Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghiên cứu đánh giá và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên đất, nước nhằm phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 87 trang )

Luận Văn Thạc Sĩ

1

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

MỞ ĐẦU
B
0

1. Tính cấp thiết của đề tài
B
6

Đất là một nền nhân tố cơ bản trong điều kiện nền văn minh nhân loại, nước
là điều kiện quyết định mọi sự sống trên hành tinh, là tài nguyên đặc biệt chi phối
sự phát triển kinh tế-xã hội của mọi quốc gia. Đất và nước tạo lên nền tảng sản xuất
nông nghiệp. Khi dân số tăng nhanh thì nhu cầu lương thực, thực phẩm và chất đất
cũng gia tăng đến mức báo động. Sự gia tăng này cộng thêm với tình trạng suy thối
dần những vùng đất đai thích hợp cho canh tác, làm nảy sinh nhu cầu ngày càng
tăng dẫn đến mở rộng diện tích đất trồng trọt vào những vùng kém thích hợp cho
sản xuất nơng nghiệp hoặc vào những vùng sinh thái mẫn cảm dễ huỷ hoại đến tài
nguyên khác như tài nguyên rừng.
Trong những thập kỷ gần đây ở Việt nam nói chung và ở Yên Bái nói riêng đang
phải đối mặt với những thách thức to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Do áp lực gia
tăng dân số, tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng theo hướng thị trường, nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên đất, nước và rừng đang bị sử dụng không hợp lý
xuống cấp nghiêm trọng. Mơi trường đang bị suy thối nghiêm trọng do rừng bị tàn phá,
đất dai bị suy thoái và tài nguyên bị sử dụng mất cân đối; cần có biện pháp cấp thiết để bảo
vệ phục hồi môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài
nguyên đất và nước để phục vụ cho phát triển một nền nông nghiệp bền vững ở Yên Bái.


Nhằm kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, đồng thời mở rộng việc nghiên
cứu sử dụng hợp lý tài nguyên đất, nước ở Yên Bái theo hướng tổng hợp, đề tài tiến
hành theo hướng nghiên cứu, đánh giá và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên đất
và nước nhằm phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Yên Bái, vì vậy trong luận
văn này chúng tơi muốn đề cập vấn đề đó qua đề tài:

“Nghiên cứu đánh giá và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên đất,
nước nhằm phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh Yên Bái”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
B
7

- Nghiên cứu đánh giá các đặc điểm đất đai, nguồn nước liên quan đến tài
nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội và sử dụng đất nông nghiệp.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

2

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

- Đề suất các giải pháp sử dụng tài nguyên đất, nước hợp lý để phát triển kinh tế xã hội nhằm ngăn chặn suy thoái và cạn kiệt các nguồn tài nguyên đất, nước và rừng.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
B
8


- Cách tiếp cận là cách tiếp cận kế thừa và phát triển bền vững
- Phương pháp nghiên cứu
1. Kế thừa các kết quả nghiên cứu
2. Phương pháp đánh giá tài nguyên đất
3. Phương pháp đánh giá tài nguyên nước
4. Phương pháp sử dụng hệ thống thông tin địa lý để chỉnh lý

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

3

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
B
1

1.1 Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu tài nguyên đất, nước và phát triển
B
9

nông nghiệp bền vững
1.1.1. Đất và nước trong sản xuất nơng nghiệp
B

4
1

Đất nước có nhiều chức năng đối với hoạt động sản xuất sinh tồn của xã hội
loài người được thể hiện ở các mặt sau: sản xuất, môi trường, sự sống, cân bằng
sinh thái, tàng trữ và cung cấp nguồn nước, dự trữ (nguyên liệu và khống sản trong
lịng đất), khơng gian sự sống, bảo tồn, bảo tàng sự sống, vật mang sự sống, phân vị
lãnh thổ. Đất đai là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được và vô cùng quý giá,
đất được xác định vừa là vật liệu sản xuất vừa là đối tượng sản xuất trong sản xuất
nông nghiệp.
Đào Thế Tuấn (1984) khi nghiên cứu về hệ sinh thái nông nghiệp tác giả cho
rằng vai trò của đất là "tư liệu sản xuất cơ bản là chủ yếu" của lồi người, đất cịn là
vật mang của tất cả các hệ sinh thái tự nhiên và các hệ sinh thái canh tác. Trong quá
trình sản xuất nông nghiệp luôn quan hệ chặt chẽ với độ phì nhiêu và q trình sinh
học của đất. Có thể chia phương thức, mục tiêu của đất thành các nhóm sau:
- Lấy tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt từ đất đai để thoả mãn nhu cầu sinh
tồn và phát triển.
- Dùng đất để làm cơ sở sản xuất môi trường và hoạt động.
- Đất cung cấp không gian môi trường, cảnh quan cho việc hưởng thụ tinh thần.
Trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, khi mức sống của con người cịn
thấp, cơng năng chủ yếu của đất đai là tập trung vào sản xuất vật chất (sản xuất ra
lúa, mì) để ni sống con người. Đến thời kỳ mà cuộc sống xã hội con người phát
triển ở mức độ cao công năng của đất từng bước được mở rộng từ đó sử dụng đất
đai phức tạp hơn. Điều này có nghĩa đất đã cung cấp cho con người tư liệu vật chất
để sinh tồn và phát triển, cũng như cung cấp điều kiện vật chất cần thiết để hưởng
thụ và đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống nhân loại.
Theo đánh giá của chương trình khoa học công nghệ Nhà nước bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững (1995) cho biết hiện nay dưới áp lực tăng dân số và

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải


Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

4

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

nhu cầu lương thực trên thế giới, tình trạng suy thoái nhiều vùng đất đã diễn ra hàng
năm trong hơn 1,5 tỷ ha đất nông nghiệp trên thế giới đã có khoảng 5-7 triệu ha bị
loại bỏ do xói mịn, không sản xuất nông nghiệp được.
Trịnh Trọng Hàn (1993) nghiên cứu cho rằng đất với cây trồng nước không
chỉ là nhu cầu thiết yếu mà còn là vai trò điều tiết các chế độ nhiệt, ánh sáng chất
dinh dưỡng, vi sinh vật, độ thống khí trong đất, một hệ thống tổng hợp các nhân tố
quan trọng và quyết định phát triển của thực vật.
Jan Van SchilFgarde (1994) nghiên cứu cho biết tài ngun nước có vai trị rất
quan trọng trong cuộc sống của con người. Hiện nay đã xác định được 98% nước
của hành tinh vào khoảng 1400 triệu km3 nước bị quá mặn, nên con người khó sử
P

P

dụng được. Phần nước ngọt ít ỏi cịn lại có ý nghĩa sống cịn đối với nhân loại: Hiện
nay có khoảng 80 quốc gia lâm vào cảnh thiếu nước dùng trong sản xuất nông
nghiệp và các hoạt động khác đối với con người.
HanMan Bouwer (1994) đã cho biết dân số thế giới dự kiến lên 8,3 tỷ người
vào năm 2025 và khoảng 10 tỷ người vào năm 2050. Sự tăng dân số thường ở các
nước thuộc thế giới thứ 3 chiếm tới 90% dân số thế giới và con người sẽ tiếp tục di

cư từ nơng thơn ra thành phố, ước tính có 22 thành phố khổng lồ trên 10 triệu dân
trong đó thế giới thứ 3 có 18 thành phố. Những thành phố như thế có nhu cầu về
nước rất lớn, sản xuất ra lượng nước thải khổng lồ và gây ra nhiều vấn đề. Nước
dùng cho nông nghiệp cần nhiều hơn để có thể cung cấp đủ thức ăn cho dân số ngày
càng tăng làm cho sự cạnh tranh về nước ngày càng trở nên căng thẳng hơn.
Lê Văn (1999) cho thấy nước giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế
chính trị của các quốc gia trên thế giới. Nước cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất
nơng nghiệp.
1.1.2. Tác dụng của nước trong q trình sử dụng cải tạo đất và suy thoái đất
B
5
1

