Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Luận văn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn huyện hoài ân, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.49 KB, 70 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIỆT NAM

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIỆT NAM

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số:

8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ TƯỜNG VY


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng của tôi.
Số liệu và kết quả nghiên cứu đề cập trong Luận văn là trung thực có
nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Tác giả

Nguyễn Việt Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................. 9
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội ............................................................................................. 9
1.2. Khái quát lịch sử phát triển quy định của pháp luật về quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến trước khi ban hành Bộ luật
Hình sự năm 2015 ........................................................................................ 14
1.3. Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong
pháp luật một số nước trên thế giới .............................................................. 20
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BLHS NĂM 2015 VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒI
ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH ............................................................................. 26
2.1. Quy định của BLHS năm 2015 về quyết định hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................... 26

2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của
TAND huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định ........................................................ 36
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI

PHẠM TỘI ................................................................................................. 50
3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định về quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................... 50


3.2. Giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định về quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................... 52
KẾT LUẬN ................................................................................................. 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật Hình sự.

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng Hình sự.

NCTN:

Người chưa thành niên.


TNHS:

Trách nhiệm hình sự.

TAND:

Tịa án nhân dân.

TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao.

CTKGG:

Cải tạo khơng giam giữ.


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện đã
được xét xử trên địa bàn huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến
6 tháng đầu năm 2020 .................................................................................. 38
Bảng 2.2. Thống kê các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện đã được thụ
lý, giải quyết trên địa bàn huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định Định từ năm
2016 đến 6 tháng đầu năm 2020 ................................................................... 39
Bảng 2.3. Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội theo nhóm tuổi trên địa
bàn huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm
2020 ............................................................................................................. 40
Bảng 2.4. Hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm

2020 ............................................................................................................. 41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước, những năm qua tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Bình Định nói chung, huyện Hồi Ân nói riêng đã có những
bước phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Đời sống của nhân dân
được đảm bảo; tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ
vững; đã triển khai và tổ chức thực hiện đồng bộ các biện pháp phịng ngừa,
đấu tranh có hiệu quả các loại tội phạm; công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đảm bảo đúng quy định pháp luật, không xảy ra oan sai, lọt tội phạm.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội cả nước nói chung, ở tỉnh và huyện
nói riêng cịn nhiều khó khăn; tình hình tội phạm chưa có chiều hướng giảm,
các tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính tiếp tục gia
tăng và ngày càng phức tạp, trong đó có tình trạng người dưới 18 tuổi phạm
tội. Theo thống kê, trong những năm gần đây, tình trạng tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng tăng cả về số lượng và mức độ phạm tội.
Nếu những năm trước đây người người dưới 18 tuổi thường thực hiện các
hành vi trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích khơng gây
nguy hại lớn thì hiện nay thủ đoạn phạm tội của các đối tượng này khơng cịn
đơn giản do bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà đã có sự tính tốn, chuẩn bị kỹ càng
và khá tinh vi, thậm chí đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy
hiểm cao. Từ đó có thể thấy, tình hình vi phạm pháp luật người dưới 18
tuổi gây ra tiếp tục diễn biến phức tạp với tính chất, mức độ phạm tội ngày
càng nguy hiểm. Có nhiều vụ án các bị cáo là người dưới 18 tuổi thực hiện
thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất
là 20 năm tù, chung thân hoặc tử hình, như các hành vi phạm tội rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng như: giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, ma
1



túy...Do vậy, vấn đề quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trở thành vấn đề quan trọng; việc quy định TNHS và quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS một cách hợp lý sẽ có ý nghĩa
quan trọng trong cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đáp ứng được
yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước nói chung, trên địa bàn huyện
Hồi Ân, tỉnh Bình Định nói riêng.
Chính sách hình sự của đảng và Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội có vị trí quan trọng trong phòng, chống tội phạm ở nước ta, nên đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật với nhiều nội dung điều chỉnh đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn
nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do
các cơ quan áp dụng pháp luật chưa nhận thức được đầy đủ các quy định của
BLHS về trách nhiệm hình sự, hình phạt và việc quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, với các biểu hiện như: việc quyết định hình phạt
quá nặng hoặc quá nhẹ, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc
tình tiết tăng nặng chưa đúng, đánh giá chưa chính xác căn cứ tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; v.v… Ngoài ra, các quy định
của BLHS về vấn đề này còn một số hạn chế, vướng mắc nhất định, chưa đáp
ứng được các yêu cầu của thực tiễn xã hội, như: chưa quy định việc quyết
định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội, mức cao nhất của khung hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt; v.v...
Theo khảo sát, tính đến thời điểm hiện tại thì trên địa bàn tỉnh Bình
Định chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ vấn
đề về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; với mong
muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc hồn thiện các quy định của BLHS về
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từng bước đáp ứng
2



yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta giai đoạn hiện nay. Vì vậy, học viên
quyết định lựa chọn đề tài: “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội từ thực tiễn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định” làm Luận văn Thạc
sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Hội đồng xét xử, là kết
quả cuối cùng của hoạt động xét xử, để việc quyết định hình phạt phải đảm
bảo tính chính xác thì khơng thể tách rời với việc định tội danh chính xác.
Ngồi việc định tội danh chính xác làm tiền đề cho hoạt động quyết định hình
phạt thì Tòa án còn phải xem xét cân nhắc đến các yếu tố khác như tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội của từng địa phương nơi có tội phạm xảy ra cũng như
yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa, phòng chống tội phạm và các yếu tố
khác được quy định trong BLHS để làm căn cứ quyết định hình phạt.
Trong thực tiễn đã có nhiều cơng trình nghiên cứu và một số bài viết về
hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội nói riêng
như:
2.1. Các luận án, luận văn: Hồ Sĩ Sơn (2007), Nguyên tắc nhân đạo
trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và
Pháp luật; Hoàng Minh Đức (2016) Luận án tiến sĩ luật học “Chính sách hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn
Xuân Bốn, Luận văn thạc sĩ luật học “Các căn cứ quyết định hình phạt từ
thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương”,
2.2. Các sách tham khảo giáo trình:Võ Khánh Vinh (2002), Giáo trình
luật Hình sự Việt Nam, phần chung, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội; Võ
Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, phần chung, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.Võ Khánh Vinh (1994) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản
3


(chủ biên), Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành

phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007;
TS. Hồng Văn Hùng, “Chương XVI - Trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội”, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2000 (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên);
PGS.TS. Trần Đình Nhã, “Chương XXIV - Trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội”, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2003 (GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên);
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, “Chương 27 - Phòng ngừa các tội phạm do
người chưa thành niên gây ra”, Trong sách: Tội phạm học hiện đại và phịng
ngừa tội phạm, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2001; ThS. Trịnh Đình Thể,
Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2006; TS. Vũ Đức Khiển, Bùi Hữu Hùng, Phạm Xuân Chiến,
Đỗ Văn Hán, TS. Trần Phàn, Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội,
Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1987; 8) ThS. Trần Đức Châm, Thanh, thiếu niên làm
trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002...
2.3. Các bài báo khoa học: Võ Khánh Vinh (Tạp chí Luật học số
4/1986) “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội”; Dương
Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội,ThS. Trương Hồng Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số
quốc gia về vấn đề quyền của người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí điện
tử ngày 20/8/2009 (Http://hvcsnd.edu.vn/); TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía
cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 7, 8/2010...
2.4. Những điểm kế thừa và phát triển
4


Luận văn là một cơng trình nghiên cứu dưới góc độ Luật Hình sự và Tố
tụng Hình sự, có sự tiếp thu tri thức của các cơng trình khoa học đã được cơng

bố trước đây về vấn đề hình phạt và quyết định hình phạt người dưới 18 tuổi
phạm tội, đi sâu phân tích, luận giải một cách có hệ thống và khoa học về
những vấn đề khác nhau có liên quan đến lý luận và thực tiễn quyết định hình
phạt người dưới 18 tuổi phạm tội hiện nay, từ đó kiến nghị hồn thiện quy
định pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng quyết định
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung, trên địa bàn huyện
Hồi Ân, tỉnh Bình Định nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách tổng thể về lý luận, căn cứ pháp lý và
thực tiễn Tòa án áp dụng quy định của BLHS Việt Nam khi quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn huyện Hồi Ân, tỉnh
Bình Định; luận văn chỉ ra những vướng mắt, hạn chế và một số giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết những
vấn đề sau:
- Tìm hiểu lý luận quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội như: khái niệm về quyết định hình phạt và quyết định người
dưới 18 phạm tội; các căn cứ quyết định hình phạt và nguyên tắc xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp tư pháp; hình phạt và quyết định
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
5


- Khái quát lịch sử phát triển quy định của pháp luật về quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến trước khi ban hành Bộ luật Hình
sự năm 2015.

- Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới.
- Phân tích thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội từ thực tiễn tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, qua đó chỉ ra những
hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội tại TAND huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định và nguyên nhân.
- Luận văn đã chỉ ra yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định về quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội và những giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự hiện hành về
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua các báo cáo, các
số liệu và các bản án của Tòa án nhân dân huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu và đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội tại địa bàn huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định từ
năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn lấy phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự
6


đối với NCTN làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của mình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, như: Phương pháp
phân tích; phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp nghiên cứu tài liệu;

phương pháp so sánh; phương pháp giải quyết các vụ án điển hình để phân
tích các căn cứ khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần
nghiên cứu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống về thực tiễn
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn huyện
Hồi Ân, tỉnh Bình Định, góp phần hồn thiện pháp luật hình sự nói chung và
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ đánh giá được thực trạng quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn quyết định hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thông qua kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và sử dụng trong thực
tiễn quyết định hình phạt, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án khi giải
quyết các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn huyện
Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử phát triển quy định của
pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội.
7


Chương 2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về quyết định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân
dân huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định.
Chương 3. Những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quyết định hình

phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em (The United Nation Convention on
the Rights of the Child - CRC) đã định nghĩa “trẻ em” là bất kỳ người nào
dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia có quy định khác. BLHS năm 2015 sử
dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” để thay thế cho thuật ngữ “người chưa
thành niên” được sử dụng trong BLHS năm 1999. Như vậy, theo quy định
của BLHS năm 2015 thì tất cả những người chưa thành niên đều được gọi là
người dưới 18 tuổi, người từ đủ 18 tuổi trở nên được tham gia vào mọi quan
hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi mà mình đã
thực hiện. Dựa trên đặc điểm về tâm lý của người chưa thành niên, cho thấy
người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, còn hạn
chế về nhận thức và kỹ năng sống, dễ bị kích động, lơi kéo vào các hoạt động
mang tính thiếu suy nghĩ dẫn đến vi phạm pháp luật. Do vậy, việc chăm sóc,
giáo dục người chưa thành niên là trách nhiệm của Nhà nước và cả hệ thống
chính trị. Trong quá trình xây dựng pháp luật, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều cố gắn, từng bước hồn thiện chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội, đáp ứng với nội dung của Công ước năm 1989“Trẻ em
do cịn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể
cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” và Quy

tắc của Liên hiệp quốc thông qua ngày 14-12-1990.
9


Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục..”(Điều 37). Luật trẻ em năm 2016 quy
định: “...Không phân biệt đối xử với trẻ em. Bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ
em trong các quyết định liên quan đến trẻ em. Tôn trọng, lắng nghe, xem xét,
phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em...”. Hiến pháp và pháp luật nước ta
luôn coi trẻ em, người dưới 18 tuổi là đối tượng cần bảo vệ, chăm sóc và quan
tâm đặc biệt đối với cả hai trường hợp, khi họ là chủ thể của tội phạm cũng
như khi họ là nạn nhân của tội phạm. Nhận thức này đã được thể chế hóa
trong các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật
thi hành án hình sự cũng như pháp luật về phòng ngừa tội phạm, là cơ sở pháp
lý cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội, đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội nói chung là người mà tại
thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự chưa
đến tuổi trưởng thành nhưng có năng lực trách nhiệm hình sự và đã đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Vận dụng vào các điều kiện cụ thể
trong pháp luật thực định của Việt Nam thì khái niệm này được định nghĩa
như sau: Người chưa thành niên phạm tội là người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đủ 14 nhưng chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị Bộ luật hình sự quy định là loại tội phạm mà người đó phải chịu trách
nhiệm hình sự nếu phạm phải.
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Trong thực tiễn có rất nhiều khái niệm khác nhau về vấn đề này, như:
TS. Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: Quyết định hình phạt“Là việc nhận thức và
áp dụng pháp luật hình sự do Tồ án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước

thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để
10


quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ
sung) mức hình hạt cụ thể áp dụng cho các nhân người phạm tội trong phạm
vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức đọ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người
phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự”. TS. Nguyễn Văn Hiện đưa ra
định nghĩa Quyết định hình phạt là: “Kết quả pháp lý của quá trình điều tra,
truy tố, xét xử, là kết quả mang tính Nhà nước về áp dụng loại và hình phạt
đối với người phạm tội”. Theo TS. Phạm Minh Tuyên thì khái niệm này được
hiểu là: “Quyết định hình phạt là hoạt động của Tịa án trong việc cân nhắc
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lựa chọn loại
hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao hồm hình phạt chính và hình phạt bổ
sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội”.
Như vậy, có thể khẳng định: Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy
của Hội đồng xét xử là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử, để việc quyết
định hình phạt phải đảm bảo tính chính xác thì khơng thể tách rời với việc
định tội danh chính xác. Ngồi việc định tội danh chính xác làm tiền đề cho
hoạt động quyết định hình phạt thì Tịa án cịn phải xem xét cân nhắc đến các
yếu tố khác như tình hình kinh tế - xã hội của từng địa phương nơi có tội
phạm xảy ra cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa và phòng
chống tội phạm và các yếu tố khác được quy định trong BLHS để làm căn cứ
quyết định hình phạt.
Quyết định hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi phạm tội là
trường hợp đặc biệt; tính chất này thể hiện khi quyết định hình phạt phải nhẹ
hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương và
mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Lý do người

người dưới 18 tuổi được hưởng chính sách hình sự đặc biệt của Nhà nước khi
11


họ có hành vi phạm tội, vì người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, tâm sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường thiếu chín chắn, họ
dễ bị kích động, lơi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở mơi trường xấu
và khơng được chăm sóc giáo dục tốt, người người dưới 18 tuổi dễ bị ảnh
hưởng dẫn đến vi phạm pháp luật. Cho nên, người dưới 18 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự khác với người trên 18 tuổi. Chính vì thế, khi quyết định
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã
thành niên. Như vậy, có thể xem: “Quyết định hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội là việc Hội đồng xét xử lựa chọn và đưa ra chế tài hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, theo quy định pháp luật hình sự, tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các đặc điểm nhân
thân của người dưới 18 tuổi và những chính sách hình sự đặc biệt đối với
họ”.
1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Luật Hình sự là một hệ thống các nguyên tắc để chỉ đạo toàn bộ hoạt
động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Vì vậy, hoạt động quyết định
hình phạt nhất định phải chịu sự tác động bởi các nguyên tắc chung của Luật
Hình sự. Tuy nhiên, để quyết định hình phạt một các chính xác đối với người
phạm tội, các nguyên tắc chung của luật hình sự phải được cụ thể hóa thành
các nguyên tắc riêng trong hoạt động quyết định hình phạt của Hội đồng xét
xử nhằm đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách đúng đắn đối với
người phạm tội bị kết án.
Khi quyết định hình phạt, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo; ngun tắc cá thể
hóa hình phạt [16, tr.237]. Tuy nhiên, cũng có một số nhà khoa học bổ sung

