó sự ổn định dần phụ thuộc vào sự phân giải glycogen ở gan


10

và tổng hợp glucose để đáp ứng với những thay đổi của: insulin, cortisol, glucagon và
catecholamine. Trong vài ngày đầu đời, bắt đầu con đường tiêu hóa ở ruột và tiếp tục hồn
thiện q trình tổng hợp glucose gan làm cho glucose máu dần ở mức độ ổn định [13].


Glucose máu bình thường

1.2.4. Sinh lý bệnh tăng glucose máu
Glucose là chất cung cấp năng lượng chính trong thời kỳ sơ sinh và là nguồn
năng lượng chính cho hệ thần kinh trung ương. Do q trình dự trữ glycogen khơng
xảy ra cho đến quý thứ ba của thai kỳ, do vậy trẻ đẻ non và trẻ sơ sinh cân nặng cực
thấp có khả năng dự trữ glycogen hạn chế [14]. Sự thiếu hụt này được kết hợp với
nhu cầu năng lượng tương đối cao hơn đối với trẻ sơ sinh cân nặng cực thấp. Ở trẻ
sinh non, hạn chế tăng trưởng và khả năng dự trữ thấp và đáp ứng kém với các
hormone dẫn đến cân bằng glucose nội môi bị rối loạn. Mặc dù hạ glucose máu là
rối loạn phổ biến nhất trong cân bằng glucose nội môi ở thời kỳ sơ sinh, nhưng tăng
glucose máu không phải là hiếm gặp, đặc biệt là ở trẻ non tháng và suy dinh dưỡng
bào thai [15].
a.Insulin
Insulin là một hormon quan trọng trong cân bằng glucose nội môi, tạo điều
kiện cho sự hấp thu glucose bằng cách kích hoạt một chất vận chuyển glucose cụ
thể trên cơ xương và cơ tim, mô mỡ và tế bào alpha của tuyến tụy. Tác dụng ngay
lập tức xảy ra trong vòng vài giây bao gồm tăng vận chuyển glucose, axit amin và
kali đi vào các tế bào nhạy cảm với insulin. Các cơ chế chính bao gồm kích thích
tổng hợp protein, ức chế thối hóa protein và kích hoạt các enzyme liên quan đến


11

quá trình tổng hợp glucose.

Ở thai nhi, insulin được sản xuất trong tuyến tụy ngay từ tuần thứ 11 của thai
kỳ. Tuy nhiên, insulin này khơng sẵn sàng giải phóng để đáp ứng với tình trạng tăng
glucose máu ngay cả vào tuần thứ 20 của thai kỳ. Tình trạng khơng đáp ứng với
insulin có thể cịn tiếp tục ở ngay cả sau khi sinh. Trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ sinh

non cũng có thể bài tiết insulin thấp hơn hoặc đáp ứng chậm khi glucose máu tăng
[16].


12

b. Protein vận chuyển glucose [16]
Glucose được vận chuyển qua màng plasma của các tế bào bởi một protein có
cấu trúc tương tự gọi là chất vận chuyển glucose (GLUT). Tăng glucose máu có thể
xuất hiện nhiều hơn ở trẻ sơ sinh non tháng do sự phát triển không đầy đủ của hệ
thống vận chuyển glucose qua trung gian GLUT-4 phụ thuộc insulin. GLUT-4 phát
triển dần dần trong thời kỳ mang thai, trùng hợp với sự phát triển của các mô nhạy
cảm với insulin, chủ yếu là cơ xương, cũng như sản xuất insulin và nồng độ insulin
trong huyết tương. Tăng glucose máu của thai nhi đã được chứng minh là giảm
GLUT-4, có xu hướng tạo ra kháng insulin và giảm GLUT-1 cơ xương, có xu hướng
khơng dung nạp glucose. Các nghiên cứu giữa các lồi khác nhau, các mơ khác
nhau và thời gian thay đổi glucose máu khác nhau cho thấy sự thay đổi đáng kể
trong biểu hiện GLUT và liên quan đến chuyển hóa glucose. Do đó, nghiên cứu về
GLUT, sự điều hòa biểu hiện, hoạt động của chúng, và tác dụng của chúng đối với
chuyển hóa glucose, đặc biệt với các tình trạng như tăng glucose máu, rất quan
trọng và hữu ích trong việc tìm hiểu các khía cạnh phân tử của tình trạng bệnh
glucose máu ở trẻ sơ sinh.
GLUT-1 và GLUT-3 là các chất vận chuyển cấu thành chịu trách nhiệm cho sự
hấp thu glucose cơ bản trong nhiều mô. Chúng được đặc trưng bởi ái lực cao với