Nước là nhân tố rất quan trọng của độ phì đất và của thực vật : muốn tồn tại
hoạt động, sinh trưởng phát triển, thực vật và sinh vật sống trong đất cần có một
lượng nước nhất định. Ngày nay chúng ta xác định vai trò của nước trong đất như
máu trong cơ thể, nước có liên quan chặt chẽ tới tính chất cơ lý của đất như: độ rắn,

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

5

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

tính dính, tính dẻo, tính trương, tính co…Các loại đất khác nhau thì có sức giữ ẩm

khác nhau thì có sức giữ ẩm khác nhau, sức giữ ẩm của đất phụ thuộc vào thành
phần cơ giới đất. Đất sét nhiều mùn giữ ẩm tốt hơn đất cát nhiều mùn.
Để mối quan hệ giữ đất và nước, các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng
nền văn minh của một nước là “đất màu mỡ, đất có đủ nước và đất khơng bị rửa
trơi, xói mịn đi đến nghèo kiệt”. Đối với một nước, nguồn nước cũng tương tự như
đất đai, hầm mỏ, rừng, biển…đều là nguồn tài nguyên quý báu.
Ngày nay trong điều kiện phát triển mới của một nền kinh tế khơng có một
hoạt động nào của con người mà khơng có mối liên quan tới việc khai thác tài
nguyên đất, nguồn nước. Nước là nhiên liệu và là mơi trường cho các phản ứng,
sinh lý, sinh hóa xảy ra trong đất. Nước là yếu tố điều hòa nhiệt độ, nó quy định sự
điều hịa từ đất và thực vật thông qua sự bốc hơi, phát tán.
Khi sử dụng đất khơng chú ý đến bảo vệ thì dẫn đến tác hại khơng lường. Đó là đất
đai bị khơ hạn, sa mạc hóa, sự di chuyển cồn cát, mặn hóa, kiềm hóa xói mịn, lầy thụt..
Khi khơng kiểm sốt được sẽ gây ra tác hại nghiêm trọng đó là tạo ra ngập lụt,
phá hoại phương tiện sản xuất, mùa màng, tài sản thậm chí đến tính mạng con người.
Nước gây ra xói mịn, rửa trơi, sạt lở đất, làm cho đất trở nên cằn cỗi hoặc lầy thụt.
Khơng có nước thì đất sẽ trở nên vơ dụng, sẽ khơng có cơ sở để sự sống tồn
tại. Đất được coi như là kho để dự trữ nước và tạo nên sự kết hợp hài hòa giữ đất và
nước trong sự phát triển nông nghiệp bền vững.
Nước là một trong những yếu tố tác động hình thành nền đất, đất mà thiếu nước
trở nên khô cằn không tạo ra môi trường thích hợp cho hoạt động sống của vi sinh vật
trong sản xuất nông nghiệp, cây không tồn tại được, đến lúc nào đó đất khơng có
nước sẽ trở nền vùng đất chết bị sa mạc hóa, dẫn đến khó tồn tại của hệ vi sinh vật.
Đất mà thừa nước thì trở nên ngập úng, đất bị thối hóa trở thành vùng đất lầy thụt và
glây hóa, hạn chế lớn đến sự phát triển của cây nhất là các cây công nghiệp.
Những vùng đất khi thừa nước gây nên úng ngập, muốn sản suất trồng trọt thì
phải tiêu nước. Đất ngập nước chiếm tỷ lệ lớn trong đất trồng lúa trên hành tinh

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải


Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

6

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

chúng ta là một điển hình. Có 68,7 triệu ha đất trồng lúa trên thế giới chịu ảnh
hưởng của ngập ở mức độ khác nhau.
Sự phân bố mưa và địa hình khu vực đã gây ra hiện tượng ngập úng. Ngập úng
và giai đoạn ngập đã ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng.
Theo kết quả nghiên cứu của FAO (1993) về nông nghiệp tới năm 2010 đã chỉ ra
rằng: tưới đóng vai trị quan trọng để thỏa mãn nhu cầu lương thực của con người
trong tương lai. Ở châu Á các nghiên cứu chỉ ra rằng do nguồn lực hạn chế và
những vùng đất thuận lợi ngày càng khan hiếm đã gây trở ngại cho sản xuất nông
nghiệp bền vững.
Dregne et al (1991) nghiên cứu đưa ra số liệu ở bảng 1.1 đã cho thấy thế giới
cịn 6150,0 triệu ha chiếm 41% tổng diện tích đất đai trên thế giới, khó đưa vào sản
xuất nơng nghiệp vì đất đai bị khơ hạn, thiếu nước. Diện tích đất bị khơ hạn phân bố
ở các châu lục khác nhau, ở châu Phi có 1.959 triệu ha đất bị khơ hạn chiếm 32%
tổng diện tích đất bị khơ hạn của thế giới, chiếm 66% diện tích đất của châu Phi.
Châu Á có 1.949 triệu ha đất bị khơ hạn chiếm 32% tổng diện tích đất bị khơ hạn
trên thế giới, chiếm 46% diện tích châu lục và châu Âu 300 triệu ha đất bị khô hạn
chiếm 8,0% diện tích bị khơ hạn trên thế giới, chiếm 32% so với châu lục.
Bảng 1.1: Diện tích đất khơ hạn trên thế giới
(Đơn vị: triệu ha)

Châu


Châu

Châu

Châu

Bắc

Nam

Tồn thế

Phi

Á

Úc

Âu

Mỹ

Mỹ

giới

Ít khơ hạn

672


277

0

0

3

26

987

Khơ

504

626

303

11

82

45

1571

Bán khơ hạn


514

693

309

105

419

265

2305

Ẩm ướt

169

353

51

184

232

207

1296


Tổng

1959

1949

663

300

736

543

6150

% thế giới

32

32

11

5

12

8


100

% lục địa

66

46

75

32

34

31

41

Nguồn: Dregne et al.1991

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

7


GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

Diện tích đất có khả năng canh tác trên thế giới thể hiện ở bảng 1.2 còn
3.190 triệu ha, tập trung nhiều nhất châu Phi 734 triệu ha, Nam Mỹ 681 triệu ha,
châu Á 627 triệu ha. Trong tổng số diện tích đất canh tác của thế giới 1.474 triệu ha
thì diện tích đất canh tác 451 triệu ha và diện tích khơng được tưới có 309 triệu ha,
chiếm 24,78% so với diện tích khơng được tưới của thế giới.
Bảng 1.2: Tiềm năng đất đai và diện tích đất canh tác trên thế giới
( Đơn vị: triệu ha)
Lục địa

Tổng diện tích

Diện tích có
khả năng canh tác

Diện tích canh tác

Diện tích
khơng được tưới

Châu Phi

2964

734

185

174


Châu Á

2679

627

451

309

Châu Đại Dương

843

153

49

47

Châu Âu

473

174

140

123


Bắc Mỹ

2138

465

274

248

Nam Mỹ

1753

681

142

133

Liên Xô

2227

356

233

213


Tổng

13077

3190

1474

1247

Nguồn : Dregne et al. 1991

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

8

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

Pereira (1994) nghiên cứu và chỉ ra cho thấy sử dụng tài nguyên đất và nước
trong phát triển sản xuất nông lâm nghiệp đi theo 2 chiều hướng tốt lên hoặc bị suy
thoái. Tác giả chỉ ra rằng khi khai thác, sử dụng đất đai, nước khơng có sự kiểm sốt
của con người sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Trên thế giới đã tổng kết đưa ra 2 mơ
hình khai thác sử dụng tài nguyên đất và nước được minh họa hình 1.1