12


thêm nguyên tắc công bằng. Tác giả tán thành với quan điểm cho rằng trong
quyết định hình phạt phải có ngun tắc cơng bằng vì, “quyết định hình phạt
đúng pháp luật, công bằng là tiền đề, điều kiện để đạt được các mục đích của
hình phạt... Ngun tắc cơng bằng khi quyết định hình phạt địi hỏi Tịa án
phải tun hình phạt phản ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp
luật và đạo đức xã hội chúng ta… định hướng để Tịa án quyết định hình phạt
dựa trên cơ sở pháp luật và cơng bằng”. Ngồi những nguyên tắc chung, Tòa
án còn phải tuân thủ các nguyên tắc riêng khi quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể như sau:
- Nguyên tắc giảm nhẹ hình phạt: Như đã nêu trên, người dưới 18 tuổi
phạm tội là những người chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần,
khả năng nhận thức hạn chế, hành vi bồng bột, dễ bị rủ rê, tác động nên việc
trừng phạt họ cần khoan hồng hơn so với người đã thành niên. Do đó, hình
phạt phải được quyết định đối với người dưới 18 tuổi theo hướng giảm nhẹ;
tuy nhiên, mức độ giảm nhẹ hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi được
xác định trong khuôn khổ luật định chứ không phải giảm nhẹ một cách tùy
tiện dẫn đến không tương xứng với hành vi phạm tội.
* Nguyên tắc coi trọng và đề cao mục tiêu giáo dục, cải tạo người dưới
18 tuổi phạm tội: Việc quyết định hình phạt nói chung đều nhằm đến kết quả
đạt được các mục đích của hình phạt là: trừng trị, cải tạo, phòng ngừa nhưng
trong quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên thì mục tiêu giáo
dục, cải tạo cần đặc biệt coi trọng hơn. Bản chất của con người khơng phải
sẵn có khi người đó sinh ra, điều đó thể hiện trong câu thơ của Hồ Chủ tịch:
“Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Do không
phải bản chất sẵn có của tất cả người phạm tội nên dù có phạm lỗi đến đâu
đều có khả năng giáo dục để trở thành một cơng dân có ích. Người dưới 18
tuổi lại càng có khả năng phục thiện cao hơn vì tâm sinh lý của họ đang trong

13


quá trình hình thành, dễ cải tạo nếu nhận được sự giáo dục, giúp đỡ, khi hồn
lương họ cũng có nhiều cơ hội đóng góp cho xã hội hơn so với người đã thành
niên. Vì vậy, khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
phải đặt mục tiêu giáo dục lên hàng.
- Nguyên tắc không áp dụng các hình phạt đặc biệt nghiêm khắc: Xuất
phát từ nguyên tắc giảm nhẹ và coi trọng mục tiêu giáo dục người dưới 18
tuổi phạm tội, nên những hình phạt nghiêm khắc cần cần phải được loại bỏ.
Bởi vậy, trong hệ thống hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khơng
có loại hình phạt loại bỏ hồn tồn người phạm tội ra khỏi xã hội như hình
phạt tù chung thân hoặc tử hình. Hình phạt tù có thời hạn cũng được hạn chế
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Nguyên tắc hạn chế việc cách ly người dưới 18 tuổi phạm tội khỏi đời
sống xã hội: Người dưới 18 tuổi hầu hết là những người chưa có khả năng
sinh sống độc lập mà cịn lệ thuộc vào sự ni dưỡng, quan tâm, chăm sóc,
giáo dục của gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội nơi họ sinh sống. Đó
cũng là mơi trường cần thiết cho sự phát triển nhân cách bình thường của
người chưa thành niên. Do vậy, khi lựa chọn biện pháp xử lý chưa thành niên
phạm tội cần hạn chế tối đa việc áp dụng hình phạt cách ly họ khỏi mơi
trường sống bình thường, bảo đảm cho họ có thể cải tạo, giáo dục trong mơi
trường ngồi xã hội.
1.2. Khái qt lịch sử phát triển quy định của pháp luật về quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 2015
Từ năm 1945 đến trước năm 1985, Nhà nước ta đã nỗ lực ban hành
nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự, nhưng
trong giai đoạn này vấn đề quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội chưa được đề cập đến một cách chính thức trong các văn bản luật