13

glucose so với các GLUT khác, có nghĩa là GLUT-1 và GLUT-3 có thể có hiệu quả
ngay cả khi nồng độ glucose thấp. Đặc tính này đặc biệt quan trọng trong hệ thống

thần kinh trung ương (TKTW), trong đó GLUT-1 và GLUT-3 là các chất vận
chuyển chính cho các tế bào thần kinh đệm và tế bào thần kinh. Biểu hiện của
GLUT-2 và GLUT-3 được xác định bởi nhu cầu trao đổi chất của TKTW. Do các
chất vận chuyển này không nhạy cảm với insulin, nên sự hấp thu glucose của
TKTW không bị ảnh hưởng bởi nồng độ insulin trong huyết tương. Khả năng vận
chuyển glucose của tế bào nội mô mạch máu kết hợp GLUT-1 và biểu hiện GLUT-3
ở tế bào thần kinh dường như đủ lớn để cho phép hấp thu glucose đủ cho hầu hết
các nhu cầu glucose của não, ngay cả khi bị hạ glucose máu.
GLUT-2 chỉ gặp ở tế bào gan và tế bào beta tuyến tụy. Biểu hiện và tác dụng
của nó đối với sự hấp thu glucose được điều chỉnh theo nồng độ glucose và insulin
trong huyết tương. GLUT-2 là một chất vận chuyển có ái lực thấp, cho phép tổng
hợp glucose và giải phóng glucose vào huyết tương để đáp ứng với việc giảm nồng
độ glucose, ngay cả trong khoảng nồng độ glucose bình thường, giúp ngăn ngừa hạ
glucose máu. Tương tự, ái lực thấp của GLUT-2, phối hợp với chức năng
glucokinase, cho phép các tế bào beta tuyến tụy nhận ra sự gia tăng khiêm tốn nồng
độ glucose trong huyết tương, dẫn đến tăng tiết insulin, giúp ngăn ngừa tăng
glucose máu. Mặc dù các tế bào beta của trẻ sinh non phản ứng với tăng glucose
máu bằng cách tăng tiết insulin, quá trình này bị giảm một phần do giảm biểu hiện
hoặc chức năng của cảm biến glucose chưa trưởng thành (GLUT-2 cộng với
glucokinase) và một phần do giảm hoạt động của quá trình trao đổi chất khác liên
kết trong các tế bào beta tuyến tụy. Sự gia tăng nồng độ insulin trong huyết tương
thường không đủ để ngăn ngừa tăng gluscose máu.
Tăng gluscose máu cũng có thể là do kháng insulin ở gan và ngoại biên dẫn
đến giảm hiệu quả của insulin trong việc ức chế sản xuất glucose ở gan và thúc đẩy
sử dụng glucose ngoại biên. Trẻ sơ sinh cân nặng thấp thường yêu cầu insulin ngoại
sinh để giải quyết tình trạng tăng gluscose máu mặc dù nồng độ insulin huyết tương
nội sinh tăng gần gấp đôi. Ở hầu hết trẻ sinh non, việc sản xuất glucose nội sinh
khơng thể bị ức chế hồn tồn (khơng q 50% đến 60%) bởi bất kỳ mức độ nào



14

của insulin, và chỉ có nồng độ insulin rất cao (hơn 10 lần so với bình thường) mới
tăng cường sử dụng glucose ngoại biên. Các rối loạn sau thụ thể insulin được coi là
có khả năng là nguyên nhân cho vấn đề tăng gluscose máu . Các nghiên cứu về
nhiều loài ở thời kỳ sơ sinh chứng minh rằng tế bào gan biểu hiện một lượng
GLUT-1 tương đối cao nhưng mức GLUT-2 tương đối thấp. Biểu hiện GLUT-2
giảm có thể hạn chế sự nhạy cảm và đáp ứng tế bào gan với sự gia tăng nồng độ
insulin đi kèm với tăng glucose máu, dẫn đến không thể giảm sản xuất glucose ở
gan.
GLUT-4 được tìm thấy trong các mơ nhạy cảm với insulin, chủ yếu là cơ
xương, tim và mô mỡ. Khi được di chuyển bằng insulin vào màng tế bào, GLUT-4
giúp giảm nồng độ glucose bằng cách tăng cường hấp thu glucose của tế bào.
Enzyme điều hòa cũng là một thành phần quan trọng để thiết lập cân bằng nội
môi glucose ở trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh non tháng có thể có con đường sinh hóa chưa
trưởng thành chuyển hóa glucose khơng đầy đủ. Gan của thai nhi sản xuất
hexokinase phụ thuộc không chứa insulin để ưu tiên cho glucokinase. Để đáp ứng
với insulin, chỉ có một lượng nhỏ glucokinase có sẵn để vận chuyển glucose. Các
enzyme cần thiết để chuyển đổi glucose thành glycogen, tăng hoạt động khi tăng
tuổi thai, có thể bị thiếu ở trẻ sơ sinh chưa trưởng thành. Những enzyme này bao
gồm phosphoglucomutase, uridine diphosphoglucose (UDPG) pyrophosphorylase
và UDPG glycogen synthetase.
Bảng 1.1: Các chất vận chuyển glucose
Chất vận
Cơ quan nguyên thủy
chuyển Glucose
GLUT-1
Tất cả các mô; đặc biệt
quan trọng trong hệ
thống thần kinh trung