Hình 1.1 Các mơ hình khai thác sử dụng tài ngun đất và tài ngun nước
Mơ hình 1: Khai thác sử dụng tài không hợp lý tài ngun đất đai và tài
ngun nước. Mơ hình này cho thấy con người chủ yếu chú trọng tới việc khai thác
sử dụng tài nguyên đất, nước mà chưa chú ý tới vấn đề duy trì và bảo vệ nó. Trong
trường hợp này gây nên tác hại khôn lường, môi trường sinh thái bị đe dọa, dẫn đến
tài nguyên bị cạn kiệt, đe dọa cuộc sống tới chính ngay đồng bào ở cả thượng lưu và
hạ lưu. Sự ảnh hưởng này khơng chỉ có diện tích hẹp mà ở cả lưu vực diện tích lớn
và cả quốc gia. Những yếu tố và ngun nhân dẫn tới mơ hình hủy diệt hai tài
nguyên này là: rừng đầu nguồn bị khai thác bừa bãi, đốt nương rẫy là nguyên nhân
chính gây ra các vụ cháy rừng, cháy đồng cỏ. Thảo nguyên đồng cỏ chăn thả gia súc
mật độ quá cao. Đất dốc không được chống xói mịn. Vùng đồng bằng khơng kiểm

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

9

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

sốt được tưới, tiêu nước gây ra lầy, mặn hóa. Khu vực thành phố, khu công nghiệp
chất thải sinh hoạt, chất thải cơng nghiệp chưa được xử lý v.v.v...
Mơ hình 2: Khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên đất và tài ngun nước.
Đây là mơ hình được các nhà khoa học trên thế giới đánh giá là một mô hình tối ưu,
khai thác sử dụng đi đơi với cải tạo và bảo vệ tài nguyên đất, nước trên cơ sở đa
dạng sinh học, ứng dụng các tiến bộ khoa học hiện đại mang tính cộng đồng đó là:
khu vực đầu nguồn rừng được khai thác hợp lý, chỗ xung yếu cần bảo vệ, không

khai thác bừa bãi. Bãi chăn thả hợp lý, cân đối giữa chăn thả gia súc với tái sinh
đồng cỏ. Vùng bằng phẳng kiểm soát được tưới, tiêu nước. Khu đô thị, công nghiệp
các chất thải phải được xử lý trước khi đổ ra sông...
Thomas Petermann (1996) cho thấy việc khai thác tài nguyên đất nước trong
sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua kết quả tưới, tiêu nước trên đồng ruộng, có
tác dụng theo hai mặt tích cực và tiêu cực. Khi cung cấp nước khơng bị thối hóa,
mơi trường khơng bị hủy hoại. Khi sử dụng nước không phù hợp sẽ gây nhiễm bẩn
cho nguồn nước mặt, nước ngầm và dẫn đến sử dụng đất không bền vững, mất cân
bằng sinh thái.
1.1.3 Mối quan hệ giữa sự cung cấp nước và năng suất cây trồng
B
6
1

Nước là một trong những yếu tố cần thiết và ảnh hưởng tới năng suất cây
trồng, các tác giả khi nghiên cứu về quan hệ giữa yếu tố nước và năng suất cấy
trồng, đều khẳng định cung cấp nước cho cây trồng là cần thiết. Có một số nghiên
cứu chính sau đây về ảnh hưởng của nước tới năng suất cây trồng.
LarLev, KoLev, LirKova (1988) đã tiến hành thí nghiệm và cho biết ngô rất
nhạy cảm đối với thiếu nước trong các giai đoạn sinh trưởng khác nhau và có mối
quan hệ phi tuyến giữa năng suất và bốc thoát hơi nước của ngô.
Theo Maticic, Avbelj (1988) khi nghiên cứu ảnh hưởng của cung cấp nước
tưới và phân bón đến năng suất cây lớn hơn ảnh hưởng và phân bón. Năng suất tối đa
đạt 50,6 tấn/ha và hàm lượng nước tưới là 265 mm với lượng đạm bón 272 kg/ha.
Theo Battilam (1992) khi nghiên cứu cung cấp nước tưới cho đậu tương với
mức tưới. Giữa hàm lượng nước mà cây trồng sử dụng và năng suất cây đậu tương
có quan hệ tuyến tính với r2 = 0,99.
P

P


Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

10

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

Theo kết quả nghiên cứu của Bosnjak (1995) cho biết tưới nước đã làm tăng
năng suất cây của cây đậu tương 0,932 tấn/ ha hoặc 34,5%. Với điều kiện khí hậu
của những năm khác nhau thì năng suất cây trồng thay đổi 10,1% - 65,7%, trong vụ
khô năm 1990 năng suất cây trồng tăng 3 lần.
Theo Hà Lương Thuần (1995) tổng hợp cho biết:
• Bulgari lượng hoa màu được tăng lên do được cung cấp nước
- Lúa mì, ngơ từ 14,4% - 36,0%
- Thuốc lá, mía, bơng từ 24,7% - 29,5%.
• Ba Lan tưới nước góp phần tạo ra 21,7% sản lượng cỏ để chăn ni,
• Ấn độ tưới nước làm tăng năng suất cho cây trồng giá trị 800rupi (40USD)/ha.
• Pakistan trong các yếu tố thâm canh trong việc tạo ra năng suất cây trồng thì yếu tố
nước chiếm trung bình 18%, trong đó đối với lúa mì chiếm 11,0%, lúa 27,0%, ngô 15%.
Theo Ngô Đức Thiệu (1969) nghiên cứu cung cấp nước cho ngô vụ đông cho
biết ảnh hưởng của thời gian cung cấp nước, số lần tưới đến năng suất ngơ vụ đơng
trình bày bảng 1.3. Theo tác giả khi tưới 1 lần thì lần tưới vào thời kỳ ngơ 7 – 8 lá
có hiệu quả nhất, tăng năng suất so với không tưới 37,5%. Nhưng khi tưới 2 – 3 lần
vào thời kỳ ngô 3 – 4 lá và 13 – 14 lá sẽ thỏa mãn được yêu cầu nước trong suốt
thời kỳ sinh trưởng ban đầu, ngô đạt năng suất cao nhất tăng 47,3% đến 56,7% so

với ngô không được cung cấp nước.
Bảng 1.3: Ảnh hưởng của tưới nước đến năng suất ngô vụ Đông Xuân.
Tưới và không tưới

Năng suất hạt
Tạ/ha

%

Không tưới

18,00

100,00

Tưới lần 1: 3- 4 lá

19,98

110,40

Tưới lần 1: 7- 8 lá

24,76

137,50

Tưới lần 1: 13 - 14 lá

19,05


105,90

Tưới 2 lần: 3-4 là + 7-8 lá

26,53

147,30

Tưới 3 lần: 3-4 lá + 7-8 lá +13-14

28,22

156,70

Nguồn: Tạp chí Nông nghiệp

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

11

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

Đối với vùng đất Gia Lâm, theo Hà Học Ngô (1977) cho biết ngô đông không
tưới, không cho năng suất. Khi tưới 2 lần từ 6-7 lá và 9 – 10 lá cho năng suất 10,3

ta/ha, đạt 50,0% so với năng suất cao nhất, khi tưới 4 lần 6-7 lá, trước phun cờ râu
với lượng nước tưới cho 4 lần 1:250 m3/ha, lần 2:300 m3/ha, lần 3 và lần 4 lượng
P