14


mà chủ yếu thể hiện qua các hướng dẫn áp dụng pháp luật của ngành Tòa án,
nguyên nhân là do điều kiện chiến tranh, hạn chế về công tác lập pháp…Chỉ
thị số 46-TH ngày 14/01/1969 của TANDTC về việc tăng cường và phát huy
hơn nữa tác dụng của Tòa án trong công tác bảo vệ trật tự, trị an, bảo vệ tài
sản của nhà nước và quản lý thị trường ở thành phố Hà Nội đã lần đầu tiên đề
cập đến NCTN, trong đó có quy định: Đối với trẻ em hư dưới 14 tuổi thì
khơng đưa ra Tịa án xét xử; từ 14 đến 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần
thiết phải đưa xét xử thì châm trước đến tuổi còn non trẻ của chúng; riêng đối
với loại từ 14 đến 16 tuổi, chỉ nên xét xử trong những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng. Chỉ thị này đã quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và phân
hóa mức độ chịu TNHS của NCTN, theo đó người từ 14 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự nhưng nếu chưa đến 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm
trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Hơn nữa, Chỉ thị bước đầu đề ra yêu
cầu của việc xem xét TNHS (là nền tảng của nguyên tắc quyết định hình phạt)
đối với NCTN phạm tội. Sau Chỉ thị số 46-TH, Báo cáo tổng kết của
TANDTC tiếp tục hướng dẫn đường lối xử lý NCTN phạm tội: Về nguyên
tắc, từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS. Đối với độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi,
nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần
xét xử, nhưng so với người lớn cần xử nhẹ hơn. Hướng dẫn này có một bước
tiến trong quy định về tuổi chịu TNHS, phải là tuổi đủ - “đủ 14 tuổi trịn trở
lên” chứ khơng phải là đến 14 tuổi. Mức độ chịu TNHS tương ứng với tuổi
của NCTN phạm tội cũng được phân hóa rõ ràng hơn. Mặc khác, Báo cáo đã
đặt ra những yêu cầu của quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội: xử
nhẹ hơn người lớn và nhằm mục đích giáo dục là chủ yếu. Báo cáo tổng kết
cũng đề xuất việc ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp thay vì hình phạt tù
đối với NCTN phạm tội. Xử phạt tù giam, nhất là những án phạt tù ngắn hạn
hồn tồn khơng thích hợp với lứa tuổi đó và cũng khơng đạt được một tác

15


dụng thiết thực nào. Quan điểm nhận thức được thống nhất ở đây là hình phạt
tù khơng thích hợp và hiệu quả để cải tạo NCTN phạm tội nên khi xét xử đối
tượng này, các tòa án phải ưu tiên áp dụng các biện pháp như: giao cho gia
đình bảo lãnh và giáo dục hoặc cho hưởng án treo. Do chưa có một Bộ luật
thống nhất, nên ở giai đoạn này quy định về quyết định hình phạt đối với
NCTN phạm tội cũng nằm rải rác trong cả các văn bản hướng dẫn về tội phạm
cụ thể. Chẳng hạn như về các tội phạm tình dục, Hướng dẫn số 329-HS2 ngày
11/2/1967 của Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra yêu cầu áp dụng biện pháp tư
pháp thay thế hình phạt nhằm mục đích giáo dục NCTN phạm tội: Riêng đối
với các can phạm cịn ít tuổi (phạm tội hiếp dâm), cần phân biệt đối với
những can phạm trong lứa tuổi, từ khoảng 14 đến 16, chủ yếu dùng những
biện pháp giáo dục như: giao cho cha, anh, chú, bác bảo lĩnh và giáo dục; giữ
trong các trại giáo dưỡng vị thành niên; chỉ trong một số ít trường hợp có tình
tiết thực sự nghiêm trọng mới cần xét xử. Những biện pháp tư pháp được đề
xuất ở đây cho đến hiện nay vẫn còn nguyên giá trị sử dụng (được quy định
chính thức trong BLHS hiện hành bằng biện pháp - Đưa vào trường giáo
dưỡng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn). Không chỉ đề xuất áp dụng biện
pháp tư pháp, Hướng dẫn 329-HS2 còn nêu căn cứ quyết định hình phạt và
xác định mức hình phạt giảm nhẹ cụ thể trong trường hợp cần áp dụng hình
phạt đối với NCTN phạm tội: Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ
hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ cải tạo, giáo dục, đến việc NCTN
nhận thức chưa đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ
hơn các can phạm đã lớn tuổi…. Vấn đề loại trừ hình phạt tử hình đối với
người chưa thành niên phạm tội cũng đã được đặt ra trong hoạt động quyết
định hình phạt bởi Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân
dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người: Vì tội giết người là một tội
hết sức nguy hiểm mà lứa tuổi từ 14 tuổi trịn trở lên đã có thể nhận thức được