ương (CNS) (tế bào thần
kinh đệm) và tinh hoàn

Đặc điểm chức
năng
Hấp thu glucose
cơ bản

Ảnh hưởng liên
quan đến glucose
+++


15

GLUT-2

Gan và tuyến tụy

GLUT-3
GLUT-4

Hầu hết các mô; đặc
biệt quan trọng trong
CNS
Cơ bắp và chất béo

GLUT-5
GLUT-6
GLUT-7


Ruột và gan
(giả)
Gan

Hấp thu glucose ở
gan và giải phóng.
Thành phần của tế
bào B cảm biến
glucose với nhau
với glucokinase
Hấp thu glucose
cơ bản

+

++++

Chất vận chuyển
nhạy cảm - Insullin
Hấp thu fructose

++

Vận chuyển
microsome

?

+


1.2.5. Nguyên nhân tăng glucose máu ở trẻ đẻ non
a. Truyền glucose
Trẻ sinh non khơng có khả năng ức chế tổng hợp glucose để đáp ứng với
glucose ngoại sinh đã được chứng minh rõ ràng [15] .Truyền glucose ngoại sinh có
tác động lớn đến tăng gluscose máu. Trong số những trẻ sinh non được truyền
glucose liên tục ở mức 8 mg / kg/phút, 11 mg / kg /phút, hoặc 14 mg / kg/phút, thực
tế khơng có trẻ nào trong nhóm truyền glucose thấp bị tăng glucose máu. Ngược lại,
50% hoặc nhiều hơn trẻ sơ sinh trong nhóm tiêm truyền nồng độ glucose trung bình
và tất cả trẻ sơ sinh trong nhóm truyền nồng độ glucose cao đã có nồng độ glucose
trong máu tăng [16]
b. Lipid
Lipid rất quan trong đối với tăng trưởng của trẻ sơ sinh đặc biệt là trẻ đẻ non.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ sơ sinh bị bệnh nặng mặc dù đang
nhận được tỷ lệ truyền glucose thấp hơn cũng đã phát triển tăng glucose máu, dẫn
đến suy đoán về nguyên nhân khác thay vì nguyên nhân truyền glucose ngoại sinh.
Ví dụ, thành phần lipid của dinh dưỡng tĩnh mạch có thể đóng góp vào phản ứng
tăng glucose máu. Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ mối tương quan giữa
nồng độ lipid và glucose trong huyết tương. Ở trẻ non tháng nhận được 0,25g/kg
hoặc 0,5 g / kg mỗi giờ nhũ tương lipid Intralipid®, gây nên sự gia tăng và duy trì
nồng độ glucose máu tăng trong quá trình tiêm truyền và sau 1 giờ tiêm truyền.


16

Những tỷ lệ truyền nồng độ lipid cực cao này không nên được sử dụng ở trẻ sinh
non hoặc đủ tháng, nhưng kết quả chứng minh rằng các thành phần lipid đặc biệt là
axit béo tự do, có thể thúc đẩy tăng glucose máu. Nồng độ axit béo tự do trong
huyết tương tăng làm giảm việc sử dụng glucose ngoại biên, chủ yếu bằng cách thay
thế carbon và thay đổi hoạt động của enzyme dẫn đến q trình oxy hóa carbon axit