P

P

P

nước tưới thay đổi từ 300 – 450 m3/ha, cho năng suất cao 20,2 tạ/ha.
P

P

Như vậy các tác giả khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa quan hệ giữa nước và
năng suất cây trồng, điều thống nhất nhận định nước là yếu tố quan trọng là tăng
năng suất cây trồng, đặc biết là trong các điều kiện thâm canh.
1.1.4. Mối quan hệ giữa đất và nước trong sản xuất nông nghiệp bền vững.
B
7
1

FAO (1988) đưa ra quan điểm phát triển nông nghiệp bền vững: “ Phát triển
bền vững là sự quản lý và bảo vệ cơ sở của nguồn lợi tự nhiên và phương hướng
của sự thay đổi kỹ thuật và thể chế bằng cách nào đó để đảm bảo thỏa mãn nhu cầu
của con người cho thế hệ hôm nay và cả thế hệ mai sau”
Theo FAO (1992) cho con người là yếu tố hạn chế đối với gần 600 triệu ha đất
canh tác có khả năng thích hợp với trồng trọt trên thế giới. Nhiều dự án tưới nước
khơng được hồn tồn trọn vẹn như mong muốn do khai thác quản lý không hiệu

quả theo lẽ thường là gần 60% nước tưới được dùng vào quá trình thoát hơi nước
mặt lá của cây. Mặt khác việc tưới nước không đúng đã gây ra ô nhiễm môi trường
sinh thái.
Giữ nơng nghiệp bền vững và mơi trường có mối quan hệ bổ sung lẫn nhau
và có tác dụng qua lại với nhau. Ở nhiều nơi sức ép môi trường ngày càng tăng và
người ta lo lắng về tính bền vững của nền nơng nghiệp có tưới do đất bị ngập úng,
hóa mặn, xói mịn…làm mất đi tính đa dạng sinh học, các bệnh tật do nước gây ra
xuất hiện làm tổn hại tới sức khỏe con người.
Tuy nhiên việc mở rộng diện tích sản xuất lương thực trong tương lai có
tăng lên hay khơng là tùy thuộc vào việc tưới tiêu và quản lý nước một cách khôn
khéo, đồng thời là việc duy trì tài ngun nước và mơi trường đó là hai trong các
nhiệm vụ thách thức nhất đối với nhân loại ngày nay. Vì nền nơng nghiệp được tưới
cho năng suất cao hơn và ít phụ thuộc vào những biến động thất thường của thời tiết

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

12

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

nên có tầm quan trọng đặc biệt theo quan điểm năng suất. Mở rộng nơng nghiệp có
tưới có thể đóng góp đáng kể vào việc hồn thành và ổn định việc cung cấp lương
thực cho nhân loại. Tuy vậy nguồn nước cũng cấp để mở rộng sản xuất lại có hạn,
bởi vì nền nơng nghiệp có tưới là nơi tiêu thụ nhiều nước nhất.
Bill Mollison và Reny Mia Sloy (1994), cho rằng nơng nghiệp bền vững là ít

một hệ thống thiết kế để chọn môi trường bền vững cho sự sống của con người. Cây
trồng không thể tồn tại được nếu không dựa vào một nền nông nghiệp bền vững và
đạo luật sử dụng đất. Xây dựng một nền nông nghiệp bền vững trước hết phải dựa
vào sự khảo sát tài nguyên (đất, nước), kinh nghiêm quý báu của hệ thống canh tác
truyền thống và kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Tác giả cho rằng tài nguyên đất
và nguồn nước đối với sản xuất nông nghiệp bền vững được đánh giá cụ thể như sau:
+ Tài nguyên đất: Trong hệ thống nông nghiệp bền vững, đất không coi là
một nhân tố hạn chế nghiêm trọng, nếu được quan tâm chú ý qua vài năm, sinh thái
đất có thể được thay đổi và cải thiện.
Loại đất được coi là ít giá trị hoặc hồn tồn vơ giá trị thì bao giờ cũng có
những loại cây tiên phong đến chiếm lĩnh trên những đất đó ( cây ơliu, cây mận mọc
trên đá sỏi, cây hồ đào mọc ở đất bịi úng, cây bồ kết tây mọc ở trên đất rất kiềm).
Ở bất khu vực hoặc bất cứ địa đỉểm nào cũng cần điều tra cơ bản về: độ pH,
khả năng tiêu thủy, các loại cây mọc trên đất từ đó quyết định những loại cây có thể
trồng và áp dụng phương pháp cải tạo đất.
Đất đồi trọc trơ sỏi đá là đất đã bị lỏng do sự can thiệp của con người và súc
vật đã phá cân bằng sinh thái. Đất trọc đã bị bức xạ mặt trời, gió, nước rửa trơi xói
mịn. Canh tác nên trên đất này khơng những thúc đẩy mạnh q trình thối hóa mà
cịn phá hủy đất nhiều hơn. Để phục hồi được lọai đất này cần phải phịng cháy, xói
mịn bằng cách che phủ đất, trồng rừng tăng chất hữu cơ ở đất, làm cho đất tơ xốp
và thay đổi độ pH của đất…
+ Nguồn nước: Nguồn nước ảnh hưởng đến nông nghiệp bền vững trên mọi
mặt và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lượng mưa và phân phối mưa trong địa phương;

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ


13

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

khả năng giữ gìn nước và tiêu nước của đất; tình hình che phủ đất; hướng nước chảy
và phân phối nước; chuyển dịch cơ cấu cây trồng và trữ nước đất khô hạn.
Trong sản xuất nông nghiệp phải xác định được nguồn nước và cơng trình
giữ nước (đập nước, bể nước). Trong điều kiện có thể dùng độ dốc (hoặc bể) để dẫn
nước tới điểm sử dụng.
Trồng những loại cây trồng thích hợp để giảm bớt nhu cầu tưới như cây ơliu và
cây hạn có thể mọc ở sườn đồi khô hạn mà không yêu cầu nước trữ (nguồn nước mưa).
Hà Lương Thuần (1995) cho biết khái niệm phát triển bền vững được đề cập
lần đầu tiên năm 1987 trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi
trường và Phát triển của Ngân hàng Thế Giới. Theo báo cáo, phát triển bền vững là
sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại và không làm tổn hại đến
khả năng phát triển để thỏa mãn nhu cầu của thế hệ tương lai.
Phát triển bền vững phải đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định tài ngun
thiên nhiên, mơi trường sống. Đó khơng chỉ là sự phát triển nền kinh tế văn hóa xã
hội một cách vững chắc nhờ khoa học công nghệ tiên tiến, mà cịn đảm bảo cải
thiện những điều kiện mơi trường mà con người đáng sống và chính sự phát triển
đang dựa vào đó để ổn định lâu dài. Mọi sự lạm dụng thiên nhiên đều dẫn đến tác
hại không thể lường được.
Viên Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (1988), đã đưa ra kết quả
nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái và phát triển bền vững đó
là: nơng nghiệp được phát triển phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản (nguồn lợi tự nhiên,
lao động và vốn đầu tư); trong sản xuất nông nghiệp thâm canh trên đât có tưới đạt
hiệu quả kinh tế cao hơn mở rộng thêm diện tích trên đất khơng tưới; các tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong thời gian tới phải nhằm chủ yếu vào việc khai thác tiềm năng đất
đai, khí hậu, nguồn nước, lao động và nâng cao hiệu quả của việc đầu tư năng lượng;

việc khai thác nông nghiệp ở các vùng chủ yếu nhằm khai thác tiềm năng về nguồn
lợi tự nhiên (trong đó chủ yếu tài nguyên đất, nguồn nước) và lao động.
Đào Thế Tuấn (1988) cho rằng phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
cần phải xem xét đến sự hình thành của các vùng sinh thái khác nhau. Đối với vùng