16


ít nhiều, cho nên, cần truy tố xử các trường hợp giết người mà người phạm tội
có từ 14 tuổi trịn trở lên. Tuy nhiên, vì nhận thức của can phạm còn non nớt,
cho nên cần xét xử nhẹ hơn... Đối với các can phạm đã có từ 16 tuổi trịn trở
lên cho đến dưới 18 tuổi một ít cũng có thể xử nhẹ một phần so với can phạm
đã lớn và đối với tất cả các loại can phạm này, nói chung, khơng nên áp dụng
hình phạt tử hình. Bên cạnh đó, nó cịn phân hóa đối tượng NCTN phạm tội
để có chính sách xử lý phù hợp. Tóm lại, trong giai đoạn từ Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đến trước năm 1985, Việt Nam chưa có văn bản luật chính
thức quy định về quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội. Việc quyết
định hình phạt cho đối tượng này được định hướng bởi các văn bản hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong ngành Tịa án, trong đó thể hiện các quan điểm
chính: Một là, khi quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội phải chú
trọng hiệu quả giáo dục, cải tạo; Hai là, cân nhắc việc khơng xử lý về hình sự
hoặc ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp; Ba là, NCTN phạm tội phải được
quyết định mức hình phạt giảm nhẹ hơn NCTN phạm tội tương tự và mức độ
giảm nhẹ phân hóa theo độ tuổi (dưới 16 và 16 trở lên); Bốn là, khơng áp
dụng hình phạt tù chung thân, tử hình.
Năm 1985, lần đầu tiên Nhà nước ta ban hành một đạo luật riêng, đã có
một chương riêng để quy định về NCTN phạm tội, tại Chương VII với tên gọi
“Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội”. Điều 58 quy định
hai mức tuổi chịu TNHS như sau:
1. Người từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải TNHS về những
tội phạm nghiêm trọng do cố ý.
2. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
Theo quy định này NCTN phạm tội phải là người từ 14 tuổi trở lên (“từ
14 tuổi” chứ khơng phải trịn 14 tuổi), tuy nhiên điều luật nêu trên khơng xác
định đến bao nhiêu tuổi thì khơng được coi là NCTN phạm tội. Việc xác định

17


NCTN phạm tội do khơng có căn cứ chính thức nên buộc phải tham chiếu
quan điểm trong các ngành luật khác. Điều đó sẽ dẫn đến cách hiểu: NCTN
phạm tội là người phạm tội từ 14 tuổi nhưng chưa đến 18 tuổi vì Hiến pháp
năm 1980 (Điều 57) và Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 sử dụng cách
tính tuổi đến chứ khơng phải tuổi trịn (Điều 5). Theo đó người phạm tội khi
13 tuổi 1 ngày trở lên đến tròn 17 tuổi mới là NCTN phạm tội còn bước sang
ngày đầu tiên của tuổi 18 mà phạm tội thì sẽ khơng được coi là NCTN phạm
tội nữa. Tuy nhiên, hiểu như vậy lại không thống nhất với quy định ở Điều 65
của chính Bộ luật này quy định về tổng hợp hình phạt đối với NCTN phạm
tội. Điều 65 lấy căn cứ tội phạm nặng nhất thực hiện trước khi đủ 18 tuổi và
khi đã đủ 18 tuổi để phân hóa chính sách tổng hợp hình phạt. Như vậy, cách
tính tuổi ở đây lại là tuổi đủ. Tựu chung lại, do thiếu một định nghĩa pháp lý
về NCTN phạm tội nên BLHS năm 1985 sẽ gây ra việc áp dụng khơng thống
nhất.
* Về căn cứ quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội: Chương VII
không giải quyết mọi vấn đề liên quan đến NCTN phạm tội chỉ đặt ra một số
quy định đối xử đặc biệt áp dụng riêng cho NCTN phạm tội nên TNHS của
NCTN phạm tội đồng thời được xem xét trên cơ sở quy định của Chương VII
và các quy định chung khác của Bộ luật. Căn cứ quyết định hình phạt được
quy định ở Điều 37 BLHS năm 1985, gồm:
1. Các quy định của Bộ luật hình sự;
2. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội;
3. Nhân thân người phạm tội;
4. Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Theo đó, căn cứ quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội chỉ có sự
khác biệt ở căn cứ thứ nhất. Sẽ không phải là “Các quy định của Bộ luật hình
sự” mà là “Các quy định của Chương VII và quy định khác của Bộ luật hình

18


×