béo hơn là oxy hóa glucose. Các axit béo cũng ức chế tác dụng của insulin để ức
chế sản xuất glucose của gan. Hai tình trạng này dẫn đến không dung nạp glucose
ngoại biên và kháng insulin trung ương (gan) làm tăng nồng độ glucose trong huyết
tương. Xu hướng gần như trái ngược nhau về nồng độ glucose và insulin có thể
được giải thích bằng tác động trực tiếp của axit béo trong việc thúc đẩy bài tiết
insulin cũng như ức chế hoạt động của insulin ở ngoại vi [16].
c. Stress
Stress được đo bằng cách tăng nồng độ cortisol trong huyết tương, cũng có thể
là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với sự phát triển của tăng glucose máu. Trẻ sơ
sinh bị bệnh thường xuyên bị căng thẳng sinh lý từ cả quá trình bệnh và các can
thiệp y tế (ví dụ tiêm tĩnh mạch, test đường, kích thích của ống nội khí quản trong
khi máy thở, truyền catecholamine…). Tuy nhiên, mối quan hệ giữa cortisol và sự
phát triển của tăng glucose máu có thể gây nhầm lẫn vì phản ứng cortisol có thể bị
ức chế do tăng glucose máu trong cơ chế feed back ngược. Trẻ sơ sinh cũng có thể
phát triển tăng glucose máu rõ rệt trong và sau khi phẫu thuật. Tăng glucose máu
sau phẫu thuật xuất hiện là do tăng tiết cortisol trong khi phẫu thuật; tăng glucose
máu lưu ý ngay sau khi bắt đầu gây mê dường như là do giải phóng catecholamine
để đáp ứng với cảm ứng.
Để hạn chế tăng glucose máu do các yếu tố này gây ra như sau phẫu thuật hoặc
các thủ tục xâm lấn dẫn đến stress, điều trị bằng fentanyl trong và sau phẫu thuật đã
làm giảm tỷ lệ tăng glucose máu và tăng nồng độ lưu hành của epinephrine,
glucocorticoids và glucagon. Epinephrine làm giảm bài tiết insulin từ tế bào beta
tuyến tụy và tăng cường tác dụng của insulin ngoại vi. Glucagon thúc đẩy tổng hợp
glucose và giải phóng glucose gan. Glucocorticoids thúc đẩy tổng hợp glucose bằng
cách tăng phân hủy protein và do đó cung cấp thêm axit amin. Glucocorticoids cũng
tăng cường hoạt động của enzyme gan trong con đường tổng hợp glucose, đặc biệt
là phosphoenolpyruvate carboxykinase, là enzyme giảm tốc độ cho tổng hợp


17


glucose và glucose-6-phosphatase, giải phóng glucose vào tuần hồn [16].
d. Nhiễm khuẩn
Tăng glucose máu có thể là dấu hiệu nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh có nồng
độ glucose trong máu bình thường trước đây và khơng có thay đổi về tốc độ truyền
glucose. Các cơ chế tăng glucose máu do nhiễm khuẩn có thể do: stress, giảm giải
phóng insulin và giảm sử dụng glucose ngoại biên [17]. Ở trẻ sinh non cân nặng cực
thấp nhiễm nấm chứ không phải nhiễm trùng huyết do vi khuẩn cũng thấy có tăng
glucose máu. Điều này đã được minh họa trong một nghiên cứu ở trẻ sinh non có
cân nặng < 1250 g báo cáo 21 trong số 45 trẻ bị nhiễm nấm phát triển tăng glucose
máu so với 11 trên 46 trẻ bị nhiễm trùng huyết khởi phát muộn [18].
e. Kháng Insullin
Lý thuyết kháng insulin ở các mô ngoại biên, đặc biệt là cơ xương, gây tăng
glucose máu đã được nghiên cứu. Nhìn chung, trẻ sơ sinh cân nặng thấp được thử
thách với glucose (ví dụ, bolus 1 g / kg TM) đã cho thấy sự gia tăng thay đổi về
nồng độ insulin trong huyết tương. Trong số trẻ nhỏ hơn so với tuổi thai và sinh non
phù hợp với tuổi thai, trẻ có bài tiết insulin tương đối bình thường, tuy nhiên, nồng
độ axit béo tự do trong huyết tương và nồng độ beta-hydroxybutyrate vẫn tăng đáng
kể. Những quan sát này cho thấy rằng việc huy động chất béo, với việc giải phóng
các axit béo và q trình oxy hóa beta tiếp theo của chúng trong gan, không bị ức
chế bởi sự tiết insulin được kích thích bằng glucose. Những phát hiện này phù hợp
với việc giảm độ nhạy cảm với insulin ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp, đặc biệt là những
trẻ đủ tháng (ngay cả khi sơ sinh nhỏ hơn so với tuổi thai) có mơ mỡ dự trữ. Chủ đề
này vẫn còn gây tranh cãi. Dữ liệu trên động vật cho thấy nồng độ insullin bình
thường hoặc thậm chí tăng insulin trong thời kỳ đầu mang thai liên quan đến việc sử
dụng glucose, mặc dù nồng độ thụ thể insulin trên tế bào gan thấp hơn. Hơn nữa,
truyền TM insulin ở trẻ sơ sinh bị tăng glucose máu thường tạo ra nồng độ glucose
giảm nhanh chóng [16].
e. Đái tháo đường sơ sinh
Đái tháo đường sơ sinh là một nguyên nhân hiếm gặp của tăng glucose máu,

với tỷ lệ mắc ước tính là 1 trên 500.000 ca sinh [19]. Nó được định nghĩa là tăng
glucose máu kéo dài xảy ra trong những tháng đầu đời kéo dài hơn hai tuần và