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

14

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

đồng bằng châu thổ chủ yếu nhờ vào việc thâm canh, sự tăng trưởng trước hết tập
trung trong cây lúa, cần phải đa dạng hóa nơng nghiệp. Tác giả cho rằng hệ thống
nơng nghiệp ở đồng bằng sơng Hồng cịn được phát triền bởi vì hiện nay cịn xa mới
tới mức bão hòa, các khả năng thâm canh còn lớn. Vấn đề đặt ra với vùng này cần
phải phát triển theo các tiểu vùng sinh thái khác nhau.
Đặng Trung Thuận và Phạm Đình Quyền (1995), nghiên cứu bảo vệ tài
nguyên, môi trường và phát triển bền vững đã cho rằng cơ sở của việc phát triển bền
vững phải là:
- Giảm đến mức thấp nhất sự khánh kiệt tài nguyên môi trường, đảm bảo sử
dụng lâu dài dạng tài nguyên không tái tạo bằng cách tái chế, tránh sử dụng lãng phí.
- Bảo tồn tính năng đa dang di truyển của các lọai động vật, thực vật, nuôi
trồng cũng như hoang dã, bảo đảm sử dụng lâu bển tài nguyên tái tạo. Duy trì các
hệ sinh thái thiết yếu đảm bảo cho cuộc sống cộng đồng.
- Nếu có điều kiện duy trì các hệ sinh thái tự nhiên. Phục hồi mơi trường đã

suy thóai, giữ cân bằng các hệ sinh thái. Sản xuất nông nghiệp muốn đạt hiệu quả
cao và bền vững phải dựa trên cơ sở khai thác hợp lý, hài hòa tài nguyên đất và tài
nguyên nước. Theo khả năng về tài nguyên đất và nguồn nước các vùng có thể ở
trong các trường hợp sau
* Trường hợp 1: Nguồn nước phong phú, đất canh tác không bị hạn chế.
Trong trường hợp này khai thác cung cấp nước phải tính tốn để thu được thuận lợi
cao nhât trên 1 ha, cũng có nghĩa lợi nhuận lớn nhất trên tổng diện tích được tưới.
* Trường hợp 2: Nguồn nước phong phú, đất canh tác không bị hạn chế,
không mở rộng được. Trong khi đó nhu cầu sản xuất lương thực, thực phẩm ngày
một nhiều, do vậy khai thác đất đai phải theo hướng sản xuất được nhiều sản phẩm
nhất trên 1 ha.
* Trường hợp 3: Nguồn nước bị hạn chế, đất nông nghiệp lớn, phải chọn 1
trong hai hướng:
- Tưới nước đủ trên một phạm vi nhất định.
- Rút bớt nước tưới cho 1 ha nhưng mở rộng được diện tích tưới.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

15

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

Cần phải lựa chọn một hướng thích hợp nhằm sử dụng nước hạn chế và tạo ra
sản phẩm cao nhất trên đơn vị diện tích.
* Trường hợp 4: Nguồn nước và đất nông nghiệp bị hạn chế. Trong trường

hợp này cần xem xét, tính tóan thế nào để sản lượng thu được trên 1m3 nước cung
P

P

cấp là lớn nhất.
Để giải quyết các trường hợp trên cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
Bằng lý thuyết có thể xây dựng phương pháp đánh giá các trường hợp đó với giả
thiết dự án tưới cho vùng khô hạn và độc canh. Trước hết ta vẽ đồ thị quan hệ giữa
giá trị sản phẩm P (đường cong I) và lãi suất B (đường cong II) lượng nước cần
thiết cung cấp cho 1ha Q (m3/ha) thể hiên hình 1.2.
P

P

w

Hình 1.2: Quan hệ giữa lượng nước cung cấp cho 1 ha và lãi xuất, giá trị sản phẩm
Q o : Lượng nước tối thiểu cần cung cấp để bắt đầu cho năng suất.
R

R

Q M : Lượng nước cung cấp cho giá trị sản phẩm lớn nhất (trường hợp 2)
R

R

Q m : Lượng nước cung cấp cho giá trị lãi suất lớn nhất (trường hợp 1)
R


R

Q v : Lượng nước cung cấp cho 1 ha đạt lãi suất lớn nhất (trường hợp 3)
R

R

Q w : Lượng nước cung cấp cho giá trị sản phẩm lớn nhất (trường hợp 4).
R

R

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

16

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

1.1.5. Phát triển nông nghiệp bền vững trên thế giới và Việt Nam
B
8
1

Hiện nay phát triển bền vững được sử dụng như là điểm xuất phát để xem xét

một cách sâu rộng hơn các vấn đề kinh tế học, môi trường và xã hội. Cách tiếp cận
phát triển bền vững ngày càng được chấp nhận trong các ngành chuyên môn trong
đó có vấn đề phát triển bền vững trong nơng nghiệp.
Nông nghiệp bền vững sẽ phải thực hiện trong giới hạn của tự nhiên mà
không chống lại chúng. Điều này có nghĩa là làm cho việc sử dụng đất hợp lý với
những hạn chế của môi trường. Kế hoạch sản xuất không vượt quá khả năng hấp thụ
và thải lọc của môi trường. Sử dụng đất hợp lý là một bộ phân quan trọng hợp thành
chiến lược phát triển nông nghiệp bề vững. Những phương thức sử dụng đất hợp lý,
cùng các quá trình thổ nhưỡng đặc trưng do tác động của các yếu tố vữ trụ đã làm
cho đất đã và đang trong q trình thóai hóa là: thóai hóa do rửa trơi, nhiễm phèn,
mặn, do bón phân khơng hợp lý, bảo vệ và bồi dưỡng đất, xem đó là một bộ phận
quan trọng hợp thành chiến lược sử dụng đất trên quan điểm sinh thái và phát triển
bền vững. Ngày nay, ý nghĩa của từ bền vững không chỉ bao hàm cho cộng đồng
nơng thơn mà cịn cho cả thành thị, ở môi trường thiên nhiên và xã hội nói chúng.
Kinh nghiệm của các nước châu Á trong 2 thập kỷ qua đã minh chứng về cái giá đắt
phải trả do tốc độ phát triển quá nhanh mà khơng tính hết sự bền vững lâu dài về xã
hội và môi trường.
Trong thời gian gần đây, các nhà khoa học Việt Nam đã quan tâm ngày càng
nhiều hơn đến vấn đề phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Một số nhà khoa
học đã đưa ra nội dung của nền nông nghiệp bền vững bao gồm:
- Một nền nông nghiệp biết giữ gìn, phát triển bồi dưỡng sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên của nông nghiệp, đặc biệt là đất và nguồn nước.
- Một số nền nơng nghiệp có trình độ thâm canh cao, biết kết hợp hài hòa giữa
việc sử dụng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học với
kinh nghiệm và truyền thống sản xuất của người nông dân để tạo ra ngày càng nhiều
các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng tốt cung cấp cho xã hội.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1



Luận Văn Thạc Sĩ

17

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

- Một số nền nông nghiệp sạch, biết hạn chế một cách tối đa việc sử dụng các
hóa chất có hại đến môi trường và sức khỏe con người. Kết hợp một cách hài hòa
việc phát triển sản xuất với bảo vệ và tôn tạo môi trường. Các sản phẩm do nông
nghiệp làm ra cung cấp cho người tiêu dùng phải là những sản phẩm sạch, có tác
dụng tăng cường nhanh sức khỏe con người.
- Một nền nơng nghiệp có cơ cấu cây trồng và vật nuôi hợp lý, phù hợp với
đặc điểm và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng. Cơ cấu này phải đảm bảo cho nông
nghiệp khai thác được tối đa lợi thế so sánh, bảo đảm cho nơng nghiệp phát triển
tồn diện với tốc độ nhanh.
- Sự bền vững theo khái niệm kinh tế ám chỉ một mối quan hệ ổn định và thỏa
mãn giữa sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng
Khung đánh giá sử dụng đất bền vững
Một khuôn khổ để đánh giá giải pháp quản lý đất bao gồm ít nhất có ba mặt là
(i) lợi ích, đây là giải pháp quản lý đất có đáp ứng được u cầu bảo vệ mơi trường,
có đem lại lợi ích bao nhiêu cho con người (ii) thời hạn, đây là giải pháp có sớm đạt
được bền vững hay khơng và (iii) hỗ trợ của chính sách, đây là giải pháp có thể thực
hiên được trong khn khổ tổ chức và chính sách quốc gia hay khơng. Khung đánh
giá và quản lý đất dốc bền vững đã được đề xuất từ năm 1991, trong đó 5 thuộc tính
của khái niệm bền vững được xem xét là: tính sản xt hiệu quả, tính an tồn, tính
bảo vệ, tính lâu bền và tính chấp nhận. Nhóm cơng tác về khung đánh giá quản lý
đất dốc bền vững (Nairobi, 1991) đưa ra đinh nghĩa sau: “ Quản lý bền vững đất đai
bao gồm tổ hợp các cơng nghệ, chính sách và họat động nhằm liên hợp với các

nguyên lý kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời duy trì hoặc
nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất), giảm rủi ro sản xuất ( an toàn), bảo vệ tiềm
năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thái hóa đât và nước (bảo vệ), có hiệu quả
lâu dài ( lâu bền) và được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận)”. Tính bền vững và
tính thích hợp có quan tâm với nhau, tính bền vững có thể được coi là tính thích hợp
được duy trì lâu dài với thời gian. Tính bền vững cịn có quan hệ với tính ổn định,
một số yếu tố khá ổn định (như địa chất), một số khác về kinh tế như lợi nhuận, sâu

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

18

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

bệnh rất khơng ổn định. Tính ổn định được xem như mơi trường của sự biến đổi
trong khi tính bền vững là sự cân bằng giữa những biến đổi tích cực và tiêu cực. Sử
dụng đất được coi là bền vững khi nó duy trì được một cân bằng dương theo thời
gian giữa những tương tác này. Về thời gian, người ta thường phân ra:
Khái niệm về phát triển bền vững tài nguyên nước
Khái niệm về phát triển bền vững tài nguyên nước có thể được hiểu như sau
“phát triển bền vững tài nguyên nước là khai thác và sử dụng tài nguyên nước phục
vụ cho các hoạt động phát triển mà không làm cạn kiệt và ô nhiễm môi trường nước”
Nội dung phát triển bền vững tài nguyên nước
Áp dụng tiêu chuẩn bền vững đánh giá việc phát triển bền vững tài nguyên
nước là một vấn đề rất phức tạp cần phải có đầy đủ thơng tin, nhất là ở nước ta đang

có sự chuyên đổi cơ cấu từ bao cấp sang cơ chế thị trường. Bài tóan phát triển bền
vững là bài tóan kinh tế xã hội nhiều chiều. Trong thực tế chỉ chọn những chiều cơ
bản mang tính trội cao để đảm bảo cho việc phát triển bền vững tài nguyên nước.
Xác định tiêu chuẩn bền vững tài nguyên nước trên cơ sở các nội dung như sau:
- Sử dụng nước có hiệu quả, tiết kiệm bằng hệ thống cơng trình hợp lý về thiết
kế, đảm bảo hiện đại hóa về kỹ thuật để chống việc tổn thất rị rỉ.
- Áp dụng các quy trình cơng nghệ tiên tiến để sử dụng nước nhiều lần.
- Sử dụng nhiều biện pháp kỹ thuật, hóa học, sinh học, sinh hóa để sử lý nước
thải cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Phương hướng chính để giải quyết vấn đề
bảo vệ nguồn nước là tìm biện pháp cơng nghệ sản xuất hợp lý để giảm lượng nước
thải và nồng độ nhiễm bẩn trong nước, đồng thời nghiên cứu các biên pháp xử lý
nước thải có hiệu suất cao, dùng lại nước bẩn nhiều lần.
- Bảo vệ rừng đầu nguồn phục hồi các hệ sinh thái rừng, phủ xanh đât trống
đồi trọc.
- Xác định mức độ cho phép sử dụng nước trong lưu vực để trả lại dòng chảy,
sự cân bằng đảm bảo tính hệ thống trong sử dụng.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

19

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

1.2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về đánh giá tài
B

9
1

nguyên đất và nước.
1.2.1. Những nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất, nước trên thế giới
B
0
2

Từ những thập niên 50 của thế kỷ hai mươi, đánh giá khả năng sử dụng đất
được xem như là bước nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điểm đất. Xuất
phát từ những nỗ lực riêng lẻ của từng quốc gia, về sau phương pháp đất đai được
nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới và các tổ chức quốc tế quan tâm, do vậy
trở thành những chuyên ngành một trong nghiên cứu quan trọng và đặc biệt gần gũi
với những nhà quy hoạch, người hoạch định chính sách đất đai và người sử dụng
Phân loại khả năng thích nghi đất có tưới của Cục Cải tạo đất đai – Bộ nông
nghiệp Mỹ biên soạn năm 1951. Trong phân loại này, ngoài đặc điểm đất đai, một
số chỉ tiêu kinh tế định lượng cũng được xem xét nhưng giới hạn ở phạm vi thủy
lợi. Bên cạnh đó, khái niệm “khả năng đất đai” cũng được mở rộng trong công tác
đánh giá đất đai Hoa Kỳ, do Klingebiel và Montgomery (Vụ Bảo tồn đất đai – Bộ
Nông nghiệp Mỹ ) đề nghị năm 1964. Trong đó, các đơn vị bản đồ đất được nhóm
lại đưa vào khả năng sản xuất một loại cây trồng hay thực vật tự nhiên nào đó, chỉ
tiêu chính là các hạn chế của lớp phủ thổ nhưỡng đối với mục tiêu canh tác được đề
nghị. Đây là một dạng đánh giá đất với loại hình sử dụng đất.
Liên Xơ cũ và các nước Đông Âu, từ những thập niên 60 thế kỷ 20 việc phân
hạng và đánh giá đất đai cũng được thực hiện, bao gồm 3 bước như sau:
+ Đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng (so sánh các loại thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên).
+ Đánh giá khả năng sản xuất của đất đai (yếu tố được xem xét kết hợp với khí
hậu, độ ẩm, địa hình,…).
+ Đánh giá kinh tế đất (chủ yếu đánh giá khả năng hiện tại của đất đai).