18

cần dùng insulin để quản lý. Phần lớn trẻ sơ sinh nhỏ so với tuổi thai, có thể liên
quan đến giảm bài tiết insulin ở thai nhi. Triệu chứng lâm sàng giảm cân, giảm
thể tích, tăng glucose máu và glucose niệu, có hoặc khơng có keton niệu và
nhiễm toan ceton.
Bệnh tiểu đường ở trẻ sơ sinh là do đột biến ở một số gen mã hóa protein đóng
vai trị quan trọng trong khi chức năng bình thường của các tế bào beta tuyến tụy
như protein là tiểu đơn vị trong kênh kali nhạy cảm adenosine triphosphate (ATP)
[20], [21]. Quá trình của bệnh tiểu đường sơ sinh là thay đổi tùy thuộc vào gen bị
ảnh hưởng. Đột biến gen của tiểu đơn vị Kir6.2 của kênh kali nhạy cảm ATP có thể
dẫn đến đái tháo đường sơ sinh vĩnh viễn, trong khi đột biến của tiểu đơn vị SUR1
có thể dẫn đến đái tháo đường vĩnh viễn hoặc tạm thời.
Bệnh tiểu đường sơ sinh là một bệnh do căn nguyên di truyền cũng có thể xuất
hiện ở trẻ non tháng. Trong một nghiên cứu, 146 trong số 750 trẻ sơ sinh mắc bệnh
tiểu đường được chẩn đoán trước sáu tháng tuổi bị sinh non (tuổi thai <37 tuần)
[22]. Nguyên nhân di truyền đã được xác định ở 97/146 (66%) trẻ sinh non so với
trẻ sơ sinh 501/604 (835). Nhiễm sắc thể 6q24 in dấu bất thường và đột biến
GATA6 thường gặp hơn ở những bệnh nhân sinh non so với trẻ đủ tháng, trong khi
đột biến gen KCNJ11 ít phổ biến hơn.


19

f. Các nguyên nhân khác
Các nguyên nhân khác gây tăng glucose máu bao gồm sử dụng các loại thuốc

như theophylline và dexamethasone. Các trường hợp cá nhân được báo cáo trong tài
liệu liên quan đến tăng glucose máu tới prostaglandin E1 và mất nhiễm sắc thể (46,
xxDq- trên NST số 13).
1.2.6 .Triệu chứng lâm sàng tăng glucose máu ở trẻ đẻ non
- Khơng có triệu chứng lâm sàng đặc hiệu, vấn đề tăng glucose máu thường
liên quan đến tăng nồng độ thẩm thấu như: đa niệu, mất nước, rối loạn điện giải.
- Dấu hiệu mất nước có thể xuất hiện nhanh chóng ở những trẻ sinh non có
mất nước vơ hình nhiều: da khơ, nhăn nheo, mắt trũng, thóp trũng, sụt cân…
1.2.7. Biến chứng tăng glucose máu ở trẻ đẻ non [16]
Tăng glucose máu sơ sinh có liên quan đến một loạt các biến chứng như mất
nước, xuất huyết nội sọ… thậm chí tử vong. Mặc dù ngày nay hiếm, các báo cáo
trước đây về xuất huyết nội sọ và tử vong ở trẻ non tháng bị tăng glucose máu rõ rệt
và các báo cáo khác ghi nhận kết quả phát triển thần kinh bất thường ở những trẻ


20

này cho thấy mức độ nghiêm trọng của bệnh nặng hơn và tiên lượng đáng ngại hơn
nhiều so với hiện nay. Ví dụ, trong số các nhóm trẻ sinh non được lựa chọn trong
khoảng từ 24 đến 34 tuần tuổi thai mang thai bị tăng glucose máu nặng và kéo dài
trong các báo cáo trước đó, hơn 50% sau đó đã chết. Nguyên nhân gây tử vong chủ
yếu là xuất huyết nội sọ. Tăng glucose máu gây ra sự gia tăng thẩm thấu huyết
thanh: mỗi lần tăng 1 mmol /L (18 mg /dL) trong nồng độ glucose trong máu chiếm
1 mOsm /L trong thẩm thấu huyết thanh. Nếu độ thẩm thấu huyết thanh vượt quá
300 mOsm /L (khoảng, giá trị glucose huyết thanh là 22,2 mmol /L [400 mg /dL]),
nước dịch chuyển nhanh do tăng áp lực thẩm thấu có thể gây xuất huyết não. Các
quan sát ở chuột sơ sinh đã chỉ ra rằng tăng glucose máu làm tăng đáng kể tổn
thương hình thái trong tồn bộ tiền đình với các biến cố thiếu máu cục bộ gây ra.
Sinh lý bệnh của tăng tổn thương do thiếu máu cục bộ trong q trình tăng glucose
máu là khơng rõ ràng; các giả thuyết bao gồm siêu phân cực, nhiễm axit lactic quá