Phương pháp này thuần túy quan tâm đến khía cạnh tự nhiên của đối tượng đất đai,
chưa xem xét đầy đủ đến khía cạnh kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất đai.
Từ những năm 70 của thế kỷ hai mươi các nhà nghiên cứu đánh giá đất thấy
rằng cần thống nhất và tiêu chuẩn hóa việc đánh gìá đất đai quốc tế. Do đó, có 2 Ủy
ban nghiên cứu được thành lập ở Hà Lan và ở FAO (Rome, Ý), và kết quả cho ra

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

20

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

một dự thảo đầu tiên và đánh giá đất (FAO, 1972) sau đó được Brinkman và Smyth
biên soạn lại và in ấn năm 1973 và đến năm 1975 được các chuyên gia hàng đầu về
đánh giá đất đai của FAO biên soạn lại để hình thành nội dung phương pháp đầu
tiên của FAO về đánh giá đất đai công bố năm 1976, sau đó được bổ sung và chỉnh
sửa năm 1983. Bên cạnh những tài liệu tổng quát, một số hướng dẫn cụ thể khác về
đánh giá đất đai cho từng đối tượng chuyên biệt cũng được FAO ấn hành như:
- Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ mưa (land Evaluation for Rainfed
Agriculture,1984).
- Đánh giá đất đai cho nền nơng nghiệp có tưới (land Evaluation for Irrigated
Agriculture,1985).
- Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp đối với sự phát triển (land Evaluation
for Development,1986).
- Đánh giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác để quy hoạch sử dụng đất

(land Evaluation and Farming System Analysis for Land Use Planning,1994).
Ngày nay, công tác đánh giá đất đai được thực hiện ở nhiều quốc gia và trở
thành một khâu trọng yếu trong tiến trình 10 bước nhằm soạn thảo các phương án
quy hoạch sử dụng đất đai của một vùng lãnh thổ (FAO, 1993).
Ernst Muter và Thomas Fairhurt (1997), nghiên cứu đánh giá đưa ra số liệu ở
bảng 1.4, cho thấy ở Đơng Nam Á năm 1995 có 479 triệu người, dự báo đến năm
2010 có 612 triệu người, tổng diện tích đất đai 447 triêu ha. Diện tích đất có khả
năng trồng trọt được có 175 triệu ha, diện tích đất đang trồng trọt 82 triệu ha, diện
tích đất cịn có khả năng trồng trọt cịn 93 triệu ha chiếm 53% so với diện tích có
khả năng trồng trọt được.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

21

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

Bảng 1.4: Dân số và tiềm năng đất nông nghiệp của Đơng Nam Á
Có khả
Nước

Dân số

Diện tích


năng

(triệu người)

(triệu ha)

trồng
trọt

Năm1995 Năm2010
Cămpuchia

Hiện
đang
trồng

Cân đối
(cịn lại)

% của tiềm
năng diện tích
trồng trọt

triệu ha

9

12

18


10

3

7

70

195

247

191

58

23

35

60

Lào

5

7

24


7

1

6

86

Philippin

70

92

30

17

12

5

29

Thái Lan

60

72


51

27

19

8

30

Việt Nam

74

97

33

14

8

6

43

Đơng Nam Á

479


612

447

175

82

93

53

Indonexia

FAO (1995) cho rằng việc đánh giá sử dụng đất và nước làm cơ sở xác định sự bền
vững đối với khu vực có vai trị điều tiết và duy trì các chức năng quan trọng về
thủy lợi và sinh thái của các hệ thống sông mang lại lợi ích cho các đối tượng sử
dụng khác nhau trong sản xuất nông nghiệp. Các chỉ tiêu dùng để đánh giá:
- Chế độ nước (nước mặt , nước ngầm).
- Trữ lượng chứa của các đầm hồ thuộc vùng đầu nguồn.
- Tỷ lệ diện tích che phủ đất.
Piere, Dumanski, Hamblin (1995) đã nghiên cứu đánh giá việc duy trì hoặc
nâng cao độ phì của đất sản suất nơng nghiệp, theo các chỉ tiêu:
- Chiều hướng diễn biến về độ mặn, kiềm, chua trong đất.
- Độ phì tiềm tàng và độ phì hiện tại về phương diện hóa tính
- Độ thơng thống của đất như tình trạng yếm khí, háo khí trong đất.
Tác giả còn cho biết thêm để đánh giá hệ thống sản suất cây trồng nhằm xác
định tính khả thi về mặt kinh tế của hệ thống cây trồng và sự phù hợp ở mức độ cao
của hệ thống đó, dùng các chỉ tiêu:

- Sự thích hợp của thổ nhưỡng đối với cây trồng được xác định.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

22

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

- Khả năng cung cấp nước cho cây trồng.
- Tính cấp thiết của nhu cầu thị trường với các hệ thống cây trồng.
- Khả năng trình độ hiểu biết trong các hoạt động nông nghiệp.
- Các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp.
Nguyễn Sinh Cúc (1995) cho biết đánh giá việc khai thác, sử dụng tài nguyên
đất và nước trong sản xuất nông nghiệp trên thế giới, thông qua đánh giá diện tích đất
nơng nghiệp được thủy lợi hóa. Trên thế giới đất nơng nghiệp được thủy lợi hóa tăng
từ 216.790.000 ha năm 1982 lên 249.624.000 ha năm 1992, tốc độ tăng bình quân từ
năm 1982 đến 1992 là 1,4% trong đó các nước đang phát triển tăng 1,7% năm.
Thomas Peter Men và Erwin Genter Jily (1996) cho biết đánh giá tài nguyên
nước để làm cơ sở sử dụng bền vững, đánh giá mức độ hiệu quả của các nguồn
nước sản xuất nông nghiệp, giảm được tối thiểu những mâu thuẫn trong việc sử
dụng quá mức tài nguyên nước. Trong đánh giá cần dùng các chỉ tiêu:
-

Sự cân bằng về nước mặt và nước ngầm.


-

Mức độ ô nhiễm nước mặt và nước ngầm.

-

Mức độ lắng đọng, bồi tụ trong các khu hồ chứa.

1.2.2. Những nghiên cứu đánh giá đất tài nguyên, nước ở Việt Nam
B
1
2

1.2.2.1. Những nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất ở nước ta
B
2

Bùi Quang Toản và cộng sự (1995) trong nghiên cứu đánh giá và quy hoạch
sử dụng đất khai hoang ở Việt Nam, phân loại khả năng thích hợp đất đai (Land
Suitability classification) của FAO được áp dụng, tuy nhiên chỉ đánh giá các điều
kiện tự nhiên (đặc điểm thổ nhưỡng, điều kiện thủy văn và tưới tiêu, khí hậu nơng
nghiệp). Trong nghiên cứu này, hệ thống phân vị chỉ dừng lại ở mức phân lớp thích
nghi cho từng loại hình sử dụng đất.
Trần An Phong và cộng sự (1995) cho biết trên quy mô cả nước những
nghiên cứu về tài nguyên đất ở Việt Nam đã bắt đầu được trình bày trong các văn
bản quốc gia từ thế kỷ X của Nguyễn Trãi (Dư Địa Chí), Lê Q Đơn, Lê Tắc,
Nguyễn Nghiêm,… bên cạnh đó những trí thức về đất đai trong nhân dân cũng được
tích lũy và truyền lại trong nền văn học dân gian. Tuy nhiên những nghiên cứu đất