mức và giảm lưu lượng máu não cục bộ.
- Tăng áp lực thẩm thấu cũng có thể dẫn đến một lợi tiểu thẩm thấu dẫn đến đa
niệu và mất nước. Sự gia tăng độ thẩm thấu huyết thanh liên quan đến tăng glucose
máu về mặt lý thuyết khiến trẻ nhỏ có nguy cơ bị lợi tiểu thẩm thấu và mất nước.
- Tăng glucose máu cũng có thể gây nguy hiểm cho chức năng hô hấp bằng
cách tăng chỉ số hô hấp (RQ), tỷ lệ giữa CO 2 được tạo ra và O2 tiêu thụ. Q trình
oxy hóa carbohydrate dẫn đến RQ là 1.0. Bởi vì quá trình tạo lipogen tạo ra CO 2 mà
không tiêu thụ CO 2, do đó việc tăng sản xuất CO 2 địi hỏi phải tăng thơng khí
phút có thể làm tổn thương trẻ sơ sinh cân nặng thấp. Các nghiên cứu ở trẻ sơ
sinh đã chứng minh sự gia tăng sản xuất CO 2 này, nhưng ý nghĩa lâm sàng vẫn
chưa rõ ràng.
- Mất cân bằng điện giải là một biến chứng khác của tăng glucose máu. Một
phát hiện quan trọng ở trẻ sơ sinh bị glucose niệu là sự gia tăng bài tiết natri do tăng
tải natri được lọc, ngay cả với glucose niệu tối thiểu. Độ thanh thải creatinine bị
thay đổi đáng kể trong q trình truyền.

1.3. Kiểm sốt glucose máu


21

1.3.1. Giảm tốc độ truyền glucose
Giảm tốc độ truyền glucose trong dịch nuôi dưỡng xuống giúp làm giảm nồng
độ glucose trong máu. Trong hầu hết các trường hợp, điều này được thực hiện bằng
cách giảm nồng độ của dung dịch dextrose. Dung dịch ni dưỡng ngồi đường và
nhũ tương lipid, trẻ sơ sinh cịn được duy trì lượng đường trong máu qua q trình
chuyển hóa glycerol và axit amin [23].
Tuy nhiên, giảm tốc độ truyền glucose là một giải pháp ngắn hạn vì nó dẫn
đến giảm lượng calo và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng. Dung nạp glucose thường
cải thiện khi cho trẻ ăn đường ruột.

1.3.2. Liệu pháp insulin
Insulin cải thiện sự dung nạp glucose, cho phép cung cấp nhiều calo hơn và
thúc đẩy tăng trưởng ở trẻ sơ sinh vẫn bị tăng glucose máu sau khi giảm tốc độ
truyền glucose. Các chỉ định chính xác cho điều trị bằng insulin không được xác
định rõ. Theo Neonatal guidelines chỉ định dùng insulin khi: Nếu đã giảm tốc độ
truyền đường mà vẫn tăng glucose máu > 12 mmol /L thì xem xét điều trị bằng
insulin [23]. Hiệu quả của liệu pháp insulin được minh họa bằng một nghiên cứu
trên 24 trẻ sơ sinh cực kỳ nhẹ cân không dung nạp glucose được chỉ định ngẫu
nhiên để được điều trị bằng Insullin đường tĩnh mạch (TM). Trong thời gian trung
bình là 15 ngày, khi sử dụng liệu pháp insulin dẫn đến tốc độ truyền glucose sử
dụng cao hơn đáng kể (20,1 so với 13,2 mg / kg/ phút, lượng năng lượng phi protein
cao hơn (124 so với 86 kcal / kg mỗi ngày) và tăng cân nhiều hơn (20,1 so với 7,8 g
/kg mỗi ngày) so với nhóm đối chứng. Khơng có sự khác biệt giữa các nhóm về tỷ
lệ tử vong hoặc tỷ lệ mắc bệnh (ví dụ, hạ glucose máu, bất thường điện giải hoặc
loạn sản phế quản phổi) [24].
Lợi ích từ liệu pháp insulin cũng được chứng minh trong một thử nghiệm trên
23 trẻ sơ sinh cân nặng cực thấp bị tăng glucose máu được nhận glucose với tốc độ
lên tới 12 mg / kg/phút [26].Trẻ sơ sinh được chỉ định ngẫu nhiên để giảm lượng
glucose trong dịch nuôi dưỡng hoặc truyền insulin. Thời gian hấp thụ calo dưới 60
kcal / kg mỗi ngày ngắn hơn đáng kể ở nhóm người được truyền insulin (4,1 so với
8,6 ngày). Khơng có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh hoặc tử vong giữa hai nhóm.