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải


Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

23

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

đai hoàn chỉnh ở Việt Nam chỉ bắt đầu thực hiện từ thời Pháp thuộc, để phục vụ
công cuộc khai thác tài nguyên tại thuộc địa. Trên toàn lãnh thổ Đông Dương, một
số nghiên cứu tổng quát về đất đã được Viện Nghiên cứu Nông –Lâm nghiệp Đông
Dương thực hiện nhằm thiết lập các đồn điền trồng cây ngắn ngày và dài ngày. Năm
1957, Fridland và Vũ Ngọc Tuyên, Tôn Thất Chiểu, Đỗ Ánh, Trần Văn Nam,
Nguyễn Văn Dũng đã tiến hành khảo sát và xây dựng sơ đồ thổ nhưỡng Miền Bắc
Việt Nam (tỷ lệ 1/1.000.000) kèm theo tài liệu về “các quá trình thổ nhưỡng ở Miền
Bắc Việt Nam xuất bản 1963.
Năm 1963, phân vùng địa lý – thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam được Friland,
Lê Duy Thước thực hiện và công bố tại Maxcơva (Liên Xô cũ). Sau đó, ban biên
tập bản đồ Việt Nam đã biên soạn được bản đồ đất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ
1/500.000) tổng kết các kết quả điều tra từ cấp tỉnh, huyện và các nông trường –
trạm trại (Cao Liêm, Đỗ Bình Thuận, Nguyễn Bá Nhuận).
Fridland tập hợp các kết quả nghiên cứu đất Việt Nam trong cuốn “Đất và vỏ
phong hóa nhiệt đới ẩm Việt Nam” (bản tiếng Việt 1973 và cộng sự, 1991) vẫn
được xem là tài liệu mô tả đầy đủ nhất về đặc điểm và quy mô của tài nguyên đất
vùng đồng bằng sông Hồng.
Từ những năm 1960 trở lại đây, những nghiên cứu về đánh giá khả năng sử
dụng đất đai bắt đầu tiến hành ở Việt Nam, một số cơng trình đã đặt nền tảng cho
việc nghiên cứu và khả năng sử dụng đất ở Việt Nam.

Tôn Thất Chiểu (1996) nghiên cứu đánh giá phân hạng đất khái quát toàn
quốc, thực hiện ở tỷ lệ 1/500.000, chủ yếu dựa vào nguyên tắc phân loại khả năng
đất đai (land capability classification) của Bộ Nông nghiệp Mỹ, chỉ tiêu sử dụng đất
đai tổng hợp. Có 7 nhóm đất có thể sử dụng cho sản xuất nơng nghiệp và nhóm cuối
cùng có thể sử dụng cho mục đích khác.
Kết quả đánh giá sử dụng tài nguyên đất năm 1996 để phát triển kinh tế xã
hội nước ta cho thấy: Trong tổng diện tích tự nhiên 33.104.200 ha, đã sử dụng sản
xuất nông nghiệp 7.367.200ha, sản xuất lâm nghiệp có 9.915.100 ha, đất chuyên
dùng có 1.122.200 ha, đất khu dân cư nơng thơn và đơ thị có 717.500 ha, đất chưa

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

24

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

sử dụng cịn 13.982.200ha (trong đó có khả năng nơng nghiệp 3.025.700 ha, khả
năng lâm nghiệp 9.264.500 ha).
Trong đất đai nghiên cứu cấp nhà nước “đánh giá hiện trạng sử dụng đất trên
quan điểm, sinh thái và phát triển lâu dài” ở Việt Nam năm 1993-1995, Trần An
Phong và các cộng sự đã ứng dụng các phương pháp đánh giá đất của FAO (1992)
để đánh giá đất của 9 vùng sinh thái nông nghiệp của cả nước, đã đưa ra kết quả quy
mơ diện tích đơn vị đất đai trên các nhóm đất chính của Việt Nam.
Nhìn chung các nghiên cứu về đánh giá đất đai ở Việt Nam trong thời gian
qua không nhiều, song đây là hướng tiếp cận mới với mục tiêu sử dụng tối ưu tài

nguyên đất đai ở nước ta. Những nghiên cứu hiện nay cho thấy:
- Các kết quả đất đai ở những vùng lớn chỉ dừng lại ở mức định tính, chỉ tập
trung vào đánh giá các yếu tố tự nhiên có liên quan đến sử dụng tài nguyên đất.
Đánh giá đất đai định lượng với các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mới chỉ được sử dụng
hạn chế ở những điểm nghiên cứu nhỏ, mang tính thử nghiệm.
- Phương pháp đánh giá đất đai của FAO (1976, 1983) đã đưa ra một tiến
trình ngun tắc để xem xét khả năng thích nghi đất đai đối với các loại hình sử
dụng đất khác nhau. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam một số vấn đề cần được
giải quyết trong quá trình vận dụng phương pháp nay.
+ Lựa chọn loại sử dụng đất có triển vọng, cơ sở để phân tích các đặc trưng
kinh tế - xã hội của các loại hình sử dụng đất (đầu tư cơ bản, chi phí sản xuất, lợi
nhuận) được thực hiện trong nhiều điều kiện tự nhiên biến động khác nhau ở cùng
một vùng nghiên cứu và các thức lựa chọn loại hình sử dụng đất có triển vọng thoả
mãn các nguyên tắc do FAO đề ra.
+ Đánh giá định hướng kinh tế các khái niệm thích nghi đất đai: Cách thức
tổng hợp các phân tích kinh tế trong quá trình đánh giá các yếu tố tự nhiên của tài
nguyên đất đai để phân loại khái niệm thích nghi.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


Luận Văn Thạc Sĩ

25

GVHD: Lê Thị Nguyên, Lê Thị Châu Hà

1.2.2.2. Những nghiên cứu đánh giá tài nguyên nước nước ở Việt Nam

B
3
2

Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1993) khi nghiên cứu đánh giá tài
nguyên nước mặt đã kết luận tài nguyên nước mặt của Việt Nam phong phú được
thể hiện sau: nếu tính các sơng có chiều dài từ 10 km trở lên và có dịng chảy
thường xun trên lãnh thổ Việt Nam thì có tới 10.000 km2 trở lên như: sông Bằng
P

P

Giang, sông Kỳ Cùng, sông Hồng, sơng Thái Bình, sơng Cả, sơng Mã, sơng Thu
Bồn, sông Đồng Nai và sông Mê Kông. Tuỳ thuộc vào địa hình, vị trí địa lý và sự
phân bố lượng mưa, mật độ lưới sơng có khác nhau. Mật độ trung bình đạt 0,6
km/km2, mật độ này phân hóa giữa các vùng từ 0,3km/km2 đến 4,0km/km2. Bờ biển
P

P

P

P

P

P

nước ta dài 3260km, là nơi kết thúc không những của các sông suối được hình thành
trên lãnh thổ Việt Nam mà cịn là nơi kết thúc của các con sông lớn xuất phát từ các

nước láng giềng chảy qua Việt Nam rồi đổ ra biển. Vùng rừng núi Việt Nam không
chỉ là nơi bắt nguồn của các con sông nằm trọn vẹn trong nội địa Việt Nam mà còn
là nơi bắt nguồn các con sông đổ sang các nước láng giềng. Với những ngun nhân
trên sơng ngịi Việt Nam có thể chia làm 3 nhóm sơng như sau:
* Nhóm 1: Nhóm hệ thống sông mà thượng nguồn của lưu vực nằm trong
lãnh thổ Việt Nam gồm 2 hệ thống sông:
-Hệ thống sông đổ về sông Tây Giang của Trung Quốc gồm Quang Sơn, Bắc
Vọng, Cao Bằng, Kỳ Cùng với diện tích lưu vực khoảng 13.180km2.
P

P

-Hệ thống sông nhánh thuộc thượng nguồn sông Mê Kơng gồm Nậm Rốm,
SêKơng, Sêsan, Serepok có diện tích lưu vực khoảng 31.375 km2, chiếm 4% tổng
P

P

diện tích tồn lưu vực sơng Mê Kơng.
* Nhóm 2: Nhóm hệ thống sông mà trung và hạ lưu nằm trong lãnh thổ Việt
Nam bao gồm:
- Hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình với tổng lưu vực là 168.700km2,
P

P

trong đó diện tích lưu vực nằm trong lãnh thổ Việt Nam là 86.500km2, chiếm 51,5%
P

P


tổng diện tích tồn lưu vực sơng Hồng.

Học viên thực hiện: Nguyễn Văn Hải

Lớp 17Q1


×