22

a.Điều trị insulin sớm định kỳ [25]
Việc sử dụng thường xuyên liệu pháp insulin sớm ở trẻ non tháng đã được đề
xuất để ngăn ngừa dị hóa, cải thiện kiểm sốt glucose và tăng lượng năng lượng, có
thể cải thiện sự tăng trưởng. Tuy nhiên, liệu pháp insulin sớm dường như khơng cải
thiện sự tăng trưởng và có thể liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong ở 28 ngày

tuổi và hạ glucose máu.
Điều này đã được minh họa trong một thử nghiệm đa trung tâm, mở nhãn cho
389 trẻ sơ sinh rất nhẹ cân (CN <1500 g) được chọn ngẫu nhiên để được chăm sóc
tiêu chuẩn để kiểm soát glucose máu hoặc truyền tĩnh mạch dextrose 20% bằng
insulin sớm trị liệu (0,05 đơn vị / kg mỗi giờ) bắt đầu trong vòng 24 giờ sau khi sinh
cho đến bảy ngày tuổi [27]. Những phát hiện sau đây đã được ghi nhận:
● Nhóm điều trị insulin sớm có nồng độ glucose trung bình thấp hơn so với
nhóm chăm sóc tiêu chuẩn (112 so với 121 mg / dL [6,2 so với 6,7 mmol / L]), ít có
khả năng bị tăng glucose máu (được định nghĩa là glucose huyết thanh lớn hơn 180
mg / dL [10 mmol / L]) trong hơn 10% của tuần đầu tiên của cuộc đời (21 so với
33%), có thể nhận được lượng truyền glucose lớn hơn (51 so với 43 kcal / kg mỗi
ngày) và giảm cân ít hơn trong tuần đầu tiên của cuộc đời.
● Nhiều bệnh nhân sử dụng insulin sớm có tình trạng hạ glucose máu (29 so
với 17%), được xác định là mức glucose huyết thanh dưới 47 mg / dL (2,6 mmol /
L) trong hơn một giờ.
● Khơng có sự khác biệt giữa các nhóm ở điểm cuối của tử vong chính vào
ngày sinh dự kiến hoặc ở điểm cuối thứ phát của nhiễm trùng huyết, viêm ruột hoại
tử, bệnh võng mạc do sinh non và các thông số tăng trưởng (ví dụ: cân nặng, chiều
dài và chu vi đầu ) lúc 28 ngày tuổi. Tuy nhiên, nhóm insulin sớm có tỷ lệ tử vong
cao hơn ở 28 ngày tuổi.
Thử nghiệm này đã kết thúc sớm vì những lo ngại về sự vơ ích liên quan đến
kết quả và mối quan tâm về tác hại tiềm tàng từ liệu pháp insulin. Theo dõi liên tục
để xác định xem liệu tỷ lệ hạ glucose máu trong nhóm insulin sớm có ảnh hưởng bất
lợi đến kết quả phát triển thần kinh hay không.


23

Dựa trên những dữ liệu này, không nên sử dụng liệu pháp insulin sớm định kỳ
ở trẻ sơ sinh cân nặng cực thấp. Tuy nhiên, insulin nên được sử dụng để điều trị

tăng glucose máu khi giảm tốc độ truyền glucose xuống khoảng 6 mg / kg/ phút
không hiệu quả
b. Nguy cơ hạ glucose máu khi sử dụng insullin
Nồng độ glucose trong máu nên được theo dõi thường xuyên trong quá trình
truyền insulin, mặc dù nguy cơ hạ glucose máu nhỏ. Điều này đã được ghi nhận
trong một đánh giá hồi cứu của 34 trẻ cân nặng cực thấp bị tăng glucose máu và
glucose niệu trong khi nhận dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch và được điều trị bằng
insulin [28]. Trước khi điều trị, nồng độ glucose trong máu trung bình là 195 mg /
dL (11,1 mmol / L) trong khi nhận glucose với tốc độ trung bình là 7,9 mg / kg mỗi
phút. Trong quá trình truyền insulin, được đưa ra trong 1 đến 58 ngày, các giá trị
glucose trong máu từ 25 đến 40 mg / dL (1,4 đến 2,2 mmol / L) đã được phát hiện
trong ít hơn 0,5% mẫu (26 đợt hạ glucose máu trong 7368 mẫu) và khơng có giá trị
<25 mg / dL đã được nhìn thấy.
Những phát hiện tương tự đã được ghi nhận trong một nghiên cứu khác trên
10 trẻ cân nặng cực thấp được điều trị bằng insulin. Các phép đo glucose là bình
thường (46 đến 130 mg / dL [2,6 đến 7,2 mmol / L]) trong 78% mẫu và dưới 24
mg / dL (1,3 mmol / L) trong ít hơn 1%.
c. Liều lượng insullin và nồng độ glucose mục tiêu
Cách sử dụng insullin: insulin thường (100 đơn vị / mL) được sử dụng và
thường được pha loãng trong nước muối bình thường đến nồng độ 0,1 đơn vị / mL
Bước đầu tiên trong việc kiểm soát mức glucose tăng cao kéo dài là tiêm truyền
insulin bolus qua bơm tiêm trong hơn 15 phút với liều từ 0,05 đến 0,1 đơn vị / kg.
Mức glucose máu được theo dõi cứ sau 30 đến 60 phút, và nếu nó vẫn tăng, liều
insulin được lặp lại dưới dạng bolus cứ sau 4 đến 6 giờ. Nếu mức glucose vẫn tăng
sau ba liều bolus, truyền liên tục được xem xét ở tốc độ ban đầu trong khoảng từ
0,01 đến 0,05 đơn vị / kg mỗi giờ và được điều chỉnh theo mức tăng nhỏ lên đến tốc độ


24


tối đa 0,1 đơn vị / kg mỗi giờ để duy trì nồng độ glucose từ 6 -8mmol/l. Kiểm sốt
glucose máu chặt chẽ hơn nhằm mục đích tránh nguy cơ hạ glucose máu [5,33].
e. Chỉnh liều và ngừng thuốc
Khi dung nạp glucose được cải thiện, việc truyền insulin nên được giảm dần
và ngừng sử dụng để tránh hạ glucose máu . Tại các trung tâm của chúng tơi, duy trì
tốc độ truyền insulin khi đường máu từ 6-8 mmol/l, tốc độ truyền được giảm theo
mức tăng 0,01 đến 0,05 đơn vị / kg mỗi khi mức glucose 4-6 mmol/l . Ngừng truyền
insulin khi glucose máu < 4mmol/l . Nồng độ glucose nên tiếp tục được theo dõi
chặt chẽ trong 12 đến 24 giờ sau đó [24].
1.3.3. Các nghiên cứu về điều trị tăng glucose máu ở trẻ đẻ non
- Một nghiên cứu từ một đơn vị chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh Hoa
Kỳ đã báo cáo rằng tăng glucose máu (được xác định là mức glucose> 150 mg / dL
[8,3 mmol / L] trong hai lần kiểm tra riêng biệt) sau khi điều chỉnh các yếu tố gây
nhiễu thì kết quả cho thấy tăng glucose máu khơng liên quan đến tử vong hoặc tăng
nguy cơ loạn sản phế quản phổi hoặc xuất huyết não thất [29]. Tuy nhiên, có sự gia
tăng thống kê về bệnh lý võng mạc do sinh non.
- Một nghiên cứu trên 260 trẻ sơ sinh cực kỳ nhẹ cân của Hàn Quốc
(CN<1000 g) cho thấy tăng glucose máu lên tới 300 mg / dL mà không cần điều trị
bằng insulin, trong 14 ngày đầu đời mà không gây ra lợi tiểu thẩm thấu hoặc tăng tỷ
lệ tử vong hoặc tăng tỷ lệ tử vong tỷ lệ mắc bệnh [30].
- Một nghiên cứu củaMohammad Kazem Sabzehei MD và các cộng sự tổng
thực hiện trên 564 trẻ, trong đó tăng glucose máu ở trẻ đẻ non cân nặng cực thấp là
179 trẻ chiếm 31,7%. Kết quả của tăng glucose máu có liên quan đến tuổi thai, nồng
độ glucose trong dịch nuôi dưỡng và mức độ nặng của bệnh. Trong đó suy hơ hấp
sơ sinh ảnh hưởng đến 158 (88,3%) trẻ sơ sinh tăng glucose máu và là căn bệnh phổ
biến nhất [2].


25


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm tất cả bệnh nhân đẻ non ≤ 32 tuần vào khoa hồi sức sơ sinh bệnh viện
Nhi Trung Ương từ tháng 07/2019 đến tháng 7/2020 đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Tuần thai <=32 tuần, trong vòng 14 ngày đầu sau đẻ.
- Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm: tăng glucose máu và khơng tăng glucose máu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ sơ sinh có dị tật bẩm sinh phức tạp.
- Bất thường nhiễm sắc thể.
- Đái tháo đường sơ sinh.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tiến cứu mơ tả.
2.2.2. Cỡ mẫu
Cơng thức tính chọn mẫu :

n = Z 2 (1−α / 2)

p (1 − p )
d2

n: cỡ mẫu nhỏ nhất phải đạt được trong nghiên cứu.
p: Tỷ lệ trẻ sơ sinh đẻ non dưới 32 tuần tăng glucose máu. Theo Mohammad
Kazem Sabzehei MD và các cộng sự đã tổng kết trong một nghiên cứu về tăng
glucose máu ở trẻ đẻ non cân nặng cực thấp tại Iran vào năm 2014 là 31,7%[2]. Vậy
trong nghiên cứu này ta lấy p= 31,7.
d: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và tỷ lệ của quần

thể, d = 5%